Khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

14/11/2023 22:16

TS NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCT) - Bài viết nêu tính tất yếu, yêu cầu bức thiết phải khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; phân tích thực trạng và đề xuất giải pháp khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong thời gian tới.

Khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung là yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay - Ảnh: dangcongsan.vn

Khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung nhằm phát hiện, lựa chọn, thu hút, trọng dụng nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, tầm nhìn chiến lược, có uy tín cao và thực sự tiên phong gương mẫu trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao là yêu cầu bức thiết trong giai đoạn hiện nay.

1. Tính tất yếu phải khuyến khích và bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Cán bộ là những người tổ chức và lãnh đạo hoạt động thực tiễn, là trụ cột trong mọi giai đoạn cách mạng của đất nước. Đổi mới cơ chế phát hiện, lựa chọn, trọng dụng và thu hút nhân tài để xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức trong sáng, tầm nhìn chiến lược, năng lực nổi bật, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, hành động vì lợi ích chung, có uy tín cao và thực sự tiên phong gương mẫu trong thực hiện chức trách nhiệm vụ được giao là yêu cầu bức thiết để xây dựng đội ngũ cán bộ giai đoạn hiện nay.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nhất quán quan điểm khuyến khích tinh thần đổi mới, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, nhân dân đóng góp cho sự phát triển của đất nước. Từng bước hoàn thiện cơ chế, chính sách, pháp luật nhằm khơi dậy, động viên, khích lệ tinh thần đổi mới sáng tạo, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách vì lợi ích chung của cán bộ, đảng viên.

Đại hội V của Đảng (1982) đặt ra tiêu chuẩn đối với cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp cần phải có “tinh thần dám quyết định và dám chịu trách nhiệm để hoàn thành nhiệm vụ”(1). Đối với những vấn đề khó, phức tạp, quan trọng, mới chưa có tiền lệ thì “cần được Bộ Chính trị, Ban Bí thư trực tiếp chỉ đạo làm thử, lấy kết quả thực tế của việc làm thử mà ra quyết định”(2).

Việc thực hiện “làm thử” để giải quyết những yêu cầu cấp bách của cuộc sống, đồng thời cung cấp cơ sở thực tiễn cho việc hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách phù hợp.

Vấn đề “dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm” cũng là tiêu chuẩn hàng đầu của người cán bộ lãnh đạo, được nêu trong Nghị quyết số 05-NQ/HNTW, ngày 20-6-1988. Nghị quyết nêu rõ: "Tiêu chuẩn hàng đầu của cán bộ lãnh đạo là phẩm chất chính trị, trước hết thể hiện ở lòng trung thành với đường lối của Đảng, ở thái độ tích cực đối với công cuộc đổi mới, ở sự trung thực đối với Đảng; có quyết tâm cao trong việc thực hiện các nghị quyết của Đảng, có lối sống trong sạch, lành mạnh; có kiến thức và năng lực tiếp thu và cụ thể hóa các nghị quyết của Đảng vào lĩnh vực mình phụ trách, biết tổ chức và điều hành công việc, có khả năng đoàn kết cán bộ; có phong cách dân chủ tập thể, biết lắng nghe ý kiến quần chúng, sâu sát quần chúng và cơ sở; có ý thức tổ chức kỷ luật, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, nói đi đôi với làm".

Trước yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, trong giai đoạn mới có nhiều vấn đề khó, phức tạp, đòi hỏi thận trọng trong từng bước triển khai. Đảng ta tiếp tục xác định thí điểm là việc cần làm, từ đó cung cấp cơ sở thực tiễn vững chắc để Nhà nước tiếp tục bổ sung, hoàn thiện hệ thống cơ chế, chính sách, pháp luật phù hợp thực tế. Từ đó, nhiều chủ trương, mô hình thí điểm đã được tổ chức thực hiện: Đại hội X của Đảng (2006) cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân(3); Đại hội XI của Đảng (2011) nêu rõ: “Thực hiện thí điểm việc kết nạp những người là chủ doanh nghiệp tư nhân đủ tiêu chuẩn vào Đảng”(4). Tại Đại hội XII của Đảng (2016), nội dung “đổi mới công tác bầu cử trong Đảng, phương thức tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ,… để lựa chọn những người có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức tốt, năng động, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo, đặc biệt là người đứng đầu”(5) đã được đề ra và thực hiện.

