Đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong giai đoạn mới
(LLCT) - Tuyên truyền, thông tin đối ngoại là bộ phận quan trọng trong công tác tư tưởng, công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước, là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của Đảng, Nhà nước ta, góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nâng cao uy tín, vị thế của ViệtNam trên trường quốc tế. Trước yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng, Đại hội XIII của Đảng khẳng định tiếp tục “đổi mới nội dung, phương pháp, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại”. Bài viết này làm rõ thêm quan điểm đó của Đảng.
Các phóng viên trong và ngoài nước tác nghiệp tại Trung tâm báo chí Hội nghị thượng đỉnh Mỹ - Triều Tiên năm 2019 - Ảnh: vnanet.vn
1. Thông tin đối ngoại (TTĐN) là một bộ phận của công tác tư tưởng, công tác đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta; là thông tin quảng bá hình ảnh đất nước, văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam; thông tin về chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật, những thành tựu của công cuộc đổi mới của Việt Nam ra thế giới; thông tin bảo vệ nền tảng tư trưởng của Đảng, đấu tranh phản bác những thông tin sai lệch, xuyên tạc về Việt Nam; đồng thời cung cấp thông tin có chọn lọc, phù hợp với quan điểm, đường lối của Đảng, văn hóa của dân tộc về tình hình quốc tế, kinh nghiệm, tinh hoa văn hóa của nhân loại vào Việt Nam.
Với vai trò quan trọng của tuyên truyền, TTĐN, trong suốt tiến trình lịch sử cách mạng, TTĐN luôn được quan tâm triển khai, làm cho bạn bè và nhân dân thế giới hiểu, đi đến ủng hộ cuộc đấu tranh chính nghĩa giành độc lập, tự do của dân tộc, thống nhất đất nước. Trong mỗi giai đoạn cụ thể, công tác TTĐN vẫn luôn nhận được sự quan tâm của Đảng, Nhà nước nhằm tối đa hóa nội lực, tranh thủ sức mạnh của sự hợp tác, hỗ trợ quốc tế đối với công cuộc tái thiết và phát triển đất nước.
Ngay từ tháng 5-1962, Bộ Chính trị (khóa III) đã ban hành văn bản chỉ đạo đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa về công tác TTĐN. Đó là Chỉ thị số 45-CT/TW về công tác tuyên truyền đối ngoại. Trong bối cảnh tình hình quốc tế có nhiều diễn biến phức tạp những năm 1990, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa VII) ban hành Chỉ thị số 11-CT/TW tháng 6-1992 về đổi mới và tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại. Trong đó, nhấn mạnh những nội dung cần tập trung đổi mới, cải tiến, nhất là về nội dung, lực lượng, phương thức, đối tượng và địa bàn trọng điểm, “tùy từng địa bàn, đối tượng và yêu cầu của từng lúc mà xác định nội dung và hình thức thông tin cho thích hợp, có trọng tâm, trọng điểm”.
Về tổ chức, bộ máy, ngày 27-12-2001, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa IX) đã ban hành Quyết định số 16-QĐ/TW về việc thành lập Ban Chỉ đạo Công tác TTĐN. Đây là bước phát triển quan trọng để đưa công tác TTĐN lên tầm cao mới, giúp Đảng, Nhà nước theo dõi tình hình, điều hành, chỉ đạo, phối hợp công tác TTĐN; đánh giá sâu sát tình hình, đề xuất chủ trương về công tác TTĐN của Việt Nam; đồng thời cũng đáp ứng nhu cầu cấp bách về việc tăng cường sự lãnh đạo, phối hợp của công tác TTĐN đáp ứng yêu cầu của quá trình mở rộng, đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế cũng như phục vụ sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
Ngày 10-9-2008, Ban Bí thư Trung ương Đảng (khóa X) ban hành Chỉ thị số 26/CT-TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác TTĐN trong tình hình mới, khẳng định rõ hơn nội dung, phương thức, đối tượng hoạt động TTĐN đáp ứng yêu cầu của tình hình mới, trong đó tập trung vào những nhiệm vụ: Tăng cường tuyên truyền chủ trương, đường lối của Đảng, luật pháp, chính sách của Nhà nước; tăng cường đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái của các phần tử cơ hội, phản động; tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo để hoạt động TTĐN được tiến hành chủ động, kịp thời và hiệu quả hơn; huy động mọi lực lượng, mọi khả năng để mở rộng và đa dạng hóa các phương thức TTĐN; xác định đúng những địa bàn, đối tượng, nội dung, phương, kết hợp chặt chẽ giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân trong hoạt động TTĐN; tăng cường đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật cho hoạt động TTĐN; tăng cường lực lượng TTĐN; xây dựng đội ngũ cán bộ TTĐN có bản lĩnh chính trị, trình độ nghiệp vụ chuyên môn giỏi.
