Diễn đàn

Thúc đẩy sự tham gia của người dân để phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách

18/04/2024 17:30

(LLCT) - Tham nhũng chính sách là loại hình tham nhũng tinh vi, khó phát hiện và để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, nặng nề cho xã hội. Bài viết tập trung làm rõ vấn đề tham nhũng chính sách và đưa ra một số giải pháp thúc đẩy sự tham gia của người dân trong phòng, chống tham nhũng chính sách, bằng việc tăng cường công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình.

TS PHẠM THẾ LỰC
Viện Chính trị học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Thúc đẩy sự tham gia của người dân để phòng, chống tham nhũng trong xây dựng chính sách

Tọa đàm "Sự tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách công - Lý thuyết và thực tiễn"_Ảnh: HCMA

1. Mở đầu

Tham nhũng là biểu hiện phổ biến của sự tha hóa quyền lực, là mặt đối lập nghiêm trọng với dân chủ, công khai và minh bạch. So với các loại hình tham nhũng khác, tham nhũng chính sách có mức độ nguy hại lớn nhất, bởi nó có sự cấu kết giữa nhóm lợi ích và những người làm chính sách nhằm cài cắm lợi ích cục bộ, lợi ích của một số người vào chính sách công mà gây thiệt hại cho lợi ích chung của nhà nước và xã hội, làm cho chính sách công mất đi bản chất tốt đẹp ban đầu của nó.

Ở Việt Nam, tham nhũng chính sách làvấn đề không mớibởi nó được nhắc đến khá nhiều trong các nghiên cứu, và trên các phương tiện thông tin nhưnglại chưa được nhận diện một cách chính thức, cụ thể trong các văn kiện, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, do đó chưa có cơ sở chính trị - pháp lýđể điều chỉnh toàn diện các hành vi, quy trình, căn cứ đánh giá, xem xét, kết luận và xử lý trách nhiệm đối với người đã cố ý ban hành văn bản trái pháp luật để lồng ghép "lợi ích nhóm", tham nhũng, tiêu cực.

Cho đến nay, các cơ quan Đảng và Nhà nước vẫn chưa có một báo cáo chính thức với những số liệu, thống kê cụ thể về vấn đề lợi ích cục bộ, “lợi ích nhóm” trong xây dựng chính sách, pháp luật. Song,qua ý kiến, nhận định của các chuyên gia, các nhà khoa học, những biểu hiện cụ sau đây có thể ẩn chứa “lợi ích nhóm”, tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật; đó là: “1) Ban hành văn bản hành chính nhưng có chứa quy phạm pháp luật, đồng thời, quy phạm pháp luật này trái pháp luật; 2) Ban hành văn bản không đúng thẩm quyền (đặt ra thủ tục hành chính; đặt ra điều kiện đầu tư kinh doanh hoặc ngành nghề kinh doanh có điều kiện; hạn chế quyền con người, quyền công dân); 3) Ban hành văn bản có nội dung trái với Hiến pháp, trái với văn bản quy phạm pháp luật có hiệu lực pháp lý cao hơn; 4) Ban hành văn bản quy định thời điểm có hiệu lực trái với quy định của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật; 5) Văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vi phạm nghiêm trọng trình tự, thủ tục ban hành văn bản; 6) Không kiểm tra, rà soát hoặc kiểm tra, rà soát không kịp thời, nghiêm túc văn bản thuộc thẩm quyền kiểm tra, rà soát; 7) Không xử lý hoặc chậm xử lý văn bản trái pháp luật do mình ban hành”(1).

Trước tình hình tham nhũng trong xây dựng chính sách, pháp luật diễn biến ngày càng phức tạp, thủ đoạn tinh vi, có nguy cơ gây ra những hậu quả nghiêm trọng, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" đã thể hiện quyết tâm chính trị mạnh mẽ về “siết chặt kỷ luật, kỷ cương, đề cao trách nhiệm, nhất là người đứng đầu trong công tác xây dựng chính sách,pháp luật, không để bị chi phối, tác động bởi các hành vi không lành mạnh của bất cứ tổ chức, cá nhân nào, không để xảy ra tình trạng lồng ghép "lợi ích nhóm", lợi ích cục bộ của cơ quan quản lý nhà nước trong văn bản pháp luật”.