Để thực hiện mục tiêu xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu đáp ứng yều cầu, nhiệm vụ thời kỳ mới, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 89-QĐ/TW ngày 4-8-2017 về khung tiêu chuẩn chức danh cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, trong đó đặt ra tiêu chuẩn về “năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm và vì nhân dân phục vụ”.

Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII “về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ” lần đầu tiên nêu ra một trong những nhiệm vụ quan trọng để “Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác cán bộ” là phải “bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung”.

Tại Đại hội XIII, một trong các nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam được Đảng ta xác định: “… có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”. Trong đó, xác định đẩy mạnh thể chế đổi mới sáng tạo là nội dung cốt lõi trong đột phá chiến lược đầu tiên về hoàn thiện thể chế phát triển thời gian tới.

Quán triệ quan điểm của Đảng, Quốc hội, Chính phủ đã thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013 và các văn bản pháp luật về cơ chế, chính sách; tôn trọng, động viên, hỗ trợ về nguồn lực, tạo điều kiện thuận lợi để thực hiện hiệu quả hoạt động đổi mới, sáng tạo; ưu tiên trong bố trí, sử dụng và thực hiện chính sách cán bộ. Bên cạnh đó, trong công tác xây dựng Đảng và quản lý nhà nước, nhiều ý tưởng đổi mới, sáng tạo đã được cơ quan có thẩm quyền cho phép thực hiện thí điểm và đã đạt được những kết quả bước đầu.

Những năm qua, việc hoàn thiện kinh tế thị trường định hướng XHCN và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân vẫn còn những khó khăn, thử thách.

“Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta thực hiện còn chậm, một số quy định pháp luật, cơ chế, chính sách còn chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu ổn định, nhất quán; còn có biểu hiện lợi ích cục bộ, chưa tạo được bước đột phá trong huy động, phân bổ và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực phát triển”(6). Việc tổ chức thực hiện có nhiều vấn đề mới, chưa có kinh nghiệm, chưa được thể chế, có thể còn sai sót rủi ro, đòi hỏi cán bộ phải có bản lĩnh, năng động, sáng tạo với những phương thức mới, quyết tâm tháo gỡ những điểm nghẽn để tạo chuyển biến tích cực, mang lại hiệu quả thiết thực. Trong khi đó, “chưa có cơ chế bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đương đầu với khó khăn, thử thách, quyết liệt trong hành động vì lợi ích chung”(7), nhất là đối với việc giải quyết những vấn đề lớn, khó, phức tạp trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Ngày 22-9-2021, Bộ Chính trị ban hành Kết luận số 14- KL/TW về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Đây là cơ sở quan trọng cho việc cụ thể hóa cơ chế khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

Thực tiễn cho thấy, một số cơ chế, chính sách khuyến khích đổi mới, sáng tạo đã mang lại hiệu quả tích cực như: phong trào “Năng động, sáng tạo vì sự phát triển khoa học, công nghệ Việt Nam”, “Lao động giỏi, lao động sáng tạo”, “Đồng hành với thanh niên lập thân, lập nghiệp”, “Đoàn kết, sáng tạo, tham mưu tốt, phục vụ chu đáo, thi đua thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị”.

Để chủ trương của Đảng đi vào cuộc sống, trở thành động lực mạnh mẽ cho đội ngũ cán bộ các cấp vững tin cống hiến, phát huy bản lĩnh, trí tuệ, quyết tâm đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, thực hiện trọng trách, sứ mệnh với đất nước luôn là vấn đề cấp bách trong sự nghiệp phát triển đất nước. Do vậy, cần có cơ chế, chính sách phù hợp, thiết thực.

2. Thực trạng khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Để bảo vệ cán bộ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chiu trách nhiệm vì lợi ích chung, việc hoàn thiện pháp luật, bổ sung các quy định về xem xét miễn, giảm, không truy cứu trách nhiệm trong trường hợp xảy ra rủi ro khi thi hành công vụ là rất quan trọng.

Thời gian gần đây, Nhà nước đã ban hành nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Luật Khoa học Công nghệ; Luật Thi đua, khen thưởng; Luật Sở hữu trí tuệ; Nghị định 13/2012/NĐ-CP về Điều lệ Sáng kiến,...