Ngày 14-2-2012, Bộ Chính trị (khóa XI) đã ban hành Kết luận số 16-KL/TW về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020. Đây là lần đầu tiên Bộ Chính trị ban hành một kết luận chuyên đề về công tác TTĐN, đánh dấu sự ghi nhận tầm quan trọng của công tác TTĐN đối với đất nước, đồng thời thể hiện sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với công tác tuyên truyền, TTĐN trong bố cảnh đất nước hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng và toàn diện.
Kết luận nhấn mạnh, “công tác TTĐN là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị”. Trong TTĐN, cần xác định đối tượng có trọng tâm, trọng điểm; phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa thông tin đối nội và đối ngoại; giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chủ động cung cấp thông tin về tình hình trong nước, phản bác kịp thời và có sức thuyết phục đối với những luận điệu sai trái; bám sát, phục vụ triển khai các chính sách phát triển kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của đất nước, bảo đảm lợi ích quốc gia, dân tộc; đổi mới mạnh mẽ nội dung và hình thức thông tin, đa dạng hóa phương thức hoạt động thông tin đối ngoại, thực hiện tốt phương châm “Chính xác, kịp thời, sinh động, phù hợp từng đối tượng”; huy động mọi khả năng, mọi phương tiện, mọi hình thức để tham gia công tác TTĐN; tăng cường đầu tư nguồn nhân lực và tài chính cho công tác TTĐN; hiện đại hóa phương tiện, áp dụng những thành tựu mới của công nghệ thông tin nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả TTĐN.
Đây là cơ sở quan trọng để Chính phủ ban hành Chương trình hành động, các bộ, ngành liên quan xây dựng kế hoạch triển khai công tác TTĐN trên các lĩnh vực, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể.
2. Trong những năm qua, nhất là sau khi Bộ Chính trị ban hành Kết luận 16 - KL/TW về Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020, công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam đã được triển khai ngày càng chủ động, tích cực, bài bản, đạt nhiều kết quả.Công tác TTĐN đã góp phần đưa quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục được mở rộng và đi vào chiều sâu; “quan hệ đối ngoại và hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng và đi vào chiều sâu, tạo khung khổ quan hệ ổn định và bền vững với các đối tác”(1). Đó là một trong những cơ sở để Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định “đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(2).
Một là, nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính quyền và các tầng lớp nhân dân ngày càng được nâng cao
Hệ thống các cơ quan làm TTĐN được củng cố, kiện toàn, 63/63 tỉnh, thành phố đã thành lập Ban Chỉ đạo Công tác TTĐN, một số bộ, ngành như Bộ Quốc phòng, Bộ Công an cũng thành lập Ban Chỉ đạo Công tác TTĐN; hệ thống các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài đều đã có cán bộ theo dõi công tác TTĐN(3). Ngày càng nhiều ban, bộ, ngành, địa phương tổ chức gặp gỡ, cung cấp, trao đổi thông tin với đoàn trưởng các cơ quan đại diện ngoại giao Việt Nam ở nước ngoài trước khi các tàhnh viên đoàn thực hiện nhiệm kỳ ở nước ngoài(4). | “công tác TTĐN là một bộ phận rất quan trọng trong công tác tuyên truyền và công tác tư tưởng của Đảng; đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước; là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị”. Trong TTĐN, cần xác định đối tượng có trọng tâm, trọng điểm; phối hợp nhịp nhàng, chặt chẽ giữa thông tin đối nội và đối ngoại; giữa đối ngoại Đảng, ngoại giao Nhà nước và đối ngoại nhân dân; chủ động cung cấp thông tin về tình hình trong nước, phản bác kịp thời và có sức thuyết phục đối với những luận điệu sai trái;... |
Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật ngày càng được hoàn thiện. Kết quả là thông tin được cung cấp ngày càng nhanh chóng, kịp thời hơn, tạo thế chủ động trên mặt trận thông tin tuyên truyền; nội dung và phương thức thông tin được quan tâm đổi mới, lực lượng làm TTĐN ngày càng được mở rộng, tạo được hiệu ứng lan tỏa và hiệu quả trong công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam.
