Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội

26/10/2023 00:00

PGS, TS TÀO THỊ QUYÊN
Viện Nhà nước và pháp luật,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCT) - Giám sát văn bản quy phạm pháp luật là một trong những hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội nhằm bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội thời gian qua đã đạt những kết quả quan trọng. Tuy nhiên, so với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay, hoạt động này còn có bất cập, hạn chế. Vì vậy, cần thực hiện một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động này.

Hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội

Hội đồng Dân tộc và các Ủy ban của Quốc hội triển khai giám sát văn bản quy phạm pháp luật thuộc phạm vi lĩnh vực phụ trách theo nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15 - Ảnh: quochoi,vn

Trong thời gian qua, Đảng ta đã đề ra quan điểm, chủ trương về Nhà nước pháp quyền XHCN nói chung, về giám sát của Quốc hội nói riêng và lãnh đạo, chỉ đạo sâu sát nhiệm vụ này.

Tại Đại hội XIII, Đảng ta đề ra nhiệm vụ: “hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp”(1). Đặc biệt, ngày 09-11-2022, Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW về tiếp tục xây dựng  và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam trong giai đoạn mới, trong đó đề ra nhiệm vụ: “Cụ thể hóa và xây dựng cơ chế để các chủ thể thực hiện đầy đủ quyền và và trách nhiệm bảo vệ Hiến pháp”(2); “tiếp tục nghiên cứu để xác định rõ hơn phạm vi, đối tượng, phương pháp, hình thức giám sát tối cao của Quốc hội phù hợp thực tiễn; nâng cao chất lượng hoạt động chất vấn, giải trình, giám sát văn bản quy phạm pháp luật, chú trọng việc theo dõi, xem xét, đôn đốc việc thực hiện các kiến nghị sau giám sát”(3). Những quan điểm, chủ trương đã định hướng toàn diện, sâu sắc đối với hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL) của Quốc hội, góp phần bảo đảm hoạt động này ngày càng hiệu quả hơn.

1. Cơ sở pháp lý và thực trạng hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội

Cơ sở pháp lý cho hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội

Giám sát VBQPPL là một trong những hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Theo quy định tại khoản 1, Điều 4, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Quốc hội “giám sát tối cao văn bản quy phạm pháp luật của Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán nhà nước; giám sát tối cao nghị quyết liên tịch giữa Ủy ban Thường vụ Quốc hội hoặc Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Chánh án Tòa án nhân dân tối cao với Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao”.

Điều 163, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2020 quy định: nội dung giám sát VBQPPL bao gồm: “1. Sự phù hợp của văn bản với Hiến pháp, luật và văn bản quy phạm pháp luật của cơ quan nhà nước cấp trên; 2. Sự phù hợp của hình thức văn bản với nội dung của văn bản đó; 3. Sự phù hợp của nội dung văn bản với thẩm quyền của cơ quan ban hành văn bản; 4. Sự thống nhất giữa văn bản quy phạm pháp luật hiện hành với văn bản quy phạm pháp luật mới được ban hành của cùng một cơ quan”.

Các biện pháp pháp lý mà Quốc hội có quyền áp dụng trên cơ sở kết quả giám sát VBQPPL gồm: 1. Yêu cầu UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước ban hành văn bản quy định chi tiết Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; 2. Bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ VBQPPL của UBTVQH, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Hội đồng thẩm phán TAND tối cao, Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước; nghị quyết liên tịch giữa UBTVQH hoặc Chính phủ với Đoàn Chủ tịch Ủy ban trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, thông tư liên tịch giữa Chánh án TAND tối cao với Viện trưởng VKSND tối cao, thông tư liên tịch giữa Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ với Chánh án TAND tối cao, Viện trưởng VKSND tối cao trái với Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội.

Thực trạng hoạt động giám sát VBQPPL của Quốc hội

Kết quả và nguyên nhân

Trong thời gian qua, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã tập trung thực hiện tốt việc giám sát VBQPPL.

Báo cáo số 3887/BC-UBPL14 ngày 15-3-2021 của Ủy ban Pháp luật Quốc hội khóa XIV nêu rõ: với tư cách là cơ quan được giao nhiệm vụ bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với tất cả các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết trước khi trình Quốc hội, UBTVQH thông qua, trong nhiệm kỳ 2016 - 2021, Ủy ban Pháp luật đã thực hiện giám sát việc ban hành văn bản quy định chi tiết, hướng dẫn thi hành đối với toàn bộ 24 luật đã được Quốc hội khóa XIII thông qua và 10 luật được Quốc hội khóa XIV thông qua do Ủy ban Pháp luật chủ trì thẩm tra; giám sát VBQPPL khác do các cơ quan nhà nước ở trung ương ban hành thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách kể từ tháng 8-2018 đến thời điểm đó.

Kết quả giám sát cho thấy, các văn bản được giám sát cơ bản tuân thủ các quy định về thẩm quyền, hình thức, trình tự, thủ tục ban hành và bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp, tính thống nhất của văn bản với hệ thống pháp luật. Tuy nhiên, qua giám sát, Ủy ban cũng đã phát hiện một số văn bản còn có nội dung có dấu hiệu sai thẩm quyền, sai hình thức văn bản hoặc có một số nội dung chưa phù hợp với quy định của luật. Trên cơ sở đó, Ủy ban đã kiến nghị Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan khẩn trương xem xét, quyết định việc sửa đổi, bổ sung, thay thế hoặc bãi bỏ cho phù hợp.

Trong quá trình thực hiện thẩm tra, chỉnh lý và hoàn thiện các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết nhằm bảo đảm tính hợp hiến của VBQPPL, Ủy ban Pháp luật của Quốc hội đã chủ trì thẩm tra 12 dự án luật, 05 nghị quyết của Quốc hội, 08 nghị quyết của UBTVQH trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV (tính đến hết tháng 12-2020), trong đó có nhiều dự án luật có liên quan đến việc thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Việc thẩm tra được tiến hành nghiêm túc, kết hợp tổ chức khảo sát thực tế, hội thảo, tọa đàm chuyên gia để tập hợp thêm thông tin, tư liệu phục vụ việc thẩm tra cũng như quá trình tiếp thu, chỉnh lý, hoàn thiện văn bản. Vì vậy, các báo cáo thẩm tra của Ủy ban Pháp luật được đánh giá cao về chất lượng chuyên môn, tính khách quan, toàn diện, có tính phản biện cao và đặc biệt là luôn có sự đánh giá, phân tích kỹ về tính hợp hiến của VBQPPL.

Ngoài nội dung chủ trì thẩm tra đối với các dự án thuộc phạm vi lĩnh vực phụ trách, trong nhiệm kỳ Quốc hội khóa XIV, Ủy ban Pháp luật thực hiện việc tham gia thẩm tra đối với 69 dự án luật, 16 dự thảo nghị quyết của Quốc hội, 02 dự án pháp lệnh, 11 dự thảo nghị quyết của UBTVQH do Hội đồng Dân tộc, các ủy ban khác của Quốc hội chủ trì thẩm tra; phối hợp chặt chẽ với các cơ quan này trong quá trình giúp UBTVQH tiếp thu, chỉnh lý văn bản. Kết quả là, các báo cáo thẩm tra, tham gia chỉnh lý của Ủy ban Pháp luật, Thường trực Ủy ban Pháp luật đều bám sát quan điểm, đường lối của Đảng, tập trung vào tính hợp hiến, hợp pháp, tính khả thi và tính thống nhất với hệ thống pháp luật của các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo nghị quyết được xem xét.

