Giải pháp thực hiện đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
(LLCT) - Thống nhất nhận thức và có giải pháp khả thi thực hiện thắng lợi đột phá chiến lược thứ hai: Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao... là phát huy được sức mạnh nội lực to lớn để phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc.
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Ảnh: vnanet.vn
1. Thống nhất nhận thức về đột phá chiến lược: Phát triển nguồn nhân lực
Đột phá chiến lược (ĐPCL) thứ hai được Đại hội XIII của Đảng xác định là: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo; khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc”(1).
“Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao...” cũng có nhiều nội dung mới: thứ nhất, ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng GDĐT gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài; thứ hai, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh KHCN, đổi mới sáng tạo; thứ ba, khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam, tinh thần đoàn kết, tự hào dân tộc trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đây là một cách tiếp cận vấn đề mới, rất thực tế, một phương hướng hợp lý, tích cực nhằm phát triển kinh tế - xã hội đất nước nhanh và bền vững.
Các nội dung mới của ĐPCL thứ hai này cần được nhận thức đầy đủ, toàn diện, thống nhất để triển khai thực hiện thành công nhằm đạt được mục tiêu do Đại hội XIII của Đảng đề ra. Tuy nhiên, vấn đề nhận thức ĐPCL thứ hai cũng còn một số vấn đề đặt ra:
Nội hàm của ĐPCL thứ hai: cho đến thời điểm hiện nay, tầm quan trọng và vai trò của việc phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao không còn là vấn đề phải tranh luận. Tuy nhiên, có thể thấy còn nhiều vấn đề cụ thể từ các quan niệm (concept), thuật ngữ sử dụng trong đột phá này còn chưa được làm rõ. Đồng thời, một trong những vấn đề hết sức quan trọng về nhận thức đối với đột phá này: ai là chủ thể của việc thực hiện đột phá này cũng chưa thật rõ... Đây là những vấn đề làm cho việc tổ chức, triển khai thực hiện trong thực tiễn chưa có kết quả tốt và lúng túng. Cụ thể như sau:
Về phát triển nguồn nhân lực - có quá nhiều những thuật ngữ chưa rõ về nội hàm vì vậy, khó triển khai ngay trong thực tiễn, và cần phải có nghiên cứu làm rõ:
Văn kiện ghi “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao”. Trong nhiều năm và cho đến thời điểm hiện nay có thể nói chưa có một quan niệm rõ ràng, phù hợp, dễ vận dụng trong thực tiễn về “nhân lực chất lượng cao”. Đây là vấn đề mà ngay cả trong giới học thuật cũng như quản lý dường như có sự “đồng nhất” với năng lực học vấn (được xác nhận bằng bằng cấp, chứng chỉ...), thay vì nguồn nhân lực có kỹ năng thực sự ở nhiều cấp độ. Vì chưa có quan niệm rõ ràng nên việc đánh giá, đo lường, cụ thể hóa vào các chương trình phát triển gặp khó khăn, lúng túng...
Văn kiện ghi “ưu tiên phát triển nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt...”. Ở đây, cũng xuất hiện hai vấn đề cần phải làm rõ để có thể triển khai trong thực tiễn (và cũng cần sớm xác định): (i) nhân lực lãnh đạo, quản lý cũng là một phạm trù rất “chung”: lãnh đạo, quản lý kinh tế, quản lý doanh nghiệp hay lãnh đạo, quản lý nhà nước, lãnh đạo quản lý xã hội, phát triển xã hội; (iii) tương tự câu hỏi đặt ra là đâu là “lĩnh vực then chốt”. Những vấn đề này cũng cần sớm được làm rõ và thống nhất...
Nội hàm của việc “...chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo...” cũng hết sức rộng và đây cũng là một nguyên nhân dẫn đến việc thực hiện chủ trương này trong 10 năm qua chưa thành công. Vấn đề này cũng đã được thảo luận rất nhiều, nhưng chưa có sự thống nhất và quan niệm cụ thể, vì vậy không có được thước đo, công cụ đánh giá để nhận rõ vấn đề và có hành động cụ thể. Quan niệm “toàn diện”, “cơ bản” làm khó khăn trong xác định trọng tâm, trọng điểm và hành động cụ thể trong phát triển GDĐT...
Phát triển GDĐT “gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” là chủ trương rất đúng và quan trọng. Tuy nhiên, ở đây cũng xuất hiện thuật ngữ “nhân tài” mà rất khó có thể có được quan niệm rõ ràng.