Hai là, công tác phối hợp tổ chức các hoạt động TTĐN ngày càng được tổ chức bài bản, đồng bộ, có tính kế hoạch, đạt hiệu quả cao hơn
Trên cơ sở hướng dẫn hằng năm về công tác TTĐN của Ban Chỉ đạo Công tác TTĐN, Ban Tuyên giáo Trung ương, các cơ quan, đơn vị, địa phương đều xây dựng chương trình, kế hoạch tổ chức các hoạt động TTĐN, trong đó xác định rõ cơ quan chủ trì, các đơn vị phối hợp; các hoạt động trọng tâm với thời gian, lộ trình thực hiện cụ thể. Việc phối hợp tổ chức từ khâu xây dựng kế hoạch đến triển khai các hoạt động TTĐN tạo sự đồng bộ, thống nhất trong toàn lực lượng triển khai TTĐN đã góp phần tạo hiệu ứng cộng hưởng, lan toả tích cực, đạt hiệu quả cao. Các sự kiện tiêu biểu như Tuần lễ Cấp cao Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC) lần thứ 25 và Năm APEC Việt Nam năm 2017; Hội nghị Diễn đàn kinh tế thế giới ASEAN (WE ASEAN) năm 2018; Hội nghị thượng đỉnh Mỹ -Triều Tiên (tháng 2-2019); Việt Nam trúng cử Ủy viên không thường trực Hôi đồng Bảo an Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2020-2021 với số phiếu gần như tuyệt đối (192/193); Việt Nam trúng cử Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhiệm kỳ 2023-2025 và chuyến thăm chính thức Trung Quốc vừa qua của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng,…
Ba là, nội dung TTĐN ngày càng đa dạng, toàn diện, có tính thuyết phục ngày càng cao
Ngoài những thông tin về quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước Việt Nam, nhiều thông tin về những thành tựu của công cuộc đổi mới, thông tin quảng bá hình ảnh đất nước, con người, lịch sử, văn hóa của dân tộc được thúc đẩy, đáp ứng nhu cầu tìm hiểu ngày càng sâu hơn về Việt Nam của bạn bè quốc tế.
Những thông tin về tình hình, kết quả và thành công trong cuộc phòng, chống đại dịch Covid-19 đã cho thế giới thấy được một dân tộc Việt Nam kiên cường, đoàn kết, nhân văn và chủ động, thể hiện trách nhiệm cao với cộng đồng quốc tế.
Nhiều thông tin về công tác đấu tranh bảo vệ chủ quyền biên giới lãnh thổ, biển, đảo; công tác bảo đảm và phát triển quyền con người của Việt Nam cũng như các vấn đề quan trọng, nhạy cảm khác được thúc đẩy, đa dạng hóa, có nội dung sâu sắc, đa chiều, có tính thuyết phục cao hơn, qua đó vừa khẳng định hình ảnh, vừa chủ động ngăn chặn, đấu tranh phản bác những thông tin sai sự thật, xuyên tạc về Việt Nam.
Bốn là, phương thức TTĐN có nhiều đổi mới, đa dạng, phong phú về hình thức
Ngoài các kênh truyền thống, các kênh tiếp xúc trực tiếp, trong đó hệ thống các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài, các cơ quan đại diện các nước, các tổ chức quốc tế tại Việt Nam ngày càng được phát huy, thể hiện hiệu quả rõ nét. Trong bối cảnh đại dịch Covid-19 diễn biến phức tạp trên thế giới, nhiều hoạt động đi lại, trao đổi đoàn phóng viên bị đình trệ, hệ thống các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài và của các nước, tổ chức quốc tế đã phát huy vai trò là kênh thông tin chính thức quan trọng và hiệu quả để chuyển tải thông tin trung thực về Việt Nam đến với bạn bè và nhân dân thế giới.