Để làm được như vậy, việc thúc đẩy sự tham gia của người dân và xã hội vào quá trình hoạch định chính sách có vai trò hết sức quan trọng. Bởi, các chính sách có xu hướng trở nên tốt hơn về mặt định tính nếu chúng được các nhà hoạch định chính sách và các nhóm đối tượng liên quan cùng thực hiện. Sự đa dạng của các ý tưởng sẽ có nhiều thông tin hơn được thu thập và xem xét trước khi đưa ra quyết định. Tính minh bạch của chính sách, pháp luật được nâng cao, do đó khả năng kiểm soát và trách nhiệm giải trình cũng được nâng cao. Như vậy, sự tham gia của người dân là một hình thức “kiểm soát và cân bằng” mạnh mẽ. Nó bảo đảm rằng các chính sách, pháp luật được cân nhắc kỹ lưỡng hơn, hạn chế thấp nhất những tác hại của tham nhũng chính sách.

2. Tham nhũng chính sách và vai trò tham gia của người dân trong phòng, chống tham nhũng chính sách

Theo Khoản 1 Điều 3 Luật Phòng, chống tham nhũng năm 2018, tham nhũng là hành vi của người có chức vụ, quyền hạn lợi dụng chức vụ, quyền hạn đó vì vụ lợi.Trong các loại tham nhũng, tham nhũng chính sách được coi là loại tham nhũng hết sức tinh vi, nguy hiểm, rất khó để phát hiện và xử lý. Tham nhũng chính sách được hiểu là việc sử dụng quyền lực một cách phi pháp trong quá trình hoạch định chính sách công nhằm trục lợi từ chính sách. Trên thực tế, tham nhũng chính sách thể hiện dưới các loại hành vi như “buôn cơ chế”, “buôn chính sách”, “bẻ cong” chính sách, “lèo lái” chính sách theo hướng tối đa hóa lợi ích cho một nhóm, một bộ phận nào đó thay vì đem lại lợi ích chung cho cộng đồng, xã hội.

So với các hành vi tham nhũng đơn lẻ, tham nhũng chính sách gây ra những hậu quả đặc biệt nghiêm trọng cho cả nhà nước và xã hội: Thứ nhất, tạo ra sự méo mó về nội dung của chính sách, phá vỡ tính thống nhất, đồng bộ, khả thi của hệ thống chính sách và gây xung đột trong thực hiện chính sách, tạo môi trường cạnh tranh không công bằng, “bảo kê” cho “nhóm lợi ích”, gây thất thoát, lãng phí, sử dụng không hiệu quả nguồn lực của quốc gia, và hậu quả tất yếu là kìm hãm sự phát triển của đất nước; Thứ hai, xâm phạm quyền và lợi ích chính đáng của người dân, hủy hoại các giá trị liêm chính, dân chủ, công bằng, bình đẳng, làm tha hóa đội ngũ cán bộ, giảm hiệu quả quản trị của nhà nước, làm gia tăng bức xúc trong xã hội, giảm niềm tin của người dân vào chính quyền và chế độ.

Nguyên nhân của tham nhũng chính sách có thể được tiếp cận dưới nhiều khía cạnh khác nhau. Từ góc độ tham gia của người dân vào quá trình xây dựng chính sách, bài viết tiếp cận bản chất, nguyên nhân của tham nhũng chính sách từ công thức:

C = M + D – A(2)

Trong đó:

C (Corruption): tham nhũng

M (Monopoly): độc quyền

D (Discretion): bưng bít thông tin

A (Accountability): trách nhiệm giải trình

Theo công thức trên, nguyên nhân của tham nhũng chính sách có thể được diễn giải một cách cụ thể là: Ở đâu có: (1) sự độc quyền trong hoạch định chính sách, quyền tùy ý quyết định chính sách của người lãnh đạo, quản lý ngày càng lớn;(2) tính công khai, minh bạch trong xây dựng chính sách không được tôn trọng, bảo đảm và thực thi;(3) thiếu trách nhiệm giải trình trong hoạch định chính sách, thì ở đó mức độ tham nhũng chính sách ngày càng tăng và trở nên nguy hiểm. Do đó, muốn phòng, chống tham nhũng chính sách thì giải pháp được rút ra là:

Thứ nhất, mở rộng và thúc đẩy sự tham gia của người dân và xã hội trong hoạt động xây dựng, ban hành chính sách, pháp luật nhằm bảo đảm rằng các chính sách, pháp luật ban hành thể hiện đầy đủ ý chí, nguyện vọng của người dân và xã hội. Thông qua sự tham gia có trách nhiệm vào hoạt động này, người dân và xã hội thể hiện tiếng nói, lợi ích của mình trong chính sách, phản biện chính sách ngay từ giai đoạn đầu và giám sát quá trình hoạch định chính sách. Đây cũng chính là cơ sở để tạo ra chính sách, pháp luật công bằng, phản ánh nhu cầu thực tế, tạo điều kiện cho đối thoại cởi mở và thẳng thắn để đạt được sự đồng thuận trong chính sách, tính hợp pháp của quy định được đề xuất và tuân thủ, giảm chi phí trong hoạc định chính sách. Người dân và xã hội có thể đóng góp bằng nguồn lực của mình, tăng cường sự hợp tác, tính chủ động và trách nhiệm của mình trong thực hiện chính sách, tăng cường dân chủ - ngăn chặn xung đột giữa các nhóm, giữa người dân và nhà nước, tăng cường niềm tin từ phía người dân và xã hội vào nhà nước.

Thứ hai, bảo đảm quyền tiếp cận thông tin, đẩy mạnh công khai, minh bạch thông tin liên quan đến quá trình hoạch định chính sách. Công khai, minh bạch là chìa khóa để bảo đảm rằng, các nhà hoạch định chính sách không đối xử thiên vị với bất kỳ một cá nhân hay nhóm đối tượng nào mà đe dọa lợi ích chung của xã hội.

Thứ ba,tăng cường trách nhiệm giải trình của các chủ thể có trách nhiệm trong quá trình hoạch định chính sách, theo đó các chủ thể này phải có trách nhiệm giải thích và giải đáp những yêu cầu, đòi hỏi của người dân và xã hội liên quan đến các nội dung và quyết định chính sách. Nếu một chính sách sai lầm, gây thiệt hại cho lợi ích chính đáng của nhà nước, người dân và xã hội thì họ phải chịu trách nhiệm cho chính sách của mình. Đồng thời, sự tham gia trong xây dựng chính sách cho phép người dân yêu cầu các cơ quan nhà nước phải chịu trách nhiệm giải trình về các hoạt động, quyết định của mình.

Ngày nay, các cách tiếp cận về quản trị mới, quản trị tốt, quản trị dân chủ đều nhấn mạnh các giá trị về sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách trên nguyên tắc công khai, minh bạch, trách nhiệm giải trình với mục tiêu phòng, chống tham nhũng, tuân thủ pháp luật trong xây dựng chính sách.

Việc nhấn mạnh sự tham gia của người dân trong xây dựng chính sách nhằm kiểm soát tham nhũng chính sách là cách tiếp cận từ dưới lên (bottom-up), nhằm bổ sung cho cách tiếp cận truyền thống nhấn mạnh các cải cách, đổi mới của nhà nước trong phòng, chống tham nhũng theo chiều từ trên xuống (top-down). Cộng đồng quốc tế và nhiều quốc gia cho rằng, thu hút sự tham gia của công chúng trong phòng, chống tham nhũng góp phần bảo đảm các dịch vụ công được cung cấp tốt hơn.

Từ bản chất, nguyên nhân và hậu quả của tham nhũng chính sách nêu trên, cần tăng cường giám sát quá trình hoạch định chính sách, không để các nhóm lợi ích tác động lên chính sách và làm sai lệch chính sách để trục lợi. Trong đó, phát huy sự tham gia của người dân, nâng cao tính minh bạch và trách nhiệm giải trình, phản biện trong quá trình xây dựng, thông qua chính sách.