Như Điều 25 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: hành vi gây ra thiệt hại trong khi thực hiện việc nghiên cứu, thử nghiệm, áp dụng tiến bộ khoa học, kỹ thuật và công nghệ mới mặc dù đã tuân thủ đúng quy trình, quy phạm, áp dụng đầy đủ biện pháp phòng ngừa thì không phải là tội phạm.

Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban hành quy định: một trong những nguyên tắc xử lý là xem xét áp dụng chính sách khoan hồng đặc biệt miễn hình phạt đối với trường hợp người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể nếu thuộc trường hợp phạm tội không vì động cơ vụ lợi hoặc động cơ cá nhân khác, mà chỉ vì muốn đổi mới, dám đột phá vì sự nghiệp phát triển kinh tế xã hội và bảo vệ Tổ quốc. Nghị định số 112/2020/NĐ-CP của Chính phủ về xử lý kỷ luật cán bộ, công chức, viên chức nêu rõ: một trong những trường hợp được miễn trách nhiệm kỷ luật là được cấp có thẩm quyền xác nhận vi phạm trong tình thế cấp thiết, do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan theo quy định của Bộ luật Dân sự khi thi hành công vụ.

Hiện nay, nhiều cán bộ làm việc trong một số lĩnh vực chịu áp lực và rủi ro trước những vướng mắc từ quy định, chính sách, pháp luật hiện hành và rất lúng túng trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Về nguyên tắc, cán bộ chỉ được thực hiện những điều mà pháp luật cho phép, chấp hành nghiêm đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Trong khi đó, yêu cầu mới, hoàn cảnh mới luôn đòi hỏi chúng ta phải vận động, thay đổi cách nghĩ, cách làm để thích ứng nhanh với cái mới. Lúc này, chỉ những người cán bộ tâm huyết, trách nhiệm mới phát hiện ra nút thắt, bất cập để đổi mới, sáng tạo, tháo gỡ. Vướng mắc, bất cập thì cần tháo gỡ ngay để tạo sự bứt phá, trong khi xin ý kiến và chờ đợi hệ thống quy định được bổ sung, hoàn thiện thường mất nhiều thời gian và khó để triển khai.

Thời gian qua, nhiều tỉnh, thành trong cả nước đã có những cách làm mới, phù hợp với yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn địa phương nhưng chưa có quy định cụ thể của Nhà nước hoặc chưa được kịp thời sửa đổi, bổ sung theo yêu cầu của thực tiễn cuộc sống. Do đó, khi các cơ quan thanh tra, kiểm tra sự vụ phát hiện các nội dung thực hiện việc đổi mới, sáng tạo này là trái với các văn bản quy định chung đã dẫn đến việc xử lý vi phạm từ cán bộ lãnh đạo đến người tham mưu. Điều này làm nhụt ý chí phấn đấu sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, thậm chí làm mất động lực và niềm tin của cán bộ để đóng góp những ý tưởng, sáng tạo phù hợp với đòi hỏi thực tiễn và vì lợi ích chung của địa phương.

Đổi mới, sáng tạo luôn đối lập với bảo thủ, trì trệ nên không dễ tạo được đồng thuận của số đông. Về cơ bản, đổi mới, sáng tạo và đột phá luôn thuộc về thiểu số, vượt trước nhận thức của số đông. Do vậy, nếu không nhận được sự đồng tình, ủng hộ của tập thể cũng như được bảo vệ thì bản thân cá nhân đổi mới, sáng tạo, dám làm, dám đột phá sẽ chịu nhiều tác động tiêu cực, kể cả các tổn thất về chính trị.

Đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm khi động chạm đến lợi ích nhóm thường bị phản ứng quyết liệt, kể cả vu khống, bôi nhọ và không loại trừ việc bị “hạ bệ” nếu không được bảo vệ kịp thời. Với những đổi mới, sáng tạo, đột phá, tháo gỡ những điểm nghẽn, nút thắt và những vấn đề chưa có quy định hoặc có quy định nhưng không còn phù hợp với thực tiễn thì hầu như chưa có quy định của Trung ương. Do đó, việc triển khai ý tưởng liên quan đến phát triển kinh tế, đổi mới công tác cán bộ còn gặp nhiều khó khăn về mặt thể chế, chính sách; cần xin ý kiến, họp bàn nhiều lần mới có thể xây dựng phương án và triển khai.