Theo thông báo số 2197/TB-TTKQH Kết luận của UBTVQH về báo cáo kết quả giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội trong năm 2022, hoạt động giám sát VBQPPL ngày càng được các cơ quan của Quốc hội quan tâm, tiến hành thường xuyên, đồng bộ, có sự phối hợp giám sát văn bản với hoạt động giám sát chuyên đề, tổ chức giải trình. Qua giám sát đã nêu lên được nhiều điểm tích cực, đồng thời cũng chỉ ra những nhiệm vụ, nội dung được giao quy định chi tiết trong luật, pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội, UBTVQH chưa được ban hành; một số trường hợp ban hành chưa tuân thủ đúng các quy định về thẩm quyền, hình thức VBQPPL; một số văn bản có nội dung chưa phù hợp, chưa thống nhất với hệ thống pháp luật và đã có các đề xuất, kiến nghị đối với cơ quan, cá nhân có thẩm quyền để khắc phục, sửa đổi, bổ sung”.

Những kết quả đạt được nêu trên là do các nguyên nhân sau đây:

Một là, pháp luật về giám sát VBQPPL ngày càng cụ thể hơn hơn, tạo cơ sở pháp lý rõ ràng hơn cho hoạt động giám sát VBQPPL của Quốc hội

Hoạt động giám sát của Quốc hội được quy định rõ trong: Hiến pháp năm 2013; Luật Tổ chức Quốc hội năm 2014; Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân năm 2014; Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015; Nghị quyết số 334/2017/UBTVQH14 ngày 11-01-2017 về Quy chế tổ chức thực hiện một số hoạt động giám sát của Quốc hội, UBTVQH, Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội và đại biểu Quốc hội, trong đó, có nhiều cải tiến, đổi mới trong quá trình thực hiện giám sát; Nghị quyết số 560/NQ-UBTVQH15 hướng dẫn việc tổ chức thực hiện hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội; v.v..

Hai là, Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã chủ động xây dựng kế hoạch cụ thể, phân công rõ trách nhiệm tiến hành các hoạt động giám sát VBQPPL

Đảng đoàn Quốc hội khóa XV xác định việc đổi mới, nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác giám sát là khâu trọng tâm, then chốt. Chủ tịch Quốc hội nêu rõ, trong nhiệm kỳ, tiếp tục thành quả của các khóa trước, Quốc hội tăng cường công tác giám sát. Để thực hiện nội dung này, Đảng đoàn Quốc hội đã ban hành Kết luận số 843-KL/ĐĐQH15 về việc đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả giám sát của Quốc hội và Kế hoạch số 837-KH/ĐĐQH15 để tổ chức thực hiện. Căn cứ kết luận của Đảng đoàn Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội đã lập chương trình, kế hoạch giám sát cả nhiệm kỳ và từng năm theo đúng chức năng, nhiệm vụ được giao.

Hạn chế và nguyên nhân

Hoạt động giám sát VBQPPL của Quốc hội thời gian qua còn một số hạn chế, bất cập. Nội dung báo cáo và số liệu giám sát văn bản còn chưa thống nhất, thời gian gửi báo cáo chưa bảo đảm; việc tiến hành giám sát chưa theo đúng trình tự, thủ tục theo dõi, rà soát, giám sát, phát hiện, xử lý theo quy định của pháp luật; chưa chủ động phát hiện và kịp thời kiến nghị cơ quan ban hành văn bản xử lý và báo cáo kết quả xử lý văn bản đến UBTVQH theo quy định. Việc giám sát VBQPPL trong một số lĩnh vực chưa đáp ứng được yêu cầu. Hiệu quả của việc giám sát VBQPPL chưa cao. Việc xử lý sau rà soát VBQPPL còn chậm. Kết quả rà soát văn bản chưa được kết nối, sử dụng hiệu quả trong quá trình xây dựng, ban hành các VBQPPL liên quan. Tình trạng không kịp thời ban hành VBQPPL cụ thể hóa Hiến pháp chưa có biện pháp xử lý một cách kịp thời, kiên quyết và thấu đáo. Báo cáo về kết quả giám sát VBQPPL chủ yếu liệt kê số lượng các loại văn bản mà các cơ quan chưa ban hành theo đúng thẩm quyền, chưa nêu ra thực trạng thiếu văn bản quy định cụ thể điều nào của Hiến pháp; nguyên nhân chủ quan, khách quan của tình trạng đó là gì; trách nhiệm thuộc về tập thể hay cá nhân nào; cách thức xử lý ra sao; v.v..

Những hạn chế, bất cập là do các nguyên nhân sau:

Một là, chưa có quy định về giám sát đối với các văn bản luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành

Các đạo luật tố tụng cũng chưa có quy định rõ ràng để xử lý tình huống nếu phát hiện thấy luật hoặc nghị quyết của Quốc hội có dấu hiệu vi phạm Hiến pháp. Điều này có nghĩa là, trường hợp phát hiện quy định trong các đạo luật có dấu hiệu chưa phù hợp với Hiến pháp thì pháp luật hiện hành chưa có quy định cụ thể về cách xử lý.

Hai là, chưa phân biệt rõ ràng giữa giám sát tính hợp hiến và giám sát tính hợp pháp của VBQPPL

Trong các quy định của Hiến pháp, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân, quy định về giám sát tính hợp hiến đều đặt sau việc giám sát tính hợp pháp, tính thống nhất của hệ thống pháp luật. Điều đó dẫn đến việc giám sát tính hợp hiến của VBQPPL chưa được coi trọng và thực hiện một cách thỏa đáng trong thực tế.

Ba là, chưa có cơ sở pháp lý rõ ràng đối với việc chậm, không cụ thể hóa Hiến pháp

Trong các văn bản hiện hành chưa có điều khoản nào quy định về hiệu lực trực tiếp của Hiến pháp, về việc xác định trách nhiệm pháp lý trong trường hợp cơ quan nhà nước có thẩm quyền không ban hành VBQPPL theo quy định của Hiến pháp. Trong thực tế hiện nay, chưa phải mọi công dân và công chức nhà nước đã nhận thức rõ và đầy đủ về hiệu lực áp dụng trực tiếp của Hiến pháp; khi giải quyết các khiếu kiện của người dân, kể cả khi xét xử, tòa án và các cơ quan nhà nước cũng không lấy các quy định của Hiến pháp làm căn cứ, mà chỉ xem vấn đề này được luật quy định như thế nào. Bên cạnh các vi phạm dạng ban hành VBQPPL trái hoặc không phù hợp Hiến pháp, sai thẩm quyền được quy định trong Hiến pháp, tình trạng chậm, không ban hành VBQPPL cụ thể hóa Hiến pháp còn diễn ra khá phổ biến, nhưng rất khó kiểm soát và xác định trách nhiệm, đặc biệt là trong lĩnh vực ban hành văn bản quy định cụ thể hóa các quyền và tự do hiến định của công dân.

Bốn là, việc gửi dự án đến cơ quan thẩm tra vẫn còn nhiều trường hợp chưa bảo đảm tiến độ về thời gian theo luật định; việc cung cấp thông tin về dự án thực hiện chưa tốt, ảnh hưởng đến chất lượng thẩm tra

Theo đánh giá của Đảng đoàn Quốc hội khóa XIV, các cơ quan của Quốc hội chưa thật sự kiên quyết trong việc xử lý đối với văn bản trình chậm tiến độ, kém chất lượng, không có dự thảo văn bản quy định chi tiết kèm theo. Chất lượng các phiên họp thẩm tra chưa đồng đều; thời gian dành cho thẩm tra tại mỗi phiên họp thường ngắn, số thành viên dự họp đôi khi không bảo đảm, một số trường hợp chưa đủ để có thể thảo luận sâu các vấn đề lớn và xem xét kỹ các điều, khoản cụ thể trong dự án luật, pháp lệnh và các VBQPPL khác, do đó tính phản biện trong một số báo cáo thẩm tra chưa cao.