3. Thực trạng sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách

Ở Việt Nam hiện nay, các thuật ngữ như “lấy ý kiến nhân dân”, “tư vấn”, “tham vấn”, đặc biệt là “phản biện xã hội” - với tư cách là sự tham gia đóng góp ý kiến của cá nhân, tổ chức chính trị, tổ chức xã hội vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật ngày càng xuất hiện nhiều trong các văn bản pháp lý, trong các phát biểu của lãnh đạo Đảng và Nhà nước, trên các phương tiện thông tin đại chúng.

Trên thực tế, các hình thức tư vấn, tham vấn, phản biện xã hội đối với chính sách, pháp luật của Nhà nước diễn ra thường xuyên như một đòi hỏi mang tính thủ tục bắt buộc trong hoạch định chính sách. Điều này đã phản ánh phần nào thực tế là, sự tham gia của người dân trong quản lý xã hội là một nhu cầu chính đáng, là hợp phần của quá trình dân chủ hóa đời sống xã hội, phản ánh trình độ dân chủ của cả người dân và chính quyền.

Với nỗ lực đẩy mạnh dân chủ hóa đời sống xã hội, hướng tới xây dựng một mô hình quản trị dân chủ, sự tham gia của người dân vào hoạch định chính sách ở Việt Nam bước đầu đã đem lại những kết quả sau:

Một là, góp phần nâng cao tính tích cực chính trị của người dân, phát triển ý thức về quyền và nghĩa vụ của người dân, trách nhiệm xã hội của cộng đồng đối với sự phát triển của quốc gia, dân tộc. Thực tế cho thấy, khi được tham gia vào quá trình hoạch định chính sách, người dân thấy mình thực sự là một thành viên trong quá trình đó nên thể hiện vai trò tích cực, chủ động, tham gia một cách có trách nhiệm trong việc đóng góp ý kiến cho chính sách. Điều này làm cho chính sách trở nên gần với nguyện vọng của người dân, hạn chế cơ hội tham nhũng chính sách, phát huy được hiệu quả trong quá trình thực hiện.

Hai là,khai thác được các nguồn lực xã hội vào quá trình hoạch định chính sách, đặc biệt là kinh nghiệm và tri thức từ các chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức xã hội, doanh nghiệp, tổ chức chuyên môn có uy tín trong và ngoài nước trong việc cung cấp những cơ sở khoa học cho quá trình hoạch định chính sách; góp phần tiết kiệm, giảm chi phí các nguồn lực trong hoạch định chính sách.

Ba là,giúp giảm thiểu các xung đột lợi ích giữa Nhà nước và người dân, giữa các nhóm trong xã hội, từ đó tạo đồng thuận xã hội trong hoạch định chính sách. Thông qua những hình thức tham vấn, đối thoại và phản biện chính sách từ phía người dân, những bất đồng, duy ý chí trong chính sách ngày càng được thu hẹp, các bên tìm được tiếng nói chung trong cách thức giải quyết vấn đề, từ đó những hạn chế, bất cập của chính sách được khắc phục; chất lượng, hiệu lực, hiệu quả của chính sách được cải thiện; phát huy tính hữu dụng của chính sách trong quản lý, quản trị nhà nước.

Bên cạnh những kết quả đạt được, sự tham gia của người dân trong hoạch định chính sách còn một số hạn chế sau:

Thứ nhất, tính cục bộ, khép kín trong quá trình hoạch định chính sách vẫn còn phổ biến. Với quy trình hoạch định chính sách như hiện nay, có thể thấy hầu hết các sáng kiến chính sách đến từ các cơ quan được giao nhiệm vụ quản lý nhà nước (cụ thể là do các bộ, ngành, ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thực hiện). Rất ít các chính sách công được ban hành xuất phát từ ý tưởng, kiến nghị của những đối tượng bị chính sách tác động, ảnh hưởng.