Nhiều bài viết, phát ngôn của các đại diện ngoại giao đã giúp dư luận, nhân dân thế giới hiểu đúng, đầy đủ về tình hình, từ đó giúp giải toả những hoài nghi, thắc mắc, dần tạo thế chủ động định hướng báo chí, đấu tranh dư luận hình thành những dòng thông tin chủ lưu tích cực. Cũng trong bối cảnh đó, nhiều hình thức trao đổi, cung cấp thông tin như hội nghị, hội đàm trực tuyến, hoặc trực tiếp kết hợp trực tuyến đã góp phần quan trọng duy trì kênh thông tin liên tục giữa bên trong và bên ngoài.
Kênh hợp tác quốc tế, trao đổi thông tin, trao đổi đoàn phóng viên, mở cơ quan thường trú của Việt Nam ở các nước cũng như của các nước tại Việt Nam của các cơ quan báo chí cũng thúc đẩy mạnh mẽ, nhất là sau khi chúng ta mở cửa trở lại. Đồng thời với đó, các sản phẩm, ấn phẩm cũng được đa dạng hóa bằng nhiều thứ tiếng nước ngoài như tiếng Anh, tiếng Trung, tiếng Pháp, tiếng Nga, tiếng Tây Ban Nha, tiếng Hàn, tiếng Nhật(5),… Việc tăng cường ứng dụng các phương thức truyền thông đa phương tiện, nhất là trên internet, phát thanh, truyền hình để công chúng có thể thu nhận thông tin bằng cả văn bản, hình ảnh, cũng như âm thanh; ứng dụng hiệu quả mạng xã hội,... đã phục vụ tốt tuyên truyền đối ngoại, bảo đảm kịp thời, sâu rộng đến cộng đồng xã hội.
Sự đa dạng phương thức đã góp phần quan trọng vào công tác thông tin về tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Năm là, địa bàn, phạm vi, đối tượng, lực lượng thông tin đối ngoại được mở rộng hơn
Với việc mở rộng quan hệ quốc tế với 192 nước trên thế giới, đặc biệt là việc mở rộng cả trên không gian thực và không gian mạng, địa bàn, phạm vi và đối tượng của thông tin đối ngoại đã trở nên không giới hạn.
Lực lượng làm công tác tuyên truyền, TTĐN cũng được tăng cường ngày càng đông đảo và có chất lượng. Đã có sự tham gia của cả hệ thông chính trị đối với việc triển khai các hoạt động TTĐN. Các bộ, ngành tham gia ngày càng chủ động vào triển khai công tác TTĐN qua các hoạt động trao đổi đoàn, qua báo chí, sách và các ấn phẩm, sản phẩm chuyên ngành. Hệ thống các cơ quan báo chí, xuất bản, phát thanh, truyền hình(6)... thực hiện tốt vai trò vừa là cơ quan ngôn luận của các tổ chức đảng, nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, là diễn đàn của nhân dân, đồng thời là cơ quan giữ vai trò nòng cốt cho công tác tuyên truyền đối ngoại.
Hệ thống các cơ quan đại diện Việt Nam, cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng tham gia tích cực, với nhiều nỗ lực đổi mới, sáng tạo, triển khai hiệu quả nhiều hoạt động tuyên truyền đối ngoại. Đặc biệt, sự tham gia ngày càng tích cực của hệ thống các cơ quan đại diện và báo chí các nước, các tổ chức quốc tế(7) cũng như cộng đồng các nhà đầu tư, khách du lịch nước ngoài đến Việt Nam, đã góp phần mang tiếng nói, hình ảnh khách quan, sinh động và thuyết phục hơn đến với bạn bè quốc tế.