Năm là, phần lớn đại biểu Quốc hội là kiêm nhiệm

Quốc hội các khóa gần đây chỉ có khoảng 35 - 40% đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách. Việc tổ chức các hoạt động đào tạo, tập huấn cho đại biểu hoạt động chuyên trách còn hạn chế về thời gian và kinh phí; điều kiện hỗ trợ cho các hoạt động đào tạo, tăng cường năng lực cho đại biểu Quốc hội và các chuyên viên tham mưu, giúp việc còn khó khăn và chưa được triển khai thường xuyên. Các đại biểu hoạt động kiêm nhiệm ở các cơ quan, địa phương khó có điều kiện tham gia sâu, đầy đủ các hoạt động của các cơ quan của Quốc hội, ảnh hưởng đến chất lượng, hiệu quả trong việc thực thi nhiệm vụ, quyền hạn. Nhiệm vụ, quyền hạn, cơ chế hoạt động của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách chưa được quy định cụ thể, rõ ràng, đầy đủ để phát huy hiệu quả hoạt động của đại biểu Quốc hội hoạt động chuyên trách.

2. Giải pháp nâng cao chất lượng hoạt động giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Quốc hội

Văn kiện Đại hội XIII của Đảng xác định một trong những định hướng phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 là: “Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân do Đảng lãnh đạo là nhiệm vụ trọng tâm của đổi mới hệ thống chính trị... tăng cường kiểm soát quyền lực nhà nước”(4); “hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp, cơ chế giám sát...”(5).

Thực hiện chủ trương trên, trong đó có việc hoàn thiện cơ chế giám sát VBQPPL, cần tập trung thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp.

Một là, xác định rõ tính chất, phạm vi, thẩm quyền giám sát của Quốc hội, của UBTVQH

Cần xác định Quốc hội có quyền “giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp”, UBTVQH “giám sát việc thi hành Hiến pháp”. Trong đó, giám sát của UBTVQH là hoạt động giám sát phục vụ cho giám sát tối cao của Quốc hội tại kỳ họp của Quốc hội. Về tính chất, hoạt động giám sát của UBTVQH nhằm cung cấp dữ liệu, bằng chứng, căn cứ cho hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội. Hệ quả pháp lý của hoạt động giám sát thi hành Hiến pháp của UBTVQH dẫn đến việc đình chỉ việc thi hành những văn bản trái Hiến pháp, còn hệ quả của hoạt động giám sát tối cao việc thi hành Hiến pháp của Quốc hội là bãi bỏ văn bản trái Hiến pháp. Bên cạnh đó, cần bổ sung vào phạm vi giám sát tối cao của Quốc hội đối với luật, nghị quyết do Quốc hội ban hành.

Hai là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức và hoạt động của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội để thực hiện hiệu quả việc giám sát VBQPPL

Phân công rành mạch nhiệm vụ giữa các ủy ban: những loại việc hoàn toàn đúng chức năng, nhiệm vụ của cơ quan nào thì cơ quan đó đảm nhiệm; những loại công việc mang tính giao thoa thì mảng giao thoa lớn nhất nghiêng về cơ quan nào thì giao cho cơ quan đó chủ trì, các cơ quan khác phối hợp thực hiện.

Tăng số lượng đại biểu chuyên trách thuộc Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội. Sắp xếp các đại biểu Quốc hội vào Hội đồng Dân tộc và các ủy ban theo cơ cấu hợp lý, bảo đảm tính chuyên nghiệp, chuyên môn hóa cao. Theo đó, ưu tiên đại biểu tái cử của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban, nhất là đại biểu đã hoạt động chuyên trách, có chuyên môn, nghiệp vụ phù hợp; tăng số lượng lên khoảng 35 - 40 thành viên có chất lượng cao.

Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội nên thành lập tiểu ban để nghiên cứu, chuẩn bị các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của mình. Trưởng tiểu ban là thành viên Hội đồng Dân tộc, Ủy ban, thành viên khác có thể không phải là thành viên của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban, hoặc không phải là đại biểu Quốc hội.

Ba là, nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội

Tăng số lượng đại biểu chuyên trách, giảm số lượng đại biểu công tác ở các cơ quan hành pháp, tư pháp. Đa số đại biểu chuyên trách là đại biểu tái cử, nhất là đại biểu đã từng hoạt động chuyên trách. Nếu là đại biểu mới thì nên là những người có bề dày kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ, đã trải qua công tác quản lý, hoặc những người làm việc lâu năm trong các cơ quan phục vụ Quốc hội để bảo đảm sự thông thạo quy trình, thủ tục làm việc của Quốc hội.