Vấn đề tiếp theo về lý luận và nhận thức: khi đặt vấn đề như vậy, phần nào chưa cho thấy tầm quan trọng và vị trí của KHCN và đổi mới sáng tạo trong thời gian tới. Vì vậy, cũng sẽ rất khó cho việc xác định và triển khai các hành động cụ thể nhằm phát triển nhân lực nói chung, GDĐT và KHCN nói riêng...
Phát triển nguồn nhân lực nhìn chung mới được chú ý về phía cung. Thực tiễn cũng như kinh nghiệm của nhiều quốc gia cho thấy việc phát triển nguồn nhân lực và KHCN cần phải được chú trọng và dựa vào cầu nhân lực. Đây là một vấn đề quan trọng về nhận thức, từ đó có thể sẽ thúc đẩy sự thay đổi về cơ chế, chính sách cũng như các chương trình phát triển nhân lực và khoa học - công nghệ.
2. Vấn đề đặt ra trong thực tiễn phát triển nguồn nhân lực
Một là, kết quả thực hiện đột phá chiến lược về phát triển nguồn nhân lực còn hạn chế
Quy mô nhân lực gia tăng nhưng chất lượng nhân lực còn yếu kém
Tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng nhưng chưa đạt mục tiêu đề ra của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm 2011 - 2020 (tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt khoảng 60% năm 2020(2); mục tiêu của Chiến lược là 70%); trong số lao động qua đào tạo thì số lao động có bằng cấp, chứng chỉ đạt 22,24% (năm 2018)...
Năng suất lao động thấp, năm 2017 năng suất lao động của nước ta đạt 93,2 triệu đồng (tương đương khoảng 4.159 USD) thấp nhất trong nhóm quốc gia thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương, thấp hơn 15 lần so với Xinhgapo, 11 lần so với Nhật Bản, 10 lần so với Hàn Quốc, bằng 1/5 so với Malaixia, 2/3 so với Thái Lan(3).
Nhân lực Việt Nam xếp thứ 98/118 quốc gia tham gia khảo sát đánh giá về năng lực cạnh tranh quốc gia năm 2017. Kỹ năng, kỹ thuật tay nghề của người lao động Việt Nam thấp, xếp thứ 109/125 quốc gia(4).
Nhân lực chất lượng cao (theo cách hiểu hiện nay) phân bố không đồng đều, đặc biệt nước ta đang thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao ở nhiều lĩnh vực, ngành nghề.
Hiện nay, nhân lực chất lượng cao ở nước ta có khoảng 7,46 triệu người năm 2018, chỉ chiếm 13,4% lực lượng lao động...
Nhân lực chất lượng cao (theo tiêu chuẩn đo lường hiện nay) tập trung nhiều nhất trong ngành GDĐT (chiếm khoảng 30%), cơ quan đảng, tổ chức chính trị - xã hội, quản lý nhà nước và an ninh - quốc phòng (chiếm 19%), y tế và hoạt động trợ giúp xã hội (chiếm 8%). Đặc biệt, ngành công nghiệp chế biến, chế tạo - là ngành chủ lực trong quá trình CNH, HĐH chỉ chiếm 9% tổng số lao động có trình độ cao, trong khi các nước phát triển, tỷ lệ này lên đến 40 - 60%.
Nước ta đang thiếu những chuyên gia/nhà khoa học, doanh nhân/giám đốc điều hành (CEO), kiến trúc sư, luật gia/luật sư, nhà đàm phán, tư vấn, chuyên gia tài chính - tín dụng, các nhà phát minh, sáng chế, chế tạo, nhà quản lý/quản trị, marketing, bán hàng... đạt đẳng cấp quốc tế. Trong rất nhiều những ngành nghề, lĩnh vực như dệt may, da giày... nước ta đều phải thuê nhân lực người nước ngoài cho một số công đoạn như thiết kế, kiểm soát chất lượng...
Các báo cáo chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh PCI cho thấy nhiều doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) tại Việt Nam đang vấp phải khó khăn trong việc tuyển dụng cán bộ kỹ thuật có tay nghề để phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh. Ngay cả ngành công nghệ thông tin, số ứng viên công nghệ thông tin ra trường đáp ứng được nhu cầu thực tiễn cũng còn hạn chế, mặc dù ngành này đã được tập trung đào tạo nhân lực từ nhiều năm và hiện vẫn có nhu cầu lao động cao.