Tuy nhiên, vẫn còn một số tồn tại, bất cập cần khắc phục, như chưa ý thức đúng vai trò của TTĐN đối với sự phát triển của đất nước trong bối cảnh Việt Nam hội nhập ngày càng sâu rộng, toàn diện và hiệu quả; chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong triển khai các hoạt động tuyên truyền đối ngoại; chất lượng công tác dự báo, tham mưu còn chưa kịp thời, chưa có tính chiến lược; việc kết hợp giữa tuyên truyền đối ngoại với thông tin đối nội, giữa đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân, giữa các cơ quan Trung ương với địa phương, giữa trong nước với các địa bàn nước ngoài vẫn còn thiếu đồng bộ; chưa tận dụng hiệu quả công nghệ, phương tiện truyền thông hiện đại; quản lý mạng xã hội còn bất cập, bảo đảm an toàn thông tin, an ninh mạng còn hạn chế; hình thức tuyên truyền còn chưa thực sự phù hợp với nhiều đối tượng; chưa khai thác tốt và phát huy hiệu quả các quan hệ lợi ích đan xen với các đối tác quan trọng. Sự phối hợp giữa các ngành, các địa phương trong công tác đối ngoại chưa chặt chẽ, thường xuyên”(8).
3. Bối cảnh thế giới được dự báo sẽ tiếp tục có những biến động nhanh chóng, phức tạp, khó đoán định.
Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn tiếp tục phức tạp, gay gắt và quyết liệt hơn; các quốc gia ra sức củng cố sức mạnh tổng hợp, chú trọng đến nâng cao sức mạnh mềm, tranh thủ vươn lên định vị vị thế tốt hơn trong cấu trúc khu vực và thế giới đang định hình.
Các thách thức an ninh phi truyền thống, nhất là đại dịch Covid -19 nổi lên có tác động sâu rộng, lâu dài đến an ninh, phát triển của nhiều quốc gia. cách mạng khoa học công nghệ, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của truyền thông số mang đến cả thời cơ và thách thức. Truyền thông quốc tế chịu ảnh hưởng mạnh mẽ và đã trở thành một thành tố của chiến tranh thông tin, cạnh tranh nước lớn và tập hợp lực lượng. Khu vực Đông Nam Á, Biển Đông trở thành địa bàn cạnh tranh gay gắt giữa các nước lớn, tạo ra cả cơ hội và thách thức đối với các quốc gia, vùng lãnh thổ trong khu vực.
Ở trong nước, sau 35 năm đổi mới, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của Việt Nam, uy tín quốc tế, niềm tin của nhân dân ngày càng được nâng cao. Việt Nam cũng phải đối diện với nhiều khó khăn, thách thức cả về chủ quan và khách quan trong giai đoạn phát triển mới.
Trong bối cảnh đó, các thế lực phản động, thù địch, cơ hội chính trị triệt để lợi dụng sự phát triển của công nghệ truyền thông, cạnh tranh nước lớn, những khó khăn do các thách thức an ninh phi truyền thống gây ra... nhằm đẩy mạnh các hoạt động tán phát thông tin xấu độc, tuyên truyền xuyên tạc, chống phá Việt Nam, phá hoại quan hệ của Việt Nam với các nước, gây ảnh hưởng đến hình ảnh, uy tín quốc tế của Việt Nam và Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bối cảnh quốc tế và nhiệm vụ tạo môi trường hòa bình, ổn định đáp ứng yêu cầu chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, nhất là các mục tiêu chiến lược phát triển quốc gia đến năm 2030, hướng đến năm 2045 được Đại hội XIII của Đảng xác định, đang đặt ra những yêu cầu mới đối với công tác TTĐN. Đây là các mục tiêu lớn, đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực, kết hợp cao nhất sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại. Công tác TTĐN của Việt Nam, do đócần tập trung thực hiện tốt các nhiệm vụ sau:
Một là, quán triệt sâu sắc những chủ trương, nhiệm vụ đối ngoại của Đảng và Nhà nước theo tinh thần Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng, chỉ đạo của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội nghị Đối ngoại toàn quốc triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng, nhất là chủ trương “độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Bảo đảm cao nhất lợi ích quốc gia - dân tộc trên cơ sở các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác, cùng có lợi. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy và là thành viên tích cực, có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế”(9).
