Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng đối với nông dân

17/01/2024 10:48

ThS PHẠM THỊ VĨNH HÀ
Tạp chí Lý luận chính trị,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCT) - Xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, gây hoài nghi, kích động người nông dân hòng chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, chia rẽ khối liên minh giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức Việt Nam luôn là mục đích của các thế lực thù địch, phản động trong và ngoài nước. Bài viết giúp nhận diện luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân Việt Nam; làm rõ thành tựu của công cuộc đổi mới đất nước đã đưa lại cho nông dân Việt Nam sự đổi thay nhiều mặt; khẳng định vai trò của giai cấp nông dân Việt Nam trong công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Nhận diện và phản bác luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng đối với nông dân

Xây dựng nông thôn mới, góp phần nâng cao đời sống người dân - Ảnh: xaydungdang.org.vn

1. Luận điệu xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân

Cải thiện, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân nói chung, nông dân nói riêng luôn là vấn đề trung tâm trong các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam. Trong hơn 90 năm dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, với những chủ trương, đường lối đúng đắn, giai cấp nông dân Việt Nam từ thân phận nô lệ, bị bần cùng hóa do chế độ thực dân, phong kiến đã trở thành lực lượng nòng cốt, một lòng đi theo Đảng, vươn lên làm chủ đất nước, làm chủ xã hội, góp phần to lớn trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng CNXH và tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.

Sự thay đổi, phát triển về đời sống chính trị, kinh tế, văn hóa, tinh thần của giai cấp nông dân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong gần 80 năm kể từ khi nước Việt Nam giành được độc lập, nhất là trong gần 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước là không thể phủ nhận, được nhân dân trong nước và bạn bè quốc tế ghi nhận, đánh giá cao.

Tuy nhiên, đó lại là cái “gai” trong mắt các thế lực thù địch, chúng cố tình không thừa nhận những thành quả mà Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam mang lại cho giai cấp nông dân Việt Nam, mà trái lại còn xuyên tạc chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam đối với nông dân nhằm gieo rắc hoài nghi, kích động, gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Mục đích cuối cùng là gây bất ổn chính trị, xã hội, tiến tới lật đổ chế độ XHCN ở nước ta. Luận điệu xuyên tạc của các thế lực phản động tập trung vào các vấn đề sau:

Thứ nhất, chúng rêu rao rằng, Đảng Cộng sản và Nhà nước Việt Nam thường mị dân bằng các khẩu hiệu: “Nông dân là lực lượng cách mạng”, “Phải biết ơn nông dân”, “Phải ưu tiên phát triển hợp lý nông nghiệp”… nhưng nông nghiệp, nông thôn Việt Nam còn kém phát triển, bị lép vế; nông dân là người thua thiệt đủ bề, công cuộc đổi mới đất nước không đem lại lợi ích gì cho người nông dân, mà trái lại đường lối lãnh đạo của Đảng Cộng sản và cơ chế, chính sách của Nhà nước Việt Nam đã bóc lột nông thôn, nông dân để dồn sức cho công nghiệp hóa và phát triển đô thị.

Thứ hai, chúng xuyên tạc bộ máy của hệ thống chính trị ở cơ sở do Đảng Cộng sản Việt Nam dựng lên, chỉ phục vụ cho Đảng, người nông dân không được tham gia bất cứ việc gì của Đảng và Nhà nước; không được tiếp cận rộng rãi với giáo dục, y tế, bảo hiểm xã hội…

Thứ ba, vu khống Đảng và Nhà nước Việt Nam cướp đất của nông dân, dồn sức cho phát triển công nghiệp theo kiểu “đại nhảy vọt” mà không đếm xỉa đến quyền lợi của người nông dân.

Thứ tư, xuyên tạc chủ trương phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn là làm cho người nông dân bị bần cùng hóa ngay trên quê hương và ngay chính trên mảnh đất của họ.

Thứ năm, nhằm gieo rắc hoài nghi cho người nông dân đối với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước Việt Nam về phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn, thế lực thù địch đưa ra dự báo đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, giai cấp nông dân Việt Nam sẽ tiềm ẩn nguy cơ mất ổn định chính trị - xã hội.