Bốn là, tiếp tục hoàn thiện thể chế và đổi mới các hình thức giám sát của Quốc hội

Xây dựng và thực hiện cơ chế trách nhiệm pháp lý đối với những cơ quan, cá nhân chậm trễ trong việc trình các báo cáo ra Quốc hội, nhằm bảo đảm thời gian và chất lượng của hoạt động thẩm tra các báo cáo; chú trọng các thông tin độc lập, khách quan từ các cơ quan thanh tra, kiểm toán.

Nâng cao hơn nữa chất lượng hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, các ủy ban của Quốc hội đối với các dự án luật, pháp lệnh. Cần phân công cơ quan thẩm tra một cách hợp lý, phù hợp với chuyên môn và đặc biệt là năng lực của cơ quan thẩm tra; bảo đảm nguyên tắc làm việc tập thể, quyết định theo đa số trong hoạt động thẩm tra của Hội đồng Dân tộc, Ủy ban của Quốc hội; phát huy cao nhất trí tuệ tập thể của các thành viên; tổ chức tốt hơn hoạt động phối hợp thẩm tra giữa Hội đồng Dân tộc và các ủy ban của Quốc hội.

Về hình thức xem xét tính hợp hiến của VBQPPL, vấn đề mấu chốt là đối chiếu nội dung, hình thức, thẩm quyền ban hành văn bản với các quy định của Hiến pháp; do vậy, cần giải thích chính thức Hiến pháp để có “chuẩn mực” rõ ràng, đầy đủ cho các chủ thể tiến hành xem xét văn bản, đối chiếu, phân tích để đưa ra những nhận định và kết luận chính xác, khách quan.

Gắn kết quả hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động lập pháp để kịp thời kiến nghị, đề xuất bổ sung hoặc bãi bỏ VBQPPL. Gắn kết chặt chẽ giám sát bằng báo cáo, qua khảo sát, qua chất vấn và các kết quả thanh tra, kiểm tra, nhất là kết quả kiểm toán nhà nước.

Năm là, gắn kết giám sát tối cao của Quốc hội với giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân

 Bổ sung các nguyên tắc, quy định về cơ chế phối hợp giữa hoạt động giám sát tối cao của Quốc hội với hoạt động giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân. Ủy ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt Nam kiến nghị Quốc hội kế hoạch, nội dung giám sát phù hợp, tập trung vào những vấn đề mà người dân và dư luận xã hội đang quan tâm. Đồng thời, xây dựng cơ chế cho phép các cơ quan, tổ chức, cá nhân theo quy định tại khoản 1 Điều 30 Luật Mặt trận Tổ quốc Việt Nam năm 2015 tiếp thu, giải trình những kiến nghị của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.

Sáu là, tăng cường đầu tư cơ sở vật chất, kinh phí và bộ máy giúp việc cho Quốc hội

Hiện đại hóa hệ thống các công sở; tin học hóa hệ thống văn phòng, văn thư, lưu trữ, quản lý cán bộ, tài chính và tài sản công; phát triển mạng lưới thông tin, ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại vào hoạt động của Quốc hội. Triển khai xây dựng Quốc hội điện tử. Tiếp tục kiện toàn tổ chức, nhân sự và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của Viện Nghiên cứu lập pháp đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Xây dựng đội ngũ chuyên gia, chuyên viên giúp việc hoạt động của Quốc hội, bảo đảm đội ngũ này có trình độ, năng lực tổng hợp và tham mưu cho Quốc hội, đại biểu Quốc hội.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 545 (tháng 7-2023)

Ngày nhận bài: 12-6-2023; Ngày bình duyệt: 07-7-2023; Ngày duyệt đăng: 24-7-2023.

(1), (4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội quốc gia Sự thật, tr.176, 174-175, 176.

(2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.47, 54.