Đồng thời, cần quán triệt nghiêm túc tinh thần chỉ đạo theo Kết luận của Bộ Chính trị về Chiến lược thông tin đối ngoại đến năm 2030, tầm nhìn 2045. Theo đó, TTĐN là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị; góp phần khơi dậy mạnh mẽ khát vọng, nêu cao tinh thần yêu nước, phát huy ý chí độc lập, tự lực tự cường, lòng tự tôn dân tộc, tạo động lực thúc đẩy sức mạnh nội sinh cho xây dựng và phát triển đất nước; kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực phục vụ sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước và hội nhập quốc tế, tăng cường sức mạnh tổng hợp quốc gia.
Luôn luôn bảo đảm sự lãnh đạo, chỉ đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà nước đối với các hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế, trong đó có hoạt động TTĐN. Nhận thức rõ quan điểm trên cơ sở vừa hợp tác, vừa đấu tranh, tiếp tục nâng cao hiệu quả hoạt động đối ngoại và hội nhập quốc tế vì lợi ích quốc gia - dân tộc, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục phát huy vai trò tiên phong của đối ngoại trong việc tạo lập và giữ vững môi trường hoà bình, ổn định, huy động các nguồn lực bên ngoài để phát triển đất nước, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước. Xây dựng nền ngoại giao toàn diện, hiện đại với ba trụ cột là đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước và đối ngoại nhân dân. Đẩy mạnh đối ngoại song phương và nâng tầm đối ngoại đa phương. Coi trọng phát triển quan hệ hợp tác, hữu nghị, truyền thống với các nước láng giềng; chủ động, tích cực và có trách nhiệm cùng các nước ASEAN. Đẩy mạnh và làm sâu sắc hơn quan hệ hợp tác song phương với các đối tác, đặc biệt là các đối tác chiến lược, đối tác toàn diện và các đối tác quan trọng khác.
Chủ động, tích cực tham gia các cơ chế đa phương về quốc phòng, an ninh theo tư duy mới về bảo vệ Tổ quốc. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp của các thế lực thù địch vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị đất nước. Tiếp tục thúc đẩy giải quyết các vấn đề trên biển, an ninh, an toàn hàng hải, hàng không trên cơ sở luật pháp quốc tế. Củng cố đường biên giới hoà bình, an ninh, hợp tác và phát triển; giải quyết các vấn đề còn tồn tại liên quan đến đường biên giới trên bộ với các nước láng giềng. “Chủ động và tích cực hội nhập quốc tế, giải quyết tốt mối quan hệ giữa độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế; hội nhập quốc tế toàn diện, sâu rộng, linh hoạt, hiệu quả vì lợi ích quốc gia - dân tộc”(10).
Hai là, “Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu chiến lược về đối ngoại, không để bị động, bất ngờ”(11). Nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng, chính quyền và toàn thể nhân dân về vai trò quan trong và những nội dung chủ yếu của công tác tuyên truyền đối ngoại. Chủ động, linh hoạt và sáng tạo, nâng cao chất lượng công tác tham mưu về đối ngoại và hội nhập quốc tế. Tăng cường công tác tuyên truyền đối ngoại, hội nhập quốc tế, tạo đồng thuận trong nước và tranh thủ sự ủng hộ của bạn bè quốc tế, đáp ứng yêu cầu xây dựng và bảo vệ đất nước. Tiếp tục đổi mới nội dung, nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại theo phương châm “Chủ động, thống nhất, sáng tạo, hiệu quả”.
Ba là, tiếp tục hoàn thiện tổ chức, cơ chế chỉ đạo, chủ động phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị và địa phương, bảo đảm tính thống nhất và thực hiện tốt các nhóm nhiệm vụ về thông tin, tuyên truyền đối ngoại. Cần tiếp tục tăng cường sự phối hợp hiệu quả giữa các bộ ngành cơ quan tham gia làm công tác tuyên truyền đối ngoại; tiếp tục nâng cao hơn nữa tính “chủ động” trong thông tin tuyên truyền cùng với đó là đẩy mạnh nghiên cứu, đổi mới, cải tiến và nâng cao hiệu quả công tác thông tin, tuyên truyền trong đó có việc mở rộng đối tượng tranh thủ, đổi mới tư duy về cung cấp thông tin. Công tác tuyên truyền đối ngoại không phải là nhiệm vụ riêng của ngành tuyên giáo và các cơ quan trong khối tuyên truyền, mà là nhiệm vụ của mỗi cán bộ, đảng viên, người có uy tín, già làng; đặc biệt là phải có sự tham gia của các tầng lớp nhân dân góp phần vào nhiệm vụ chính trị chung của toàn Đảng bộ tỉnh.
Bốn là, thường xuyên đổi mới, đa dạng hóa nội dung tuyên truyền đối ngoại. Nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền đối ngoại, bảo hộ công dân, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Tập trung, thống nhất trong công tác chỉ đạo hoạt động TTĐN, trong xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ công tác TTĐN từng khu vực trên thế giới, từng địa bàn trong nước, nhất là các tỉnh biên giới.
Tăng cường công tác thông tin tuyên truyền và TTĐN nhằm quảng bá hình ảnh Việt Nam tới tất cả các nước, góp phần xây dựng quan hệ hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển. Tập trung sản xuất nội dung thông tin tuyên truyền đối ngoại toàn diện, như: xây dựng và sản xuất các bản tin, video, clip, thư viện điện tử... bằng tiếng Việt, tiếng nước ngoài, tiếng dân tộc; nâng cao hiệu quả đấu tranh phản bác luận điệu sai trái, xuyên tạc của các thế lực cơ hội, thù địch.
Năm là, đa dạng hóa phương thức, phương tiện thông tin đối ngoại. Phát huy vai trò của các cơ quan báo chí đối ngoại chủ lực, cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài. Tăng cường các kênh thông tin bằng tiếng nước ngoài; sử dụng các phương tiện truyền thông mới, nhất là các mạng xã hội vào mục đích thông tin, tuyên truyền đối ngoại một cách kịp thời và hiệu quả; làm tốt công tác phát ngôn, chủ động hơn trong việc cung cấp thông tin, đấu tranh dư luận.Quan tâm thông tin bảo hộ công dân, triển khai toàn diện và mạnh mẽ hơn công tác người Việt Nam ở nước ngoài. Tuyên truyền đối ngoạicần đóng vai trò tích cực, sáng tạo hơn trong kết nối, thu hút nguồn lực kinh tế, tri thức của người Việt Nam ở nước ngoài, đáp ứng các yêu cầu phát triển và hội nhập của đất nước trong thời kỳ mới.
Tăng cường ứng dụng truyền thông đa phương tiện, nhất là internet, phát thanh, truyền hình để công chúng có thể thu nhận thông tin bằng cả văn bản, hình ảnh, cũng như âm thanh. Ứng dụng hiệu quả mạng xã hội phục vụ tuyên truyền đối ngoại kịp thời, sâu rộng đến cộng đồng xã hội. Đẩy mạnh các kênh tiếp xúc trực tiếp, như kênh Nhà nước, Chính phủ, trong đó cơ quan đại diện ngoại giao của Việt Nam ở nước ngoài là một kênh quan trọng trong tuyên truyền đối ngoại.
Đẩy mạnh công tác ngoại giao nhân dân góp phần vào thành công của công tác tuyên truyền đối ngoại. Làm tốt công tác thông tin tình hình trong nước, giúp đồng bào hướng về Tổ quốc, nhận thức và hành động phù hợp với lợi ích quốc gia - dân tộc, có chính sách thu hút nguồn lực của người Việt Nam ở nước ngoài đóng góp tích cực cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Sáu là, nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền đối ngoại. Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh, “cán bộ là cái gốc của mọi công việc”, Đảng chú trọng “Nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, tính chuyên nghiệp, hiện đại, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại và hội nhập quốc tế; chủ động thích ứng trước chuyển biến của tình hình”(12). Do đó, việc nâng cao bản lĩnh, phẩm chất, năng lực, phong cách chuyên nghiệp, đổi mới sáng tạo của đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền, thông tin đối ngoại là yếu tố quyết định, mang tính đột phá nhằm đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ tuyên truyền đối ngoại ngày một cao hơn trong tình hình mới.