2. Thực tế đời sống người nông dân Việt Nam qua hơn 35 năm đổi mới

Một là, công cuộc đổi mới đất nước, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đã đem lại đổi thay toàn diện cho nông nghiệp, nông dân, nông thôn

Trong công cuộc đổi mới, thực hiện CNH, HĐH hóa đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách đúng đắn, hợp lý để phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, giải phóng sức sản xuất, tăng thu nhập, cải thiện điều kiện lao động, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần cho người nông dân nói riêng và cư dân nông thôn nói chung. Những chủ trương, chính sách đó đã làm thay đổi cơ bản bộ mặt nông thôn; tạo cơ hội mới về phát triển kinh tế, điều kiện sống và hưởng thụ văn hóa tốt hơn cho cư dân nông thôn nói chung và người nông dân nói riêng.

Từ các chủ trương, chính sách khuyến khích đầu tư xây dựng hệ thống điện, “cứng hóa giao thông nông thôn”, “bê tông hóa kênh mương thủy lợi”, “kiên cố hóa trường học, trạm xá” đến xác định, tổ chức thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia như: xây dựng nông thôn mới; xóa đói, giảm nghèo; phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi…Nhà nước đã bố trí nguồn lực, đồng thời phát động phong trào, huy động sự tham gia của cộng đồng doanh nghiệp và nhân dân, tạo được nguồn lực đầu tư to lớn, làm cho nông nghiệp, nông thôn thay đổi toàn diện; tạo điều kiện, tiền đề quan trọng để người nông dân khai thác, phát huy mọi nguồn lực đầu tư sản xuất kinh doanh, thúc đẩy kinh tế nông thôn phát triển nhanh và chuyển dịch mạnh mẽ.

Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội và môi trường nông thôn được tăng cường về số lượng và chất lượng, đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu phát triển kinh tế và chất lượng đời sống cho người nông dân. Hệ thống giao thông khu vực nông thôn được xây dựng, nâng cấp, bảo đảm tính kết nối cao, đáp ứng cơ bản nhu cầu giao thông của người dân cũng như lưu thông hàng hóa. Hệ thống điện được bao phủ hầu khắp khu vực nông thôn, vươn tới các địa bàn vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo phục vụ tốt nhu cầu sản xuất và dân sinh. Hệ thống thủy nông được đầu tư kiên cố hóa, nâng cao năng lực tưới tiêu, phục vụ hiệu quả cho phát triển nông nghiệp. Việc phát triển giao thông, điện, thủy lợi khu vực nông thôn đã tạo điều kiện thuận lợi cho người nông dân bố trí sản xuất, chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất hàng hóa; nông sản hàng hóa được lưu thông thuận tiện hơn.

Hệ thống tín dụng ngân hàng, quỹ tín dụng nhân dân, quỹ hỗ trợ nông dân và các quỹ phát triển khác bao phủ hầu khắp khu vực nông thôn, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh của nông dân.

Công tác khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư được quan tâm đầu tư về nhân lực, vật lực; hoạt động tư vấn, hướng dẫn kỹ thuật, chuyển giao công nghệ được đẩy mạnh, giúp nông dân ngày càng tiếp cận tốt hơn với tiến bộ khoa học công nghệ, nhất là công nghệ sinh học cũng như cách thức tổ chức sản xuất, kinh doanh và tiếp cận thị trường, giúp người nông dân nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.

Hệ thống chợ phát triển thúc đẩy hoạt động thương mại, dịch vụ đã hỗ trợ sản xuất và dân sinh đa dạng, rộng khắp, phục vụ ngày càng tốt hơn nhu cầu vật tư hàng hóa cho sản xuất, cũng như tiêu thụ sản phẩm của nông dân.

Cơ sở sản xuất công nghiệp hình thành và phát triển ở khu vực nông thôn, nhất là cơ sở chế biến nông, lâm, thủy hải sản đã tạo việc làm mới, thu hút lực lượng lớn lao động, trong đó chủ yếu là nông dân; tạo liên kết sản xuất giữa doanh nghiệp và nông dân theo chuỗi giá trị.

Làng nghề được rà soát, quy hoạch lại cùng chính sách hỗ trợ, khôi phục, phát triển làng nghề được ban hành góp phần quan trọng làm cho sản phẩm hàng hóa làng nghề ngày càng phù hợp với nhu cầu thị trường, đem lại lợi ích to lớn về kinh tế - xã hội cho khu vực nông thôn, tạo việc làm, thu nhập và sinh kế ngày càng bền vững cho người dân nông thôn.