Theo Báo cáoThực trạng hoạt động phân tích chính sách trong xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay: “Bộ quản lý ngành là những chủ thể đầu tiên khởi xướng và bảo trợ cho nhiều ý tưởng, đề xuất chính sách quan trọng. Chính điều này làm cho các bộ, ngành trở thành nhóm lợi ích nằm ngay trong nhà nước và hoạch định nhiều chính sách có lợi cho mình hơn là tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc cho người dân và doanh nghiệp”(3).

Mặt khác, trong quá trình hoạch định chính sách công chưa tạo được kênh thông tin tốt nhất để tiếp thu ý kiến đóng góp của những đối tượng chịu ảnh hưởng của chính sách; sự can dự của người dân và doanh nghiệp trong quá trình này còn không ít hạn chế, rào cản, có trường hợp doanh nghiệp chỉ được phép có ý kiến sau hoặc khi có vấn đề phát sinh. Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản làm cho một số chính sách có tính khả thi thấp, hoặc khi thực thi không đem lại hiệu quả như mong muốn.

Thứ hai, sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định chính sách, pháp luật còn hạn chế; trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo chưa cao.

Đối chiếu với các quy định hiện nay của Luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015 và các văn bản hướng dẫn thi hành, có thể thấy dường như các nhà lập pháp đã rất nỗ lực trong việc dân chủ hóa, công khai và minh bạch hóa quá trình hoạch định chính sách, pháp luật để huy động và bảo đảm sự tham gia của cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, giữa luật và thực tế còn có khoảng cách khá xa.

Trên thực tế, việc lấy ý kiến người dân và xã hội về chính sách chưa thật sự rộng rãi. Việc tổ chức các buổi tham vấn trực tiếp đối tượng bị tác động, ảnh hưởng bởi chính sách còn mang tính hình thức, không thực chất, làm cho đủ thủ tục, gây lãng phí và không hiệu quả. Điều cần nhấn mạnh là, mặc dù các cơ quan chủ trì soạn thảo đã tiến hành tham vấn chính sách theo quy định của pháp luật nhưng chưa tiếp thu các ý kiến đóng góp, kiến nghị của người dân để sửa đổi, bổ sung chính sách một cách nghiêm túc và toàn diện hoặc nếu có thì trong hồ sơ trình dự án chính sách, pháp luật lại không có báo cáo riêng phản ánh ý kiến của các nhóm đối tượng này, hoặc nếu có thì cũng không thể hiện được những ý kiến đó đã được tiếp thu và phản hồi như thế nào. Sự giải trình của cơ quan chủ trì soạn thảo hoặc của ban soạn thảo về việc tiếp thu ý kiến của các đối tượng chịu tác động hoặc ý kiến của các chuyên gia, nhà khoa học cũng không được thể hiện rõ nét.

Thứ ba, người dân còn gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận các thông tin liên quan đến chính sách.

Theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015, cơ quan chủ trì chính sách phải có trách nhiệm công khai thông tin liên quan đến chính sách để người dân tìm hiểu và đóng góp ý kiến. Các thông tin phải công khai bao gồm: dự thảo về chính sách, báo cáo đánh giá tác động của chính sách, bản giải trình các phản hồi về chính sách và sự điều chỉnh nội dung chính sách (nếu có). Tuy nhiên trên thực tế, thông tin và dữ liệu về hoạt động xây dựng chính sách nhìn chung khó tiếp cận, kể cả trong các trường hợp pháp luật yêu cầu cơ quan soạn thảo phải công khai. Người dân chủ yếu tiếp cận được dự thảo văn bản chính sách chứ ít khi tiếp cận được báo cáo đánh giá tác động chính sách cũng như bản giải trình phản hồi về chính sách. Đây chính là rào cản để bảo đảm sự tham gia của người dân có hiệu quả thực sự.

Thứ tư, vai trò phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên đối với các dự án chính sách còn mờ nhạt, chưa thực sự rõ nét. Tiếng nói của Mặt trận Tổ quốc sau các cuộc phản biện chưa đủ mạnh để làm “thay đổi căn bản” nội dung của dự thảo chính sách được phản biện(4).