Nhân lực nước ta, nhìn chung chưa thật sự đáp ứng được yêu cầu/nhu cầu của người sử dụng lao động (doanh nghiệp), chưa sẵn sàng cho cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư ngay cả đội ngũ nhân lực chất lượng cao.
Theo đánh giá của các nhà tuyển dụng lao động và điều tra của tập đoàn tuyển dụng Vietnamworks, chất lượng nhân lực Việt Nam còn nhiều hạn chế cả về chuyên ngành đào tạo, kỹ năng làm việc (kỹ năng cứng, mềm), ngoại ngữ, khả năng làm việc độc lập, nhóm... phần lớn người lao động sau khi được tuyển dụng doanh nghiệp đều phải đào tạo lại...
Theo bản tin cập nhật về thị trường lao động do Tổng Cục Thống kê và Bộ Lao động, Thương binh và xã hội công bố, hằng quý vẫn có từ 200 - 300 nghìn sinh viên có trình độ cao đẳng, đại học trở lên không có việc làm sau khi tốt nghiệp...
Việc đổi mới căn bản và toàn diện nền giáo dục quốc dân còn chậm, chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển của đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Kết thúc thực hiện Chiến lược 2011 - 2020 nhưng ngành GDĐT nước ta vẫn chưa thật sự tìm được lối ra, định hình hướng đi cho nền giáo dục trong bối cảnh thay đổi nhanh chóng của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, thị trường lao động phẳng...
Hai là, xác lập, hoàn thiện về thể chế cho phát triển nhân lực, khoa học và công nghệ còn chậm, chưa đồng bộ và thiếu định hướng rõ ràng, thực hiện còn chưa quyết liệt
Chưa rõ vai trò, chức năng của Nhà nước, doanh nghiệp và các chủ thể khác trong quá trình phát triển GDĐT. Thực tiễn hiện nay dường như vẫn có một “tâm lý” chung rằng Nhà nước lo phát triển nguồn nhân lực để cung cấp cho nền kinh tế, cho xã hội (mặc dù đây là chức năng quan trọng của Nhà nước), trong khi nguồn lực của Nhà nước hạn chế. Luật Doanh nghiệp, Bộ luật Lao động có quy định trách nhiệm của người sử dụng lao động về việc đào tạo và đào tạo lại lao động đối với lao động được tuyển dụng. Tuy nhiên, như vậy là không đủ...
Do chưa phân định một cách rõ ràng và hợp lý vai trò, chức năng, trách nhiệm... của các chủ thể trong quá trình phát triển GDĐT nên quản lý nhà nước về hoạt động GDĐT còn nhiều vấn đề chưa được giải quyết, dẫn đến lúng túng trong quá trình triển khai thực hiện...
Chưa thật sự sẵn sàng cho một cuộc cải cách, đổi mới căn bản trong hoạt động đào tạo: Nhà nước (Bộ Giáo dục và Đào tạo, các bộ, ngành) vẫn chưa muốn từ bỏ quyền chủ quản đối với các cơ sở đào tạo; chưa cho phép các cơ sở đào tạo tự chủ toàn diện, vẫn can thiệp vào bộ máy, biên chế, tài chính, nội dung, phương pháp, chỉ tiêu, kế hoạch tuyển sinh của các cơ sở đào tạo...
Thị trường lao động kém phát triển và chưa tạo lập được sự liên kết giữa phát triển nhân lực (hệ thống đào tạo) và phát triển thị trường lao động. Thị trường lao động phát triển và gắn kết với các cơ sở đào tạo sẽ tạo điều kiện để xã hội (cụ thể là người dân) định hướng đào tạo kỹ năng cho bản thân mình, đồng thời từ đó sẽ tạo ra “áp lực” để các cơ sở đào tạo phải thay đổi chương trình đào tạo, nâng cao chất lượng đào tạo nhằm “tồn tại” và đáp ứng nhu cầu của xã hội...
Thiếu gắn kết giữa phát triển nguồn nhân lực với phát triển, ứng dụng KHCN dẫn đến hạn chế năng lực nghiên cứu, ứng dụng KHCN và ảnh hưởng mạnh tới chất lượng phát triển nhân lực:
Hoạt động nghiên cứu ở các cơ sở đào tạo (nhất là bậc đại học) còn hết sức khiêm tốn, đặc biệt là ở các trường đại học công nghệ. Tuy vậy, chưa có những quy định mang tính pháp lý thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu khoa học và công nghệ, ít nhất là với các trường công lập.