Trong khi đó, hiện nay ở nước ta chưa có văn bản quy phạm pháp luật bảo đảm sự bảo vệ đối với những cá nhân, tập thể có ý tưởng đổi mới, sáng tạo, đột phá. Việc thiếu các quy định làm cơ sở để bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung trong thời gian qua đã không khích lệ và tạo điều kiện cho các cán bộ phát huy năng lực, nhiệt huyết cống hiến cho sự nghiệp cách mạng; không tạo được động lực để đổi mới hơn nữa mọi mặt của kinh tế-xã hội, thúc đẩy đất nước phát triển. Có những cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đổi mới nhưng vẫn dè chừng vì sợ mắc phải sai sót nên không thực sự quyết liệt trong khi thực thi dẫn đến đổi mới nửa vời, thiếu hiệu quả.

Việc hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN và hệ thống pháp luật chưa theo kịp thực tiễn phát triển, còn có một số quy định mâu thuẫn, chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu đồng bộ, chưa đủ hành lang pháp lý cho đổi mới, sáng tạo. Còn có những điểm nghẽn, khoảng trống dẫn đến tổ chức thực hiện còn rủi ro, thiệt hại, dễ dẫn đến sai sót, đòi hỏi cán bộ phải có bản lĩnh với quyết tâm và cách làm mới, đột phá, trong khi một bộ phận cán bộ hiện nay có tâm lý an phận, ngại đổi mới.

Mặt khác, do tính dự báo, khả thi của hệ thống pháp luật chưa thực sự đáp ứng yêu cầu của thực tiễn, pháp luật thiếu tính ổn định, một số đạo luật thường xuyên được sửa đổi, bổ sung cũng gây nên tâm lý e ngại ở cán bộ, đảng viên trong việc đề xuất các sáng kiến, chính sách đột phá, sáng tạo, bởi việc nghiên cứu, thử nghiệm các chính sách mới thường đòi hỏi thời gian thử nghiệm, chứng minh lâu dài, nguồn lực đầu tư lớn, trong khi chính sách pháp luật nhanh thay đổi và có trường hợp không được dự báo trước.

Các quy định về khuyến khích cán bộ có năng lực, có thành tích xuất sắc trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao nhưng việc quan tâm, bố trí cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao, mang lại sản phẩm cụ thể còn mức độ, chưa đủ khích lệ, động viên.

Thực hiện chính sách thu hút, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, mang lại hiệu quả còn chưa phù hợp. Pháp luật về thi đua, khen thưởng còn thiếu các quy định có tính đột phá, chưa đủ mạnh để cán bộ, đảng viên phát huy tối đa sức sáng tạo, khả năng cống hiến cho đất nước.

Cơ chế tiếp nhận, xem xét việc thực hiện thí điểm những đề xuất đổi mới, sáng tạo của cán bộ còn bất cập. Chưa ban hành được khung pháp lý để thể chế quan điểm cho phép thử nghiệm các công nghệ mới, mô hình kinh doanh mới trong môi trường thực tiễn với phạm vi và thời gian xác định, có cơ chế quản lý, giám sát phù hợp và các phương án dự phòng xử lý rủi ro phù hợp để ngăn chặn hậu quả (nếu thí điểm thất bại), không gây ảnh hưởng chung. Thậm chí, có lúc, có nơi cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu tỏ ra e ngại, né tránh, thờ ơ với việc đưa ra những đánh giá khách quan, toàn diện, quyết định chủ trương thực hiện những ý tưởng, đề xuất mới. Việc hỗ trợ, tạo môi trường thuận lợi cho tổ chức thực hiện chưa được quan tâm. Việc sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng kịp thời mô hình, cách làm sáng tạo, hiệu quả chưa được chú trọng thường xuyên. Các quy định về miễn, giảm trách nhiệm kỷ luật, hành chính, hình sự và các quy định của pháp luật có liên quan đến chế tài trong trường hợp gặp phải rủi ro trong quá trình đổi mới, sáng tạo còn chưa đầy đủ. Trong khi đó, pháp luật về chế tài xử lý hình sự, xử lý kỷ luật đối với cán bộ, đảng viên vi phạm được quy định theo hướng ngày càng chặt chẽ, tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Điều này dẫn đến xu hướng người có tài năng, tâm huyết, có tinh thần trách nhiệm phần nào e ngại, không dám đổi mới, sáng tạo.