Hơn nữa, nội dung góp ý, phản biện thường “không đề cập đến khả năng phát sinh tham nhũng và công tác phòng, chống tham nhũng của văn bản quy phạm pháp luật trong tương lai, cũng hoàn toàn không có ý kiến, góp ý, phát hiện, phản biện nào về việc có hiện tượng “lợi ích nhóm” và “vận động hành lang” trong quá trình xây dựng, ban hành văn bản quy phạm pháp luật”(5).

Nguyên nhân chính được nêu ra đó là Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở Việt Nam trong tổ chức và hoạt động bị hành chính hóa, quan liêu hóa. Thêm vào đó, trong nhận thức của nhiều người vẫn còn quan niệm phản biện là chống đối, là đối lập, có vấn đề về tư tưởng chính trị,... từ đó ảnh hưởng không nhỏ đến quá trình tổ chức phản biện của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam. Điều này dẫn tới tâm lý ngại va chạm, ngại xung đột trong phản biện các chính sách của Nhà nước, hoặc nếu có thì chỉ là phản biện ở “mức an toàn”. Đây là lý do làm cho hoạt động phản biện xã hội dường như còn mang nặng tính hình thức nên ít động viên được người dân trực tiếp tham gia.

4. Một số giải pháp, kiến nghị

Từ thực trạng nêu trên, để sự tham gia của người dân và xã hội vào quá trình hoạch định chính sách được thực chất và hiệu quả, đủ sức phòng ngừa tham nhũng chính sách, bài viết đề xuất một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, đổi mới quy trình hoạch định chính sách theo hướng công khai, minh bạch, bảo đảm trên thực tế quyền tham gia của các bên liên quan, bao gồm các chủ thể: Chính phủ, doanh nghiệp, các tổ chức quần chúng, người dân, người nước ngoài, các nhà tài trợ, các nhà khoa học, chuyên gia. Việc mở rộng sự tham gia này phải trên cơ sở thiết lập sự bình đẳng giữa các chủ thể, phải tạo ra một cơ chế phù hợp để người dân, đặc biệt là các đối tượng chịu sự tác động trực tiếp của chính sách có thể tham gia đóng góp ý kiến cho việc xây dựng chính sách, được đối thoại với cơ quan hoạch định chính sách. Về nguyên lý, sự tham gia của người dân vào quá trình này là quyền hiến định mà các cơ quan nhà nước có liên quan có trách nhiệm phải bảo đảm thực hiện.

Thứ hai, mở rộng đối tượng tham vấn, lấy ý kiến, đa dạng hóa các kênh tham gia của người dân trong hoạch định chính sách, mở rộng các kênh mới để tiếp nhận ý kiến phản hồi của người dân và xã hội như: thông qua sự tham vấn của các tổ chức phi chính phủ, vận động hành lang, các cuộc điều tra, khảo sát sử dụng internet (website của Chính phủ và cơ quan chủ trì soạn thảo). Hiện nay, thảo luận chính sách trên mạng xã hội đã trở thành một xu hướng. Do đó, có thể coi các cuộc thảo luận chính sách trên các trang mạng xã hội của các tổ chức là một kênh tương tác mới giúp Nhà nước cải thiện khả năng minh bạch và giải trình. Qua việc sử dụng kênh này, Nhà nước có thể tăng cường hiệu quả của các chính sách được đưa ra và ngăn ngừa các vấn đề lồng ghép lợi ích nhóm, lợi ích cục bộ vào trong chính sách. Việc đẩy nhanh tốc độ xây dựng chính phủ điện tử sẽ hỗ trợ hiệu quả cho xu hướng này.

Thứ ba, đẩy mạnh thiết lập hệ thống cung cấp thông tin, bảo đảm sự công khai, minh bạch; với sự tham gia của hệ thống thông tin đại chúng. Cụ thể là: đa dạng hóa các kênh công khai, minh bạch thông tin chính sách theo hướng mở rộng cơ hội tiếp cận thông tin cho người dân. Các thông tin công khai phải bảo đảm dễ tiếp cận, chính xác, đầy đủ và kịp thời. Các hành vi cản trở hay hạn chế quyền tiếp cận thông tin của người dân phải có chế tài xử lý nghiêm khắc.

Thứ tư, tăng cường trách nhiệm giải trình của cơ quan chủ trì xây dựng chính sách. Các cơ quan hoạch định chính sách phải có nghĩa vụ giải trình về các vấn đề liên quan đến chính sách. Các ý kiến của người dân liên quan đến chính sách phải được cơ quan chủ trì soạn thảo, nhà lập pháp nghiên cứu cẩn trọng và có trách nhiệm. Việc tiếp thu hay không tiếp thu ý kiến người dân phải được giải trình rõ ràng, công khai và kịp thời đến người dân. Chỉ có sự phản hồi đầy đủ, công khai, rõ ràng, kịp thời thì người dân mới thấy được ý kiến của họ được lắng nghe một cách thật sự, mới tạo lòng tin và sự tín nhiệm của người dân để lần sau họ lại tiếp tục quan tâm tham gia.

Thứ năm, sớm nghiên cứu xây dựng khung khổ pháp lý cho hoạt động vận động chính sách. Tuy nhiên, hoạt động này cần phải công khai, minh bạch, nhấn mạnh đến trách nhiệm giải trình để người dân và xã hội giám sát được các nhà hoạch định chính sách đã gặp ai, mục đích để làm gì. Thêm vào đó, cần phát huy vai trò tham gia của truyền thông và các tổ chức xã hội trong việc giám sát các hoạt động vận động chính sách cũng như xây dựng chính sách để bảo đảm cân bằng và không thiên vị. Điều này sẽ khắc phục tình trạng các nhóm lợi ích (nhất là các doanh nghiệp) sử dụng các biện pháp bất hợp pháp để can thiệp nhằm thao túng chính sách, bẻ cong chính sách theo hướng có lợi cho mình mà xâm phạm các lợi ích chung của cộng đồng.

Thứ sáu, nâng cao năng lực phản biện chính sách của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức thành viên. Đẩy mạnh hoạt động đào tạo, cập nhật, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng về phân tích chính sách, tham vấn và phản biện chính sách cho đội ngũ cán bộ Mặt trận Tổ quốc. Hơn nữa, Mặt trận Tổ quốc phải hướng đến trở thành diễn đàn phản biện chính sách lớn nhất, nơi quy tụ các chuyên gia, các nhà khoa học, các tổ chức khoa học công nghệ (là thành viên của mình) tham gia phản biện. Nội dung phản biện cần tập trung cả vào việc phân tích, làm rõ khả năng phát sinh lợi ích cục bộ, “lợi ích nhóm” trong chính sách, cơ hội tham nhũng và khả năng phòng, chống tham nhũng của chính sách.

Để tạo cơ chế khuyến khích và gia tăng trách nhiệm phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc, Nhà nước có thể xây dựng hợp đồng phản biện chính sách với Mặt trận Tổ quốc và cấp kinh phí phản biện cho Mặt trận Tổ quốc tùy theo từng dự án chính sách cụ thể. Việc hoàn thiện pháp luật về phản biện xã hội cũng có vai trò hết sức quan trọng để Mặt trận Tổ quốc thực hiện tốt chức năng của mình.

Thứ bảy, khuyến khích sự hình thành và phát triển các trung tâm nghiên cứu và tham vấn chính sách độc lập với Nhà nước với cơ chế cạnh tranh trong ý tưởng chính sách và các báo cáo phân tích, đánh giá chính sách.

Ở Việt Nam chưa có các tổ chức nghiên cứu và phản biện chính sách độc lập(7), trong khi hoạt động của các tổ chức này sẽ giúp cho các chủ thể chính sách nhìn nhận chính sách từ nhiều góc độ, bảo đảm khách quan hơn.