Hoạt động đào tạo, phát triển nhân lực thông qua các chương trình, đề tài, dự án nghiên cứu, ứng dụng KHCN đã được triển khai hằng năm thông qua Quỹ phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, nhưng chủ yếu thực hiện các nhiệm vụ nghiên cứu hàn lâm trong khu vực công, chưa có nhiều nghiên cứu ứng dụng, đặc biệt chưa hướng đến việc gắn kết phát triển nhân lực của khu vực tư và doanh nghiệp ngoài nhà nước. Quy định, thủ tục để nhân lực, doanh nghiệp khu vực tư tiếp cận nguồn vốn này là rất khó khăn.
Các quỹ phát triển ứng dụng KHCN trong các cơ sở GDĐT thường có quy mô nhỏ, chưa đáp ứng được nhu cầu...
Mặc dù đã có quy định trong khuôn khổ Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp cho phép doanh nghiệp trích lợi nhuận (10%) cho quỹ KHCN và những miễn trừ thuế thu nhập đối với một số hoạt động liên quan đến phát triển KHCN nhưng chưa có cơ chế hữu hiệu để thu hút các doanh nghiệp thành lập các quỹ KHCN phục vụ nghiên cứu, đào tạo nhân lực, chuyển giao, áp dụng KHCN trong các doanh nghiệp...
3. Giải pháp thực hiện đột phá chiến lược thứ hai: phát triển nguồn nhân lực
Một là, tăng cường, nâng cao nhận thức về đột phá chiến lược phát triển nguồn nhân lực
Phát triển nhân lực chất lượng cao, có kỹ năng đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư; thúc đẩy mạnh mẽ năng lực đổi mới sáng tạo; tập trung đào tạo, bồi dưỡng, thu hút nhân tài. Do bối cảnh và tác động cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội, yêu cầu về chất lượng nguồn nhân lực, đặc biệt nhân lực chất lượng cao phải thay đổi. Theo đó nhân lực đòi hỏi phải có nhiều kỹ năng mới mà đổi mới, sáng tạo là yếu tố quyết định. Chính sách bồi dưỡng và thu hút nhân tài cần được thực hiện căn cơ, bài bản.
Sớm nghiên cứu làm rõ các thuật ngữ đã nêu trong đột phá chiến lược để tạo sự thống nhất về cách hiểu làm cơ sở cho việc hoạch định các chính sách, chương trình thực hiện. Đồng thời, tăng cường sự đồng thuận trong xã hội, tạo điều kiện triển khai thực tiễn có hiệu quả.
Nghiên cứu, xây dựng các tiêu chí, tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng nguồn nhân lực, thay vì chỉ có các tiêu chí liên quan đến bằng cấp, chứng chỉ... như hiện nay. Các tiêu chí đánh giá nên được xuất phát từ phía cầu (mức độ đáp ứng nhu cầu về lao động, việc làm, thí dụ: tỷ lệ có việc làm và việc làm phù hợp sau khi được cấp chứng chỉ, văn bằng; hiệu quả, hiệu suất, năng suất làm việc...). Việc này kết hợp với cơ chế, chính sách tuyển dụng nhân lực (từ phía cầu) sẽ tạo ra sự chuyển biến nhận thức trong toàn xã hội về đào tạo, tự đào tạo trong phát triển nguồn nhân lực.
Ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý
Để ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý cần thực hiện:
Áp dụng chế độ “chức nghiệp thực tài”. Điều này đòi hỏi đổi mới cách thức tuyển dụng, đánh giá, trả lương, khen thưởng, đề bạt, bổ nhiệm. Cách thức tiến hành công khai, minh bạch, dân chủ. Các hình thức này về cơ bản đã được các nước tiên tiến áp dụng và rất có hiệu quả.
Đổi mới công tác đào tạo. Đây là một phần trong nội dung “cải cách căn bản và toàn diện” đang triển khai, nhưng cần “ưu tiên”. Hướng ưu tiên là đào tạo những kỹ năng mà thực tiễn đòi hỏi.
Ưu tiên cho các lĩnh vực then chốt, gồm: nông nghiệp, công nghệ thông tin, cơ khí chế tạo, dược phẩm, giáo dục, y tế, dịch vụ tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, luật sư, tư vấn chính sách, ... Cách làm: trở lại chính sách ưu tiên áp dụng chế độ “chức nghiệp thực tài” như nêu ở trên.
Các nút thắt cần tháo gỡ trong lĩnh vực phát triển nhân lực, gồm:
Rà soát lại tất cả những văn bản pháp luật liên quan để loại bỏ những nội dung mâu thuẫn, xung đột khi triển khai thực hiện các chủ trương: KHCN cùng với GDĐT là quốc sách hàng đầu. Hiện vẫn còn nhiều vướng mắc trong chế độ thuế, ưu tiên cấp đất, tiền lương, chế độ tự chủ.