3. Giải pháp khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về sự cần thiết và trách nhiệm đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Xác định đổi mới, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá, sẵn sàng đương đầu với khó khăn, thử thách, luôn nỗ lực hành động vì lợi ích chung là phẩm chất cần có của cán bộ, đảng viên nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý. Cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức trong hệ thống chính trị khích lệ cần tinh thần, niềm tin, tạo động lực để khơi dậy mạnh mẽ ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ, đảng viên; hỗ trợ mọi nguồn lực và điều kiện thuận lợi để cán bộ triển khai thực hiện hiệu quả. Mỗi cán bộ, đảng viên phải không ngừng tự học tập, rèn luyện phương pháp làm việc khoa học, hiệu quả để nâng cao trình độ mọi mặt, gắn lý luận với thực tiễn làm cơ sở cho nhận thức thực tiễn đúng để giải quyết vấn đề thấu đáo, năng động, sáng tạo, khả thi cao. Rèn luyện phong cách làm việc có kế hoạch, thường xuyên tìm tòi, đề xuất những ý kiến hay, cách làm hiệu quả; không giáo điều, rập khuôn, không sáo rỗng, tự mình tư duy để giải quyết thấu đáo mọi việc đáp ứng tốt yêu cầu và điều kiện thực tiễn đòi hỏi.

Đổi mới, sáng tạo luôn là chủ trương đúng đắn, cần thiết trong quá trình đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế của đất nước và cũng là yêu cầu cần thiết, quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống của người dân các địa phương trong tình hình hiện nay. Cần nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức liên quan trong khuyến khích, bảo vệ cán bộ đổi mới, sáng tạo bằng các hình thức phù hợp hiệu quả; đồng thời, nêu cao tinh thần trách nhiệm, tính chủ động của cán bộ trong giải quyết những vấn đề phức tạp bằng các giải pháp sáng tạo, đột phá.

Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật gắn với nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi pháp luật

Chú trọng xây dựng hệ thống pháp luật đồng bộ, khả thi, công khai, minh bạch, ổn định, dễ tiếp cận, lấy quyền và lợi ích hợp pháp của người dân là trung tâm, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, bảo đảm cho phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh bền vững. Chuyển trạng thái tư duy lập pháp từ quản lý các quan hệ đã định hình sang quản lý sự thay đổi để có thể phản ứng, thích ứng kịp thời với những chuyển biến nhanh chóng, khó đoán định của thực tiễn. Xây dựng pháp luật phải mở đường cho kiến tạo phát triển, cho đổi mới sáng tạo để khơi dậy, kích thích, phát huy có hiệu quả mọi tiềm năng trong xã hội trong đó có khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung.

Hoàn thiện pháp luật về thể chế phát triển nền kinh tế thị trường định hướng

XHCN, chú trọng rà soát, khắc phục những sơ hở, bất cập trong cơ chế, chính sách, pháp luật, nhất là trong một số lĩnh vực nhạy cảm dễ nảy sinh tiêu cực như đấu thầu, đấu giá, quản lý sử dụng đất đai, tài sản công, tài chính, chứng khoán... tiềm ẩn nguy cơ gây rủi ro trong quá trình thực thi nhiệm vụ, công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức; tạo điều kiện để cán bộ, công chức, viên chức yên tâm thực hiện chức trách nhiệm vụ của mình. Phải xác định rõ việc thể chế theo hướng nào.