Chính phủ cần khuyến khích, tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển các nhóm tư vấn chính sách (think tank), tổ chức nghiên cứu và tham vấn chính sách, trong đó có các cơ quan nghiên cứu độc lập, các tổ chức nghiên cứu, tham vấn chính sách hoạt động không dựa vào ngân sách nhà nước. Như vậy, sẽ khuyến khích được nhiều hơn sự đóng góp của đội ngũ trí thức, các chính khách, các nhà khoa học đã nghỉ hưu và những người làm thực tiễn có uy tín và kinh nghiệm lâu năm về lĩnh vực chính sách tham gia vào quá trình hoạch định chính sách.

Ngoài ra, Nhà nước cần tạo điều kiện tốt về vật chất, môi trường và không gian nghiên cứu học thuật dân chủ, cởi mở nhằm phát huy vai trò của các trường đại học, các cơ quan nghiên cứu và các tổ chức nghiên cứu chính sách của quốc gia, góp phần sớm hình thành hệ thống lý luận nghiên cứu chính sách cơ bản, đồng bộ ở Việt Nam. Khuyến khích các nghiên cứu chính sách dựa trên bằng chứng nhằm nâng cao tính thuyết phục cho hoạch định chính sách(6).

Thứ tám, cần nâng cao nhận thức, năng lực và trách nhiệm xã hội của người dân và tổ chức trong việc đóng góp xây dựng chính sách, bảo đảm công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình, góp phần phòng, chống tham nhũng. Xét đến cùng, sự tham gia của người dân là do người dân thực hiện, nhiệm vụ này chỉ hoàn thành khi người dân và các tổ chức của họ nhận thức đầy đủ, có năng lực và trách nhiệm trong tham gia vào hoạt động xây dựng chính sách.

5. Kết luận

Ngày nay, sự tham gia của người dân trong quá trình ra quyết định nói chung, trong hoạch định chính sách công nói riêng được xem là một trong những tiêu chí quan trọng của mô hình quản trị dân chủ và quản trị nhà nước tốt. Chính sự tham gia của người dân sẽ hạn chế tình trạng khép kín trong quá trình hoạch định chính sách, gia tăng mức độ công khai, minh bạch và trách nhiệm giải trình của các chủ thể làm chính sách, làm cho chất lượng của chính sách công ngày càng tốt hơn bởi nó tích hợp được các giá trị, lợi ích chung của nhà nước và xã hội, từ đó tạo sự đồng thuận trong quá trình thực thi chính sách, đồng thời triệt tiêu được những cơ hội của tham nhũng chính sách. Đây cũng chính là một trong những nội dung quan trọng của quá trình dân chủ hóa ở Việt Nam hiện nay.

_________________

Ngày nhận bài: 13-12-2023; Ngày bình duyệt: 14-4-2024; Ngày duyệt đăng: 22-4-2024.

(1) Thiện Văn: Phòng, chống tham nhũng chính sách - vấn đề hệ trọng, cấp bách hiện nay, https://www.xaydungdang.org.vn/, đăng ngày 13-4-2023.

(2) Robert Klitgaard, Ronald MacLean-Abaroa and H. Lindsey Parris: Corrupt cities: A Practical guide to cure and prevention. ICS Press and World Bank Institute, USA, 2000, pp.26-27.

(3) Viện Khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp:Thực trạng hoạt động phân tích chính sách trong quá trình xây dựng luật ở Việt Nam hiện nay, Báo cáo Dự án phát triển lập pháp quốc gia, Hà Nội, 2015, tr.31.

(4) Ngô Sách Thực: Thực trạng, những vấn đề đặt ra hiện nay trong hoạt động phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Tạp chí Tuyên giáo,http://tuyengiao.vn/, đăngngày 25-3-2019.

(5) Viện Chiến lược và Khoa học thanh tra: Đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng tại Việt Nam nhằm thực hiện các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc, Kỷ yếu Hội thảo khoa học, Hà Nội, 2023, tr.256.

(6) Ngô Ngọc Thắng: Nâng cao chất lượng hoạch định và thực thi chính sách công ở Việt Nam hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Tạp chí Lý luận chính trị, số 10-2017.

(7) Ở Việt Nam, trước đây Chính phủ đã cho phép hình thành một số tổ chức kiểu này nhưng sau đó lại ra quyết định giải thể.