Tạo chuyển biến rõ nét trong nhận thức từ coi trọng bằng cấp sang đánh giá dựa trên năng lực của người lao động. Nâng cao ý thức tôn trọng và tuân thủ quyền sở hữu trí tuệ, thúc đẩy các hoạt động phát minh/sáng chế, phát huy năng lực sáng tạo của nguồn nhân lực
Thực hiện nguyên tắc giá cả sức lao động (tiền lương, tiền công) do thị trường quyết định và được phân phối theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, theo tài năng cống hiến. Đặc biệt là thực hiện một hệ thống phân phối tiền lương gắn với năng suất lao động, hiệu quả làm việc; thực hiện công bằng trong phân phối và khuyến khích, tôn vinh lao động sáng tạo, thúc đẩy phát triển nhân lực trình độ cao, trọng dụng nhân tài. Có chế độ thu hút, đãi ngộ thỏa đáng. Đổi mới có tính cách mạng về tuyển dụng, sử dụng, đánh giá và trả công lao động; gắn sử dụng, đánh giá với đào tạo nguồn nhân lực.
Hoàn thiện chính sách quản lý, tuyển dụng và sử dụng lao động, thu hút và giữ chân nhân tài, cũng như phương pháp đánh giá nhân viên, người lao động. Theo đó, cần chú trọng phát triển văn hóa cơ quan, doanh nghiệp và hệ thống chỉ số đánh giá lao động; cũng như nghiên cứu và xây dựng các chính sách, chế độ thu hút và sử dụng nhân tài (bảo hiểm, tiền lương, chăm sóc gia đình, chế độ đào tạo, v.v.).
Tăng cường hoạt động tư vấn, giới thiệu việc làm, đa dạng hóa các hoạt động giao dịch việc làm, kết nối cung - cầu lao động. Xây dựng đồng bộ cơ sở hạ tầng của thị trường lao động (hướng nghiệp, dịch vụ việc làm, cơ sở dữ liệu thông tin, dự báo thị trường lao động...) và tổ chức nghiên cứu dự báo và cung cấp các dịch vụ công về việc làm có hiệu quả.
Tăng cường và mở rộng hợp tác quốc tế về phát triển nhân lực. Chủ động tham gia xây dựng, tiếp cận chuẩn đào tạo, tiêu chuẩn kỹ năng nghề, cũng như các thoả thuận công nhận lẫn nhau về các tiêu chuẩn kỹ năng nghề khu vực (ASEAN) và toàn cầu. Tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài vào GDĐT, tranh thủ sự hỗ trợ quốc tế về kỹ thuật, đào tạo cán bộ và tài chính,... để tăng thêm nguồn lực đầu tư cho phát triển nhân lực.
Cải cách thể chế GDĐT đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động trong bối cảnh mới. Trong đó, tập trung tháo gỡ 4 nút thắt: (1) giáo dục hướng nghiệp (2) mối quan hệ giữa các cơ sở GDĐT và doanh nghiệp trong GDĐT; (3) trao quyền tự chủ thực sự cho các cơ sở GDĐT; (4) chuẩn hóa chất lượng đào tạo theo các chuẩn mực và thông lệ quốc tế.
Tăng cường kết nối đào tạo giữa trường đại học và doanh nghiệp cả trong và ngoài nước, tạo điều kiện về pháp lý để các trường và doanh nghiệp có thể hợp tác cùng đào tạo, đưa hợp tác trong đào tạo với các doanh nghiệp vào định hướng phát triển của trường đại học trong giai đoạn từ 2021 - 2025, và tầm nhìn đến 2030.
Thay đổi cách dạy - học: về nội dung cần tập trung dạy cách học, cách tư duy và các kỹ năng mềm, ngoại ngữ, năng lực sáng tạo, dạy - học thông qua các dự án nghiên cứu, giải quyết vấn đề thực tiễn; về phương tiện, thiết bị dạy học cần tăng cường hạ tầng công nghệ số; đa dạng phương thức dạy - học, linh hoạt và đáp ứng yêu cầu biến đổi của thị trường.
Rà soát, quy hoạch, phát triển mạng lưới cơ sở GDĐT trên cả nước đáp ứng nhu cầu học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập và gắn với quy hoạch nguồn nhân lực và phát triển KTXH. Đẩy mạnh công tác hướng nghiệp, phân luồng, liên thông trong GDĐT gắn với nhu cầu của xã hội. Tăng cường đào tạo thường xuyên và đào tạo lại cho người lao động.