Sau hơn 35 năm thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đã đạt kết quả quan trọng. Đặc biệt, sau 15 năm thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05-8-2008 của Hội nghị Trung ương 7 khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn; 12 năm triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới, khu vực nông thôn Việt Nam đã có những chuyển biến rõ nét trên tất cả các lĩnh vực: nông thôn thay đổi toàn diện, kinh tế nông thôn phát triển và chuyển dịch nhanh chóng, thu nhập của người nông dân ngày càng tăng, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện rõ rệt đã góp phần to lớn vào phát triển kinh tế - xã hội của cả nước. “Nông nghiệp… tiếp tục là trụ đỡ của nền kinh tế; kinh tế nông thôn tiếp tục phát triển; chương trình xây dựng nông thôn mới đạt nhiều kết quả quan trọng,… góp phần làm thay đổi bộ mặt nông thôn và đời sống nông dân”(1).

Tư duy, cách nghĩ, cách làm của nông dân thay đổi, từng bước chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, manh mún sang sản xuất hàng hóa lớn; từ kinh tế hộ đơn lẻ sang hợp tác, liên kết, liên doanh theo chuỗi; từ sản xuất theo kinh nghiệm truyền thống sang ứng dụng khoa học công nghệ; từ coi trọng năng suất sang coi trọng chất lượng sản phẩm; lợi nhuận gắn với an toàn thực phẩm và phát triển bền vững. Các mô hình kinh tế hộ, kinh tế trang trại tổng hợp, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hợp tác xã, tổ hợp tác liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp theo chuỗi giá trị đã mang lại nhiều thuận lợi cho tổ chức sản xuất và hiệu quả kinh tế cho người nông dân. Lòng tin của người nông dân đối với Đảng ngày càng được củng cố vững chắc. 

Hai là, dân chủ cơ sở được phát huy, đời sống chính trị, văn hóa của cư dân nông thôn ngày càng được nâng cao; an sinh xã hội ngày càng được bảo đảm, trật tự an toàn xã hội được giữ vững

Nhằm phát huy quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm thực hiện quan điểm của Đảng về “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, tạo lập cơ sở pháp lý cho việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, tạo sự chuyển biến tích cực trong đời sống chính trị - xã hội ở nước ta, ngày 18-2-1998, Bộ Chính trị đã ban hành Chỉ thị số 30-CT/TW “Về xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở”; Hiến pháp năm 2013 với tinh thần đề cao quyền làm chủ của nhân dân đã quy định các hình thức thực hiện quyền dân chủ như: “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6); Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định và yêu cầu thực hiện tốt, có hiệu quả phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(2)

Thể chế hóa quan điểm của Đảng, để quyền làm chủ của người dân ngày càng được bảo đảm, phát huy trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội ở cơ sở, từ năm 2000 đến nay, Nhà nước đã ban hành và nhiều lần sửa đổi, bổ sung văn bản pháp quy về thực hiện quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, như: Nghị định của Chính phủ, Pháp lệnh của Ủy ban Thường vụ Quốc hội và mới đây là Luật Thực hiện dân chủ cơ sở. Dân chủ đại diện được phát huy mạnh mẽ, dân chủ trực tiếp được mở rộng, phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng” được cụ thể hóa trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, Nhân dân làm chủ” ngày càng được thực hiện đồng bộ, cụ thể và đạt hiệu quả thiết thực; vai trò, vị trí của người nông dân trong đời sống chính trị, kinh tế, xã hội được khẳng định mạnh mẽ.

Qua đó, góp phần quan trọng phát huy tinh thần đoàn kết, lòng yêu quê hương, đất nước; phát huy sức mạnh, sức sáng tạo của người dân nói chung, người nông dân nói riêng trong tham gia bàn bạc, quyết định những công việc của địa phương, của đất nước; người dân góp ý kiến xây dựng chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; góp ý xây dựng Đảng, chính quyền; giám sát hoạt động của chính quyền cơ sở và đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước.

Bầu không khí dân chủ được rộng mở đã tạo khí thế phấn khởi, khích lệ các tầng lớp nhân dân nói chung, nông dân nói riêng đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, góp phần quan trọng trong thực hiện mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng nông thôn mới, bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.