Thực tiễn cho thấy quy trình sửa đổi các quy định pháp luật của nước ta hiện nay vẫn phức tạp, kéo dài. Cùng với đó, các vấn đề vướng mắc, phức tạp cần đổi mới không phải tất cả đều do Quốc hội, Chính phủ quyết định mà nhiều vấn đề xuất phát từ các bộ, ngành ở Trung ương và địa phương. Vì vậy, cần xác định nguyên tắc vướng ở cấp nào thì cấp đấy cho chủ trương và vướng ở văn bản nào thì do cơ quan ban hành ra văn bản đó sửa đổi, tháo gỡ hoặc cho chủ trương thực hiện theo hướng rút gọn. Tổ chức tổng rà soát các văn bản và đề xuất sửa đổi tháo gỡ vướng mắc, khó khăn từ các văn bản. Trên cơ sở đó, nội dung nào tháo gỡ được ngay thì tiến hành sửa ngay. Nội dung nào cần thêm thời gian để đánh giá thì cho tiến hành thí điểm trước. Đồng thời, hoàn thiện khung pháp lý về đề xuất, xây dựng và ban hành “cơ chế thí điểm”; “vùng đặc thù chính sách” - vùng này không chỉ mang nghĩa giới hạn về địa lý và còn có thể giới hạn về đối tượng, chủ thể - nhằm thử nghiệm các ý tưởng, chính sách đổi mới, sáng tạo trước khi nhân rộng, áp dụng đối với số đông đại chúng.

Ba là, nâng cao chất lượng các khâu trong công tác cán bộ, tập trung vào khâu đánh giá cán bộ để xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược và người đứng đầu

Cán bộ được xem là “khâu then chốt” của “nhiệm vụ then chốt” trong công tác xây dựng Đảng, bảo đảm cho Đảng ta giữ vững vai trò tiên phong lãnh đạo trong bất cứ giai đoạn nào của cách mạng. Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(8) và “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(9); “Bất cứ chính sách, công tác gì nếu có cán bộ tốt thì thành công, tức là có lãi. Không có cán bộ tốt thì hỏng việc, tức là lỗ vốn”. Như vậy, yếu tố cán bộ tác động trực tiếp đến việc phát triển hay thành bại trong công cuộc cách mạng dù ở giai đoạn nào. Do đó, quan tâm, đánh giá thực chất đội ngũ cán bộ là một yêu cầu bắt buộc.

Thực tiễn cho thấy, việc thực hiên tốt các khâu của công tác cán bộ, nhất là khâu đánh giá cán bộ có vai trò đặc biệt quan trọng, là tiền đề, là cơ sở để thực hiện các khâu khác của công tác cán bộ. Đánh giá đúng sẽ phát huy được khả năng của từng cán bộ và đội ngũ cán bộ; đánh giá không đúng sẽ dẫn đến bố trí, sử dụng, đề bạt, bổ nhiệm cán bộ sai, ảnh hưởng đến thực hiện chức năng, nhiệm vụ của tổ chức. Mặc dù có vai trò rất quan trọng, nhưng thời gian qua, công tác đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu, còn nhiều hạn chế cần sớm khắc phục để cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm. Do vậy, cần hoàn thiện hơn nữa quy định của pháp luật hiện hành về đánh giá hiệu quả, kết quả thực hiện chức trách, nhiệm vụ của cán bộ, gắn kết quả đánh giá cán bộ với các chính sách cán bộ. Lượng hóa các tiêu chí đánh giá cán bộ theo vị trí việc làm và tăng cường nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của công tác đánh giá cán bộ, có cơ chế loại trừ những cán bộ sợ trách nhiệm, không hoàn thành chức trách, nhiệm vụ ra khỏi bộ máy tổ chức.

Trong bối cảnh hiện nay, muốn đổi mới sáng tạo, dám nghĩ, dám làm hiệu quả, cán bộ phải được đào tạo toàn diện, không chỉ nắm vững chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước mà còn phải có khả năng dự báo, nắm bắt xu thế phát triển chung của đất nước, khu vực cũng như trên thế giới; nhanh chóng thích ứng với những biến đổi mới, yêu cầu mới trong hội nhập quốc tế.

Cán bộ không những có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt mà cần có trình độ chuyên môn cao, chuyên môn sâu lĩnh vực mình công tác, có ngoại ngữ, thành thạo công nghệ thông tin; có ý thức trách nhiệm, khát vọng cống hiến, tinh thần đổi mới, hết lòng, hết sức vì nhân dân phục vụ.

Bốn là, xây dựng môi trường làm việc lành mạnh, quan tâm thực hiện tốt các chính sách, tạo điều kiện cho cán bộ yên tâm phấn đấu, rèn luyện

Xây dựng bầu không khí ở cơ quan, đơn vị trong sáng, đoàn kết, thống nhất, tạo sự gắn bó trên cơ sở tình cảm đồng chí, đồng nghiệp, chân thành, trung thực, tin tưởng nhau, tin tưởng vào tổ chức, vào lãnh đạo; thể hiện tinh thần công bằng, khách quan, dân chủ cơ sở được phát huy, mọi người đượcltôn trọng và đối xử bình đẳng, được quan tâm giúp đỡ, tạo điều kiện để cán bộ được cống hiến và phát triển về mọi mặt.

Quan tâm thực hiện tốt các chính sách, tạo điềulkiện khi cán bộ có ý tưởng mới, đột phá. Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cần nghiêm túc xem xét tính khả thi, nội dung, tính chất, quy mô của ý tưởng để yêu cầu cán bộ, đảng viên xây dựng kế hoạch hoặc đề án phù hợp, sau đó, thảo luận, bàn bạc dựa trên nguyên tắc tập trung dân chủ, trưng cầu ý kiến chuyên gia và các đối tượng bị tác động; đánh giá, thẩm định kế hoạch và quyết định cho cán bộ, đảng viên triển khai hoặc không triển khai. Đặc biệt, phải thường xuyên động viên, khích lệ, tin tưởng giao quyền tự quyết cho cán bộ, tạo cơ chế, môi trường, điều kiện thuận lợi để cán bộ mạnh dạn đề xuất, triển khai ý tưởng đổi mới, sáng tạo.

Để cán bộ yên tâm thực hiện kế hoạch, đề án đổi mới, sáng tạo, bảo đảm là chỗ dựa vững chắc cho cán bộ đổi mới, sáng tạo, cấp ủy, tổ chức đảng, tập thể lãnh đạo cần chỉ đạo triển khai các biện pháp tháo gỡ khó khăn, vướng mắc; bảo vệ khi cán bộ gặp rủi ro trong quá trình đổi mới, sáng tạo hoặc bị cản trở, gây khó khăn, chống phá; được thoái thác, đùn đẩy, né tránh trách nhiệm, chỉ đạo khắc phục hậu quả (nếu có). Kịp thời khen thưởng nhữnglcán bộ tiêu biểu, gương mẫu hoàn thành xuất sắclnhiệm vụ được giao.

Năm là, coi trọng công tác sơ kết, tổng kết, khen thưởng và đúc rút kinh nghiệm về thực hiện chức trách, trách nhiệm của cán bộ dám nghĩ, dám làm, dám đột phá và dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta rất coi trọng công tác sơ kết, tổng kết thực tiễn để bổ sung, phát triển lý luận. Nhờ thường xuyên sơ kết, tổng kết thực tiễn mà đường lối, chủ trương của Đảng luôn phù hợp với thực tiễn, đủ năng lực chỉ đạo thực tiễn, được kiểm chứng bằng những thắng lợi to lớn của cách mạng Việt Nam.

Định kỳ sơ kết, tổng kết, đẩy mạnh tuyên truyền, nhân rộng những mô hình, giải pháp thí điểm, đổi mới, sáng tạo có hiệu quả; kịp thời xem xét, nghiên cứu để thể chế hóa thành quy định pháp luật, tạo cơ sở pháp lý để nhân rộng các mô hình, giải pháp đó. Đồng thời biểu dương, khen thưởng xứng đáng; ưu tiên bố trí, sử dụng cán bộ có tư duy đổi mới, cách làm đột phá, sáng tạo, hiệu quả cao. Quan tâm kiểm tra, giám sát, không ngừng bổ sung, hoàn thiện những thiếu sót, khuyết điểm, tạo cơ sở thực tiễn, tranh thủ sự đồng tình, giảm thiểu sức ép của những quan điểm bảo thủ lạc hậu, tiến tới đồng thuận.

_________________

Ngày nhận bài: 19-10-2023; Ngày bình duyệt: 22-10-2023; Ngày duyệt đăng: 13-11-2023.

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.43, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.340, 343.

(3) Quy định số 15-QĐ/TW ngày 28-8-2006 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X về đảng viên làm kinh tế tư nhân.

(4) ĐCSVN: Báo cáo chính trị của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn, 2011.

(5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.206-207.

(6) Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII về hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

(7) Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tổng kết công tác xây dựng Đảng và thi hành Điều lệ Đảng.

(8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr.269, 273.