Đẩy mạnh giáo dục kỹ năng, ứng dụng tiến bộ KHCN, CNTT, công nghệ số trong GDĐT; thực hiện theo lộ trình phổ cập kỹ năng số, kỹ năng bảo đảm an toàn, an ninh mạng đạt trình độ cơ bản cho người dân. Tiến tới phổ cập trung học phổ thông gắn với phân luồng trong giáo dục. Phổ cập, xóa mù về công nghệ, tri thức công nghệ cho người dân. Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cán bộ quản lý giáo dục các cấp đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện GDĐT. Tăng cường công tác kiểm định chất lượng cơ sở giáo dục; xếp hạng các trường đại học.
Quy hoạch mạng lưới các cơ sở giáo dục đại học, chú trọng các trường sư phạm, trường y; phát triển cơ sở giáo dục đại học chất lượng cao theo chuẩn khu vực và thế giới, ưu tiên nguồn lực phát triển các trường công nghệ. Nâng cao chất lượng dạy, học ngoại ngữ ở các cấp học và trình độ đào tạo; coi trọng dạy, học và sử dụng tiếng Anh. Phấn đấu duy trì chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm cao của thế giới (trên 0,7); số sinh viên đại học đạt 270 sinh viên/vạn dân vào năm 2025.
Tập trung hoàn thiện và nâng cao chất lượng hệ thống thông tin dự báo thị trường lao động và chất lượng dịch vụ việc làm. Xây dựng cơ chế, chính sách để định hướng dịch chuyển lao động thông thoáng, phân bố hợp lý lao động theo vùng. Cải cách tổng thể, đồng bộ chính sách tiền lương theo hướng tuân thủ nguyên tắc phân phối theo lao động và quy luật khách quan của KTTT, lấy tăng năng suất lao động và hiệu quả sản xuất kinh doanh làm cơ sở để tăng lương. Đổi mới chế độ tuyển dụng, sử dụng, trọng dụng nhân tài trong quản lý, quản trị nhà nước, KHCN và đổi mới sáng tạo. Xây dựng quan hệ lao động hài hòa, ổn định, tiến bộ.
Hai là, phát huy giá trị văn hóa, con người Việt Nam và sức mạnh toàn dân tộc, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân, bảo đảm gắn kết hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội
Đại hội XIII nhấn mạnh yêu cầu về phát triển con người gắn kết chặt chẽ với xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Cùng với chủ trương gắn kết chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, sự tăng cường và gắn kết phát triển con người và nền văn hóa trong một thể thống nhất sẽ là cơ sở vững chắc để “khơi dậy truyền thống yêu nước, niềm tự hào dân tộc, niềm tin, khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc”, không chỉ làm cho văn hóa thật sự trở thành nền tảng tinh thần, mà còn trở thành động lực mạnh mẽ cho sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.
Khơi dậy tính cộng đồng, ý chí tự cường và khát vọng vươn lên. Tăng cường công tác bảo tồn, tôn tạo và phát huy các giá trị văn hóa vật thể, phi vật thể, các di tích lịch sử văn hóa. Phát triển đi đôi với giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, khắc phục tình trạng lạm dụng tiếng nước ngoài. Bảo tồn, phát huy giá trị văn hóa tốt đẹp của các dân tộc. Từng bước hạn chế, tiến tới xóa bỏ các hủ tục, tập quán lạc hậu. Đề cao tính tiên phong, gương mẫu trong văn hóa ứng xử của người lãnh đạo, cán bộ, công chức và đảng viên; tăng cường giám sát việc thực hiện các chính sách văn hóa. Phát huy vai trò của gia đình, cộng đồng, xã hội trong việc xây dựng môi trường văn hóa. Từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền và các giai tầng xã hội. Hoàn thiện các cơ chế, chính sách phát triển công nghiệp văn hóa; phát triển những sản phẩm, loại hình văn hóa độc đáo có sức lan tỏa để quảng bá, giới thiệu ra thế giới.