Với quan điểm “văn hóa là nền tảng tinh thần”, trong công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước Việt Nam đã có nhiều chủ trương, chính sách thực hiện mục tiêu phát triển con người toàn diện và xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nhằm nâng cao đời sống tinh thần nhân dân và để văn hóa, con người Việt Nam thực sự trở thành sức mạnh nội sinh, động lực xây dựng và phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Hệ thống thiết chế văn hóa, thông tin được bổ sung, hoàn thiện, đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu thụ hưởng văn hóa và thông tin của cư dân nông thôn. Văn hóa truyền thống được khơi dậy, bảo tồn và phát huy, nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số, miền núi. Hầu hết các loại hình sinh hoạt văn hóa phi vật thể của nhân dân ở các vùng, miền đều được Nhà nước và chính quyền các cấp tổ chức sưu tầm, công nhận và bảo tồn, trong đó có một số được Nhà nước đề nghị UNESCO công nhận là Di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Các lễ hội truyền thống của đồng bào các dân tộc được khôi phục và được tổ chức hằng năm, các giá trị truyền thống, phong tục tập quán tốt đẹp được giữ gìn và tôn vinh… đã đáp ứng được nhu cầu hưởng thụ văn hóa của người dân. Loại hình du lịch cộng đồng được phát triển nhiều nơi đã mở ra hướng kinh doanh mới, tạo việc làm, thu nhập bền vững cho người nông dân, góp phần quan trọng thúc đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông thôn theo hướng hiện đại, hiệu quả.

Lĩnh vực giáo dục ngày càng được quan tâm đầu tư và phát triển. Ngân sách nhà nước chi cho giáo dục ngày càng được tăng cường; mạng lưới cơ sở giáo dục ngày càng được mở rộng, nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Hệ thống trường lớp từ mầm non đến giáo dục phổ thông được xây dựng mới, nâng cấp, đáp ứng ngày càng tốt hơn cho nhu cầu giáo dục của nhân dân nói chung và cư dân nông thôn nói riêng.

Hệ thống y tế cơ sở, trong đó nòng cốt là trạm y tế xã được đầu tư về cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân lực. Công tác chăm sóc sức khỏe cho cư dân nông thôn được quan tâm; năng lực, chất lượng y tế dự phòng và khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân ngày càng tốt hơn; chính sách bảo hiểm y tế được triển khai thực hiện tốt. Kết quả đó đã góp phần quan trọng trong việc cải thiện các chỉ số sức khỏe, tăng khả năng tiếp cận dịch vụ y tế chất lượng với chi phí hợp lý cho người nông dân, góp phần tăng cường và hướng tới bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân.

Trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định rõ quan điểm: “không để ai bị bỏ lại phía sau”. Với quan điểm đó, công tác xóa đói, giảm nghèo luôn được coi là nhiệm vụ trọng tâm. “Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ (MDGs) về xóa nghèo” của Liên hợp quốc được Việt Nam thực hiện tốt với nhiều cách làm sáng tạo.

Chính phủ đã hỗ trợ toàn diện cho người nghèo, như: hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, nâng cao thu nhập cho hộ nghèo, hộ cận nghèo; bảo đảm mọi người trong hộ nghèo đều có cơ hội tiếp cận với dịch vụ khám chữa bệnh thông qua bảo hiểm y tế; miễn giảm học phí cho học sinh nghèo; hỗ trợ về nhà ở, nước sạch và nước hợp vệ sinh; hỗ trợ dạy nghề và tìm kiếm việc làm; trợ giúp pháp lý, vay vốn tín dụng ưu đãi; giải quyết đất ở, đất sản xuất, giao rừng… Nhiều huyện nghèo, xã đặc biệt khó khăn đã được đầu tư cải thiện hệ thống kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh.

Đánh giá về thành công của Việt Nam trong thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ của Liên hợp quốc về xóa đói giảm nghèo, bà Caitlin Wiesen - đại diện thường trú Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP) tại Việt Nam đánh giá: “Việt Nam là một trong những câu chuyện thành công nhất về xóa đói, giảm nghèo trên thế giới. Việt Nam được thế giới công nhận thành tựu xóa đói giảm nghèo phi thường về giảm tỷ lệ nghèo cùng cực, từ 49% dân số vào năm 1992 xuống chỉ còn 2% vào năm 2016. Việt Nam đã giảm đáng kể tỷ lệ nghèo đa chiều, từ 16% vào năm 2012 xuống còn 5% vào năm 2018. Hơn 6 triệu người thoát khỏi nghèo đói trong 6 năm, điều này thật phi thường. Khi so sánh với các nước khác, tỷ lệ nghèo đa chiều của Việt Nam thấp hơn 5% so với hầu hết các nước ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương”(3).

Phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc được khơi dậy mạnh mẽ, hiệu quả, thiết thực. Cấp ủy, chính quyền các cấp đã chỉ đạo, giải quyết ổn định các vụ tranh chấp, khiếu kiện về đất đai ngay tại cơ sở, không để hình thành các điểm nóng, phức tạp về an ninh, trật tự;… Công tác tuyên truyền, vận động nhân dân nâng cao nhận thức về ý nghĩa, tầm quan trọng của việc thực hiện nội dung Tiêu chí “Xã đạt chuẩn an toàn về an ninh, trật tự xã hội và bảo đảm bình yên” được quan tâm,… Giải quyết kịp thời các mâu thuẫn, tranh chấp, khiếu kiện trong quá trình triển khai các dự án phát triển kinh tế - xã hội, giải phóng mặt bằng liên quan đến an ninh nông thôn.

Ba là, chuyển đổi mô hình tăng trưởng, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại đã thúc đẩy nhanh phát triển kinh tế - xã hội, đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người nông dân

Việc thực hiện quy hoạch, chuyển đổi mục đích sử dụng đất, thu hồi đất để xây dựng hệ thống giao thông, thủy lợi, điện, cơ sở văn hóa, giáo dục, y tế, cơ sở sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch được thực hiện công khai, dân chủ, được đại đa số nhân dân đồng tình ủng hộ, đã đáp ứng ngày càng tốt cho phát triển sản xuất kinh doanh, đời sống dân sinh, cũng như nhu cầu hưởng thụ văn hóa, giáo dục, y tế của nhân dân; thúc đẩy nhanh việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại; đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng ngành công nghiệp và dịch vụ, tạo ra nhiều việc làm mới, tạo điều kiện để lao động nông nghiệp, nhất là lao động trẻ chuyển sang làm việc trong các cơ sở sản xuất công nghiệp và kinh doanh dịch vụ; thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng hiện đại, qua đó tác động tích cực tới việc nâng cao chất lượng lao động, nâng cao thu nhập cho người lao động.

Bên cạnh những lợi ích đó, khi thu hồi đất, Nhà nước đã có các chính sách bồi thường, tái định cư hợp lý, được hầu hết những người có quyền, lợi ích liên quan đồng tình. Đồng thời, Nhà nước có chính sách đào tạo nghề cho những người trong độ tuổi có đất bị thu hồi để họ chuyển sang ngành nghề mới, ổn định cuộc sống. Với những chính sách đúng đắn đó, hầu hết người dân có đất bị thu hồi đều có nơi ở mới bằng hoặc hơn nơi ở cũ; có ngành nghề, việc làm mới phù hợp, thu nhập ổn định, đời sống vật chất, tinh thần được cải thiện. 

Bốn là, xây dựng, phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao đã nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng của sản phẩm hàng hóa và tăng thu nhập cho người nông dân

Để phát triển nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, tạo vùng sản xuất chuyên canh, tạo ra sản phẩm nông nghiệp chất lượng, hiệu quả kinh tế cao, Đảng và Nhà nước đã ban hành và triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách khuyến khích “dồn điền, đổi thửa”, tích tụ, tập trung đất nông nghiệp, xây dựng cánh đồng mẫu lớn; khuyến khích phát triển kinh tế trang trại; thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp.

Đại đa số nông dân đã nhận thức rõ về tính tất yếu trong liên kết, hợp tác sản xuất, sự cần thiết trong sản xuất hàng hóa quy mô lớn là xu hướng tất yếu trong tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế. Đồng thời, với cơ chế, chính sách hỗ trợ của Nhà nước, người nông dân đã tích cực, chủ động thực hiện tích tụ, tập trung đất nông nghiệp; thực hiện “dồn điền, đổi thửa”; tích cực chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi, cơ cấu mùa vụ; khai thác tiềm năng, thế mạnh của đất đai, lao động, nguồn vốn để đầu tư phát triển sản xuất; phát triển kinh tế tập thể, các tổ hợp tác, liên kết giữa các hộ nhằm tập trung đất đai, tiền vốn, năng lực quản lý để hình thành các mô hình chuyên canh, vùng sản xuất hàng hóa, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị cao. Với chính sách khuyến khích đầu tư phát triển trang trại, nhiều hộ nông dân đã mạnh dạn nhận những vùng đất hoang hóa, xa, xấu, cằn cỗi để đầu tư phát triển trang trại, tạo ra việc làm cho gia đình và cho nhiều nông dân trong địa phương.

Trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, việc ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp sẽ là giải pháp quan trọng nâng cao chất lượng, hiệu quả sản xuất, đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế. Để phát triển nông nghiệp công nghệ cao, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các quyết định như: Quyết định số 176/QĐ-TTg ngày 29-01-2010, phê duyệt “Đề án phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đến năm 2020”; Quyết định số 1895/QĐ-TTg, ngày 17-12-2012, phê duyệt “Chương trình phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao thuộc Chương trình quốc gia phát triển công nghệ cao đến năm 2020”. Để thực hiện có hiệu quả tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội trong bối cảnh nước ta tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới, Hội nghị Trung ương 4 khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 06-NQ/TW, ngày 5-11-2016, trong đó chỉ rõ: “Hiện đại hóa, thương mại hóa nông nghiệp, chuyển mạnh sang phát triển nông nghiệp theo chiều sâu, sản xuất lớn, dựa vào khoa học - công nghệ, có năng suất, chất lượng, sức cạnh tranh và giá trị gia tăng. Chuyển nền nông nghiệp từ sản xuất lương thực là chủ yếu sang phát triển nền nông nghiệp đa dạng phù hợp với lợi thế của từng vùng”(4)

Nghị quyết là đòn bẩy quan trọng thúc đẩy ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp. Qua đó, lợi thế từng địa phương được khai thác hiệu quả hơn, cơ cấu sản xuất nông nghiệp được điều chỉnh theo hướng gắn với nhu cầu thị trường trong nước và quốc tế. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi và quy trình sản xuất tiên tiến được áp dụng, nhất là quy trình thực hành sản xuất nông nghiệp tốt (VietGAP) đã tạo ra những sản phẩm an toàn, chất lượng tốt, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng, mang lại hiệu quả kinh tế cao cho người nông dân.

Năm là, nông dân Việt Nam là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển kinh tế nông thôn, xây dựng nông thôn mới hướng tới văn minh, phát triển toàn diện, có thu nhập cao; là lực lượng quan trọng bảo đảm vững chắc quốc phòng, an ninh, trật tự an toàn xã hội

Người nông dân từ miền ngược đến miền xuôi, từ ven biển, hải đảo đến miền núi, biên cương không chỉ là trung tâm của chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước mà họ đã thực sự là chủ thể nắm bắt những cơ hội, điều kiện thuận lợi do cơ chế, chính sách mang lại, chủ động tiếp cận những thành quả chung và tận dụng, phát huy, tạo ra những đổi thay quan trọng trong suy nghĩ, trong cách làm về phát triển kinh tế, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của mình. Đồng thời, nông dân cũng thực hiện đầy đủ, tự giác trách nhiệm và nghĩa vụ của mình trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội.

Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện chủ trương, chính sách về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng đã thẳng thắn chỉ ra những hạn chế, vướng mắc và đã đề ra nhiệm vụ, giải pháp khắc phục nhằm bảo đảm sự phát triển bền vững của nông nghiệp, hiện đại của nông thôn và xây dựng người nông dân hướng tới văn minh, hội nhập, góp phần phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục khẳng định: nông dân “là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội,... giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế”(5), “Nông dân là chủ thể, là trung tâm của quá trình phát triển nông nghiệp, kinh tế nông thôn và xây dựng nông thôn mới... Mục tiêu cao nhất trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn. Chú trọng xây dựng nông dân Việt Nam phát triển toàn diện, văn minh, yêu nước, đoàn kết,… có ý chí, khát vọng xây dựng quê hương, đất nước phồn vinh, hạnh phúc;… trách nhiệm xã hội, tôn trọng pháp luật, bảo vệ môi trường; được thụ hưởng những thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, từng bước tiếp cận các dịch vụ của đô thị... Xây dựng nông thôn hiện đại, phồn vinh, hạnh phúc, dân chủ, văn minh; có kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội đồng bộ;... đời sống văn hoá lành mạnh, phong phú, đậm đà bản sắc dân tộc; an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội được bảo đảm... Quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội nông thôn cần chú trọng phát triển hài hoà, đồng bộ cả nông nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, gắn với cơ cấu lại lao động, tạo sinh kế, việc làm tại chỗ, nâng cao thu nhập cho nông dân và cư dân nông thôn, bảo đảm quốc phòng, an ninh. Xây dựng nông thôn mới đi vào chiều sâu, thực chất, hiệu quả và bền vững(6). Từ quan điểm đó, Đảng đã đề ra những mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đồng bộ để phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045.

Thể chế hóa các quan điểm chỉ đạo và chủ trương của Đảng về nông nghiệp, nông dân, nông thôn, Nhà nước đã ban hành hàng loạt văn bản để đưa chủ trương của Đảng vào cuộc sống như: Nghị quyết số 25/2021/QH15 ngày 28-7-2021 của Quốc hội về việc “phê duyệt chủ trương đầu tư Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, Quyết định số 263/QĐ-TTg ngày 22-2-2022 của Thủ tướng Chính phủ “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2021 - 2025”, Quyết định số 90/QĐ-TTg ngày 28-01-2022 về “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2021 – 2025”; Quyết định số 1719/QĐ-TTg ngày 14-10-2021 “Phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi giai đoạn 2021 - 2030, giai đoạn I từ năm 2021 đến năm 2025”. Phê duyệt Đề án “Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin hỗ trợ đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế xã hội và đảm bảo an ninh trật tự vùng đồng bào dân tộc thiểu số Việt Nam giai đoạn 2019 - 2025”;… Đồng thời, Nhà nước tiếp tục thực hiện các chính sách an sinh xã hội như: Trợ cấp cho người từ 80 tuổi trở lên không có lương hưu và đang đề nghị thực hiện đối với người từ 75 đến dưới 80 tuổi; cấp thẻ bảo hiểm y tế cho đối tượng chính sách, người già, hộ nghèo, hộ cận nghèo; cho nông dân vay vốn ưu đãi từ Ngân hàng chính sách xã hội, từ Quỹ hỗ trợ nông dân; thực hiện miễn, giảm thuế…

Với những thành quả, bài học kinh nghiệm trong những năm qua và việc triển khai các nhiệm vụ, giải pháp tổ chức thực hiện trong những năm tới, chắc chắn rằng nông nghiệp, nông dân, nông thôn Việt Nam sẽ tiếp tục gặt hái nhiều thành công mới. Người nông dân luôn là trung tâm, là chủ thể trong phát triển nông nghiệp và xây dựng nông thôn mới; là người tham gia ý kiến, quyết định và hưởng lợi trực tiếp từ kết quả đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội, phát triển công nghiệp, dịch vụ; là cơ sở, lực lượng to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.

Như vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn xác định mục tiêu cao nhất trong phát triển nông nghiệp, nông thôn là nâng cao toàn diện đời sống vật chất, tinh thần của nông dân và cư dân nông thôn, không phải như các luận điệu xuyên tạc, phản động của thế lực thù địch và những kẻ cơ hội chính trị. Do vậy, không có cơ sở khoa học, thực tiễn nào để nói rằng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 người nông dân Việt Nam bị bần cùng hóa và tiềm ẩn gây mất ổn định chính trị, xã hội.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 546 (tháng 8-2023)

Ngày nhận bài: 25-7-2023; Ngày bình duyệt:  22 -8-2023; Ngày duyệt đăng: 24-8-2023.

(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.61-62, 27.

(3) https://antv.gov.vn/tin-tuc/the-gioi/xoa-doi-giam-ngheo-va-bai-hoc-thanh-cong-cua-viet-nam-299483.html.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.93-94.

(5), (6) https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/nghi-quyet-so-19-nqtw-ngay-1662022-hoi-nghi-lan-thu-nam-ban-chap-hanh-trung-uong-dang-khoa-xiii-ve-nong-nghiep-nong-dan-nong-8629.