Tăng cường đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác tuyên truyền đối ngoại theo hướng ngày càng chuyên nghiệp, chú trọng trình độ ngoại ngữ, kỹ năng sử dụng các phương tiện truyền thông hiện đại, có sự am hiểu sâu sắc về văn hóa của Việt Nam cũng như các nước đối tác.
Bảy là, tăng cường đầu tư nhân lực, vật lực phục vụ công tác TTĐN. Đầu tư trang thiết bị hiện đại, nhất là các thiết bị công nghệ thông tin phục vụ công tác tuyên truyền đối ngoại ở trong nước và các cơ quan ngoại giao ở nước ngoài. Lồng ghép TTĐN với các hoạt động giao lưu, xúc tiến đầu tư, thương mại, du lịch, giới thiệu tiềm năng, thế mạnh, nét văn hóa đặc sắc của Việt Nam, góp phần quảng bá hình ảnh đất nước. Quan tâm chế độ, chính sách đối với các cơ quan và đội ngũ cán bộ làm công tác thông tin, tuyên truyền đối ngoại.
Nhằm nhanh chóng đưa Nghị quyết Đại hội XIII vào cuộc sống, phục vụ công tác đối ngoại, công tác TTĐN cần phát huy các thành tựu đạt được, tận dụng các cơ hội truyền thông, không ngừng đổi mới, sáng tạo cả về nội dung, phương thức và lực lượng. Qua đó, lan tỏa sâu rộng các chủ trương đối ngoại của Đảng ta cả ở trong nước và cộng đồng quốc tế, khẳng định đường lối, quan điểm đối ngoại của Việt Nam về các vấn đề quốc tế là phù hợp với xu thế và các giá trị chung của nhân loại tiến bộ. Từ đó, huy động hiệu quả sự ủng hộ, hợp tác, hỗ trợ của cộng đồng quốc tế đối với công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai đoạn phát triển mới.
_________________
Ngày nhận bài: 8 - 4-2023; Ngày bình duyệt: 10-4-2023; Ngày duyệt đăng: 13-4-2023.
(1), (9), (10), (11), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Tập 1. Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.69, 88, 161 -162, 162, 165
(2) Phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại phiên khai mạc Đại hội XIII của Đảng, ngày 26-01-2021.
(3), (4) Ban Chỉ đạo công tác TTĐN: Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 16-KL/TW của Bộ Chính trị (khóa XI) về “Chiến lược phát triển thông tin đối ngoại giai đoạn 2011-2020”.
(5) Theo số liệu của Bộ Ngoại giao, năm 2017 có 15 cơ quan, địa phương; năm 2022 có 30 cơ quan.
(6) Trong khoảng 10 năm qua, các cơ quan báo chí, nhất là các cơ quan chủ lực đã cho ra đời nhiều ấn phẩm tiếng nước ngoài: Thông tấn xã Việt Nam (9 ngoại ngữ), Đài Tiếng nói Việt Nam (11 ngoại ngữ). Ngoài các ngoại ngữ thông dụng, các cơ quan như Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân, Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam,… đều cho ra đời các sản phẩm, ấn phẩm mới với những ngoại ngữ được sử dụng nhiều trên thế giới như tiếng Tây Ban Nha, Nhật, Hàn, Khmer,…
(7) Theo Báo cáo tại Hội nghị báo chí toàn quốc năm 2022, Việt Nam có 127 báo, 670 tạp chí, 57 nhà xuất bản, 72 Đài phát thanh truyền hình, 77 kênh phát thanh, 194 kênh truyền hình.
(8) Theo Báo cáo tại Hội nghị báo chí toàn quốc năm 2022, chỉ tính riêng kênh nước ngoài cung cấp dịch vụ truyền hình trả tiền tại Việt Nam đã có 57 kênh.
NGUYỄN VĂN HAY
Phó Bí thư Thường trực
Đảng ủy cơ quan Ban Tuyên giáo Trung ương