Tiếp tục hoàn thiện chính sách, pháp luật về dân số gắn với xây dựng gia đình ấm no, tiến bộ, hạnh phúc; bảo đảm hài hòa giữa quyền và nghĩa vụ của người dân trong thực hiện chính sách dân số. Nâng cao sức khỏe cho người dân cả về tầm vóc, thể chất, tinh thần, tuổi thọ cũng như chất lượng cuộc sống, bảo vệ và chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em. Chăm lo phát triển về chất lượng, bảo đảm quy mô, cơ cấu dân số hợp lý. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của mạng lưới cung cấp dịch vụ dân số. Tận dụng hiệu quả cơ cấu dân số vàng; chủ động thích ứng với xu thế già hóa dân số. Hỗ trợ thỏa đáng để thu hút, tạo điều kiện cho người dân sinh sống ổn định, lâu dài ở các khu vực khó khăn, trọng yếu về an ninh, quốc phòng. Xây dựng, hoàn thiện và vận hành cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Tổ chức cung cấp dịch vụ y tế công, bảo đảm các dịch vụ cơ bản, người dân được quản lý, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe. Tiếp tục nâng cao chất lượng khám, chữa bệnh, khắc phục căn bản tình trạng quá tải bệnh viện tuyến trên, phát triển mạng lưới bệnh viện vệ tinh. Khuyến khích hợp tác công - tư, đầu tư tư nhân, cung cấp các dịch vụ khám, chữa bệnh theo yêu cầu; phát triển mô hình bác sĩ gia đình. Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, CNTT, công nghệ số trong khám, chữa bệnh, liên thông công nhận kết quả khám, xét nghiệm. Đổi mới mạnh mẽ tài chính y tế. Tăng cường đào tạo, đào tạo lại, luân phiên cán bộ y tế, chuyển giao kỹ thuật cho tuyến dưới. Đổi mới phong cách, thái độ phục vụ, nâng cao y đức. Thiết lập hệ thống sổ sức khỏe điện tử đến từng người dân. Phấn đấu đến năm 2025, trên 90% dân số được quản lý, theo dõi và chăm sóc, bảo vệ sức khỏe, tỷ lệ hài lòng của người dân với dịch vụ y tế đạt trên 80%.
Tiếp tục sắp xếp các trung tâm, đơn vị làm nhiệm vụ y tế dự phòng cấp tỉnh và Trung ương, hình thành hệ thống trung tâm kiểm soát dịch bệnh đồng bộ ở tất cả các cấp và kết nối với mạng lưới của thế giới. Tập trung phát triển mạnh y tế cơ sở, y tế dự phòng, sàng lọc và phát hiện sớm. Tăng cường nghiên cứu, ứng dụng khoa học y học, phát triển các ngành khoa học phục vụ bảo vệ, chăm sóc sức khỏe con người. Phát triển y học cổ truyền, gắn với y học hiện đại. Nâng cao năng lực nghiên cứu, chủ động sản xuất vắcxin, thuốc. Thực hiện nghiêm việc kiểm soát an toàn thực phẩm.
Ba là, tiếp tục xây dựng, hoàn thiện, ban hành và tổ chức triển khai các quy định pháp lý (xác lập, hoàn thiện về thể chế...)
Rà soát và điều chỉnh, bổ sung các luật liên quan đến phát triển nhân lực như: Luật Giáo dục; Luật Giáo dục đại học, Luật Giáo dục nghề nghiệp, Luật Khoa học và công nghệ, Bộ luật Lao động... để bảo đảm sự thống nhất, tránh chồng chéo theo hướng làm rõ vị trí, vai trò của các chủ thể, đặc biệt là vai trò của Nhà nước trong phát triển nguồn nhân lực... Sửa đổi các luật theo hướng:
Quy định rõ vai trò của Nhà nước trong bảo đảm cung cấp dịch vụ giáo dục ở các bậc học từ mầm non đến trung học phổ thông, đồng thời có cơ chế rõ ràng về việc huy động nguồn lực xã hội tiến tới Nhà nước bảo đảm phần lớn ở các bậc học này (khi đất nước đã đạt đến trình độ phát triển cao) để bảo đảm cơ sở vật chất và cải tiến tiền lương, thu nhập của viên chức hoạt động trong phạm vi các bậc học này...
Tăng cường quản lý việc tuân thủ các yêu cầu, tiêu chuẩn cơ bản (tối thiểu) được quy định trong luật đối với các bậc học từ trung học phổ thông trở xuống đối với việc thành lập, đầu tư, quản lý cơ sở vật chất, chương trình giảng dạy... Đặc biệt là về biện pháp đánh giá, quản lý “đầu ra” (kết quả học tập của học sinh) của các trường, các bậc học...
Thực hiện cơ chế tự chủ đối với đào tạo nghề, đào tạo ở bậc đại học và cao hơn, gắn với việc các cơ sở đào tạo có sự liên kết chặt chẽ với thị trường lao động (thông qua các cơ quan quản lý nhà nước về thị trường lao động). Thông tin từ thị trường lao động về số lượng sinh viên tốt nghiệp hằng năm của các trường theo ngành nghề đào tạo, số lượng tuyệt đối và tỷ lệ sinh viên theo ngành nghề đào tạo, năng lực (theo đánh giá tại bằng cấp, chứng chỉ tốt nghiệp) và theo trường có được việc làm... sẽ giúp cho xã hội tự điều chỉnh lựa chọn ngành nghề đào tạo và cũng tạo ra áp lực để các trường “buộc” phải cơ cấu lại ngành nghề đào tạo, chương trình đào tạo để phù hợp với yêu cầu thị trường (từ phía cầu) nếu không muốn “bị” đào thải khỏi “thị trường” đào tạo do thiếu sinh viên, học viên và từ đó thiếu nguồn thu...
Có quy định pháp lý (có thể quy định ngay trong Luật Giáo dục đại học) về việc gắn kết giữa đào tạo và nghiên cứu khoa học, sự kết hợp này vừa có tác dụng phát huy năng lực của cán bộ giảng dạy, nhà khoa học, sinh viên trong các trường đại học theo hướng khuyến khích và gắn kết giữa các trường với thị trường KHCN (thông qua các sàn giao dịch công nghệ, đã được thành lập nhưng hiện tại hoạt động còn thiếu hiệu quả)...
Có cơ chế, chính sách thật cụ thể phát huy giá trị văn hóa, sức mạnh con người Việt Nam; khơi dậy tinh thần yêu nước, sức mạnh đại đoàn kết dân tộc, khát vọng phát triển và sức sáng tạo của nhân dân. Là nền tảng tinh thần, văn hóa có tác động quan trọng tới thúc đẩy phát triển kinh tế cũng như xác lập vị thế của quốc gia trên trường quốc tế. Do đó, phát huy tinh hoa văn hóa Việt Nam, giá trị tốt đẹp của con người Việt Nam; khơi dậy tinh thần yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, khát vọng phát triển thịnh vượng, giữ gìn bản sắc văn hóa và tiếp thu giá trị văn hóa tốt đẹp, tiến bộ của nhân loại.
Bốn là, xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án quan trọng về phát triển nhân lực gắn với phát triển khoa học và công nghệ...
Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án về phát triển nhân lực: Đề án xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2021 - 2030; Chiến lược phát triển giáo dục 2021 - 2030; Chiến lược phát triển giáo dục nghề nghiệp, quy hoạch mạng lưới cơ sở giáo dục nghề nghiệp; Đề án phát triển hệ thống bảo đảm và kiểm định chất lượng giáo dục đối với giáo dục đại học và cao đẳng sư phạm giai đoạn 2022 - 2030; Chiến lược quốc gia về phát triển đội ngũ trí thức giai đoạn 2021 - 2030; Đề án nâng tầm kỹ năng lao động Việt Nam; Đề án nâng cao nhận thức, đào tạo kỹ năng và phát triển nguồn nhân lực chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030; Đề án đổi mới, nâng cao chất lượng đào tạo nghề nông thôn;
Xây dựng và thực hiện các chương trình, dự án về phát triển khoa học và công nghệ: Chiến lược phát triển khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo giai đoạn 2021 - 2030; Đề án phát triển thị trường khoa học và công nghệ đến năm 2025, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch mạng lưới các tổ chức khoa học và công nghệ công lập thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Sửa đổi, bổ sung, hoàn thiện chính sách thu hút, sử dụng, trọng dụng cá nhân hoạt động khoa học và công nghệ tại Việt Nam; Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia; Chương trình hành động quốc gia về phát triển và chuyển đổi số, phát triển kinh tế số, xã hội số, sử dụng nền tảng điện toán đám mây...
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 541 (tháng 3-2023)
Ngày nhận: 25-02-2023; Ngày bình duyệt: 11-3-2023; Ngày đăng: 22-3-2023.
(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 203-204.
(2) Hiện chưa có số liệu chính thức cho năm 2020.
(3) Số liệu năm 2017 được sử dụng để có thể so sánh quốc tế, bảo đảm đồng nhất về số liệu.
(4) Theo Báo cáo Cạnh tranh nhân tài toàn cầu mới nhất (GTCI 2019).
PGS, TS VŨ VĂN PHÚC
Phó Chủ tịch Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương