Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta lãnh đạo xây dựng và phát huy thế trận lòng dân trong Chiến dịch Điện Biên Phủ
(LLCT) - Chiến thắng Điện Biên Phủ là kết quả tất yếu của quá trình đấu tranh cách mạng đầy cam go, quyết liệt của nhân dân ta, trực tiếp là trong 9 năm trường kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã cùng với Đảng ta lãnh đạo xây dựng và phát huy thế trận lòng dân với những chủ trương, biện pháp khoa học, nhân văn, phù hợp với thực tế đất nước để khơi dậy, quy tụ lòng yêu nước, tinh thần đoàn kết, sự đồng thuận, ý chí quyết tâm cao và hành động thống nhất của toàn dân tộc, tạo thành sức mạnh tổng hợp làm nên thắng lợi vĩ đại trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Bài viết góp phần làm rõ những vấn đề này.
Thiếu tướng, PGS, TS NGUYỄN VĂN THẾ
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng
Dân công hỏa tuyến vận chuyển hàng hóa trong Chiến dịch Điện Biên Phủ_Ảnh tư liệu
1. Mở đầu
Trong bài viết nhân dịp kỷ niệm lần thứ mười chiến thắng Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ “là một cái mốc chói lọi bằng vàng của lịch sử”(1) dân tộc. Trước đó, trong “Báo cáo tại Hội nghị chính trị đặc biệt”, họp ngày 27 và 28-3-1964, Người khẳng định, chiến thắng Điện Biên Phủ “là thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta, mà cũng là thắng lợi chung của tất cả các dân tộc bị áp bức trên thế giới”(2). Đây là kết quả của sự lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong xây dựng và phát huy thế trận lòng dân nhằm huy động sức mạnh tổng hợp của toàn dân, trước hết là sức mạnh chính trị, tinh thần trong suốt cuộc trường kỳ kháng chiến của dân tộc.
2. Xây dựng và phát huy thế trận lòng dân, huy động sức mạnh toàn dân tham gia kháng chiến
Sự thống nhất giữa tư tưởng và hoạt động thực tiễn lãnh đạo xây dựng và phát huy thế trận lòng dân của Hồ Chí Minh được dựa trên nền tảng lý luận khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và xuất phát từ tình hình thực tế nước ta trong từng giai đoạn lịch sử cụ thể. Điểm nổi bật là Người đã nhận thức sâu sắc và vận dụng một cách sáng tạo quan điểm duy vật lịch sử của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử nói chung, trong lĩnh vực hoạt động quân sự và tiến hành chiến tranh nói riêng. Đó là quan điểm khẳng định vấn đề có tính quy luật “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng” và “ai kiên trì đi sâu vào quần chúng nhân dân hơn, thì người đó thu được thắng lợi”(3). Nghiên cứu về Cách mạng Pháp, Người chỉ ra những bài học mà cuộc cách mạng này đã dạy cho chúng ta là “dân khí mạnh thì quân lính nào, súng ống nào cũng không chống lại”(4).
Khi xem xét các yếu tố chủ yếu quyết định thành công trong hoạt động quân sự, Hồ Chí Minh đưa ra ba yếu tố có quan hệ chặt chẽ với nhau, đó là “thiên thời, địa lợi, nhân hòa”, trong đó nhấn mạnh “nhân hòa” là quan trọng nhất. Người nhất quán với quan điểm nền tảng, xuyên suốt là “Nước lấy dân làm gốc” mà gốc có vững thì cây mới bền. Dân là gốc trong tư tưởng Hồ Chí Minh không tách rời với tư tưởng dân là chủ và dân làm chủ. Theo Người, lực lượng của cuộc kháng chiến rất rộng lớn, trong đó lực lượng chính là ở dân. Dân chúng có sức mạnh to lớn và năng lực sáng tạo phi thường, có khả năng vô tận, song, nhưng chỉ được hiện thực hóa trên thực tế khi có sự lãnh đạo của một đảng cách mạng chân chính để phát động, khơi dậy, tổ chức và phát huy được tài dân, sức dân, của dân, đem lại lợi ích và đáp ứng nhu cầu của dân.
Tuy nhiên, việc này không dễ dàng mà rất khó khăn, phức tạp, cho nên Người yêu cầu phát động quần chúng “phải chuẩn bị rất kỹ càng, phải có phương châm rõ ràng, kế hoạch đầy đủ, cách làm chắc chắn”(5). Người đã vạch ra con đường, biện pháp có tính nguyên tắc để phát huy vai trò của quần chúng nhân dân trong mọi điều kiện hoàn cảnh. Trong đó phải đặc biệt coi trọng giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên với quần chúng; mọi công việc phải dùng cách làm việc là từ trong quần chúng mà ra, “trở lại nơi quần chúng” và phải biết đưa chính trị vào trong nhân dân. Muốn làm tốt việc này thì phải thực hành “dân vận khéo”, vận động mọi người là con dân nước Việt, con cháu Hồng Bàng, có ít nhiều lòng ái quốc để góp thành lực lượng to lớn của toàn dân trong thực hiện những công việc mà cách mạng cần. Đó cũng chính là cách thức để được lòng dân, để yên dân và tạo lập, phát huy sức mạnh của thế trận lòng dân.
Trên cương vị người lãnh đạo cao nhất của Đảng và Chính phủ kháng chiến, Chủ tịch Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng bàn bạc đưa ra các quyết định về chủ trương, biện pháp và trực tiếp chỉ đạo quá trình tổ chức thực hiện; động viên, cổ vũ, định hướng, phát huy những giá trị đã được tạo dựng thành sức mạnh của thế trận lòng dân trong suốt cuộc kháng chiến nói chung và trong quá trình diễn ra chiến dịch Điện Biên Phủ nói riêng.
Ngay từ thời kỳ đầu chuẩn bị cuộc kháng chiến, Người đã chỉ rõ đặc điểm của chiến tranh ngày nay là vô cùng phức tạp và hết sức khó khăn, các bên không chỉ chiến đấu ngoài tiền tuyến mà còn ở cả hậu phương; không chỉ đấu tranh về mặt quân sự mà cả trên các mặt trận kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng. Vì thế, Người khẳng định vấn đề có tính nguyên tắc là “Không dùng toàn lực của nhân dân về đủ mọi mặt để ứng phó, không thể nào thắng lợi được”(6).
Thực hiện trọng trách của người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, củng cố chính quyền nhân dân để qua đó phát huy vai trò quyết định của các chủ thể này đối với việc xây dựng thế trận lòng dân. Thực tế cho thấy, nhờ phát huy được vai trò của Đảng và chính quyền, trực tiếp là đội ngũ đảng viên, cán bộ ở cơ sở nên quyền làm chủ của nhân dân ngày càng được hiện thực hóa và nhờ đó mà dân tin, dân phục, dân theo Đảng để kháng chiến. Đồng thời, Người thường xuyên quan tâm chăm lo xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc vì đó là nền tảng chính trị - xã hội cho phát huy thế trận lòng dân vững chắc và rộng khắp.
Người đã dự chỉ đạo Đại hội thống nhất Việt Minh - Liên Việt, từ ngày 3 đến ngày 7-3-1951 tại Việt Bắc. Đại hội đã thông qua Nghị quyết thống nhất hai tổ chức Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) và Hội Liên hiệp quốc dân Việt Nam (Liên Việt) thành Mặt trận Liên - Việt. Sự phát triển mới của tổ chức này là thật sự cần thiết, nhằm củng cố và mở rộng thành phần, lực lượng trong khối đại đoàn kết với đại biểu đủ các tầng lớp, các tôn giáo, các dân tộc, các giới, đáp ứng yêu cầu mới của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Người tin tưởng rằng với lực lượng trong khối đại đoàn kết ấy thì chúng ta sẽ vượt qua hết thảy mọi khó khăn, gian khổ và sẽ giành được thắng lợi.
Với đường lối chiến tranh nhân dân, trước khi quyết định mở Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ, vấn đề lòng dân và xây dựng thế trận lòng dân đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh rất coi trọng. Người đã cùng với Trung ương xác định, để thiết thực chuẩn bị tổng phản công, cùng với việc tiến hành “chỉnh quân” để nâng cao chất lượng chính trị của bộ đội và “chỉnh Đảng” cho có kết quả, phải phát động quần chúng một cách đầy đủ, thực sự giành lấy ưu thế quần chúng hơn nữa. Điều này được thể hiện rõ tại Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ ba (khóa II), họp từ ngày 22 đến ngày 28 - 4 - 1952.
Tháng 9 - 1952, Trung ương Đảng chủ trương mở hướng tiến công lên Tây Bắc. Sau ba tháng chiến đấu, chiến dịch giải phóng Tây Bắc toàn thắng, quân và dân ta làm chủ một địa bàn chiến lược rộng tới 44.300 km2 với số dân số 440.000 người. Như thế, chúng ta đã mở rộng căn cứ địa Việt Bắc, có dân và có đất, đây là điều kiện tiên quyết để tiếp tục các hoạt động xây dựng thế chiến lược của chiến tranh nhân dân tại địa bàn này nói chung, xây dựng thế trận lòng dân nói riêng. Đại tướng Võ Nguyên Giáp - Tổng Tư lệnh kiêm Chỉ huy trưởng Chiến dịch đã đánh giá, chiến thắng Tây Bắc đã “củng cố và mở rộng khối đoàn kết toàn dân, tăng cường lực lượng kháng chiến của nhân dân, nâng cao lòng tin tưởng của toàn Đảng, toàn quân, toàn dân đối với Đảng và Hồ Chủ tịch”(7).
Trong quá trình diễn ra Chiến dịch Tây Bắc, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn theo dõi sát diễn biến tình hình. Người đã nhiều lần trực tiếp nói chuyện, gửi thư khen, động viên cán bộ, chiến sĩ, dân công tại mặt trận và nhân dân các địa phương nhằm phát huy cao độ những giá trị tinh thần, nhất là lòng yêu nước và tinh thần đoàn kết - một trong những nhân tố tạo nên sức mạnh của chiến tranh chính nghĩa và là nội dung cốt lõi, xuyên suốt của thế trận lòng dân trong chiến tranh nhân dân Việt Nam.
Từ năm 1953, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp bước vào thời kỳ quyết liệt, đòi hỏi huy động sức người, sức của ngày càng lớn, vì vậy, phải tăng cường bồi dưỡng sức dân, nhất là nông dân. Nhận thức rõ điều này, Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh quyết định phát động quần chúng triệt để giảm tô, tiến tới cải cách ruộng đất, thực hiện khẩu hiệu “người cày có ruộng” ngay trong kháng chiến.
Trong diễn văn khai mạc Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa II) ngày 25-1-1953, Người đã nhấn mạnh đến vai trò của nông dân và việc giải quyết vấn đề nông dân; coi vấn đề nông dân là nền tảng của vấn đề dân tộc và cũng là nền tảng của cách mạng dân chủ nhân dân. Xuất phát từ tình hình thực tế về vấn đề nông dân, Người đã chỉ rõ, muốn kháng chiến hoàn toàn thắng lợi thì phải thiết thực “nâng cao quyền lợi kinh tế và chính trị của nông dân, phải chia ruộng đất cho nông dân”(8).
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định, cải cách ruộng đất giúp ta giải quyết nhiều vấn đề, trong đó nông dân sẽ càng hăng hái tham gia bộ đội để giữ làng nước, giữ ruộng đất của mình, sẽ hăng hái đóng thuế nông nghiệp, góp vào tài chính của nước nhà được dồi dào thêm và “khi nông dân đã nắm ưu thế kinh tế và chính trị trong làng, nhân dân dân chủ chuyên chính sẽ được thực hiện rộng khắp và chắc chắn"(9).
Cải cách ruộng đất, Mặt trận Liên - Việt tiếp tục được mở rộng và ngày càng được củng cố, phát triển. Thắng lợi của giảm tô, giảm tức và cải cách ruộng đất thực sự tạo động lực trực tiếp cho nhân dân các dân tộc Tây Bắc hăng hái tham gia các hoạt động phục vụ chiến dịch, người dân đã đóng góp hàng nghìn tấn lương thực, thực phẩm cho mặt trận; nhân dân ở các địa phương, cán bộ và chiến sĩ các đơn vị, hàng vạn dân công hỏa tuyến và thanh niên xung phong thêm tin tưởng vào Chủ tịch Hồ Chí Minh và Chính phủ, nêu cao ý chí, tinh thần quyết tâm cao độ trong thực hiện mọi nhiệm vụ, sẵn sàng chịu đựng gian khổ, hy sinh, tất cả cho chiến thắng.
Trước Chiến dịch Điện Biên Phủ, Trung ương Đảng và Bộ Tổng tư lệnh đã tiến hành tổ chức chỉnh đảng, chỉnh quân. Kết quả của việc chỉnh Đảng, chỉnh quân không những làm cho tinh thần trách nhiệm, sức mạnh của con người và của tổ chức đảng, sức chiến đấu của quân đội được nâng lên rõ rệt mà còn tác động, ảnh hưởng tích cực tới tinh thần của nhân dân, làm cho niềm tin của nhân dân vào Đảng, vào quân đội tiếp tục được củng cố và tăng cường.
Hưởng ứng lời kêu gọi “Tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng” của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, chính quyền, đoàn thể các cấp, các ngành đã làm tốt nhiệm vụ động viên tuyển quân, tham gia lực lượng dân công, bảo đảm giao thông vận tải, chi viện cho Chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Trong nhân dân, người thì cầm súng giết giặc, người thì đi dân công, người thì lo tăng gia sản xuất để cung cấp lương thực, thực phẩm cho bộ đội… Tuy việc làm khác nhau, nhưng đều dốc lòng, dốc sức vì thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ. Nhờ đó đã có tới “33.000 lượt người, trong đó bần nông và trung nông chiếm 98%, đồng bào dân tộc thiểu số chiếm 1/4”(10) tham gia lực lược dân công trong Chiến dịch Điện Biên Phủ. Trong quá trình diễn ra Chiến dịch Điện Biên Phủ, bằng những việc làm cụ thể, Hồ Chí Minh khích lệ tinh thần chiến đấu, phục vụ chiến đấu của các lực lượng, của mỗi người, làm cho sức mạnh của thế trận lòng dân trong suốt quá trình diễn ra chiến dịch không ngừng được phát huy.
Trong Chiến dịch Điện Biên Phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Trung ương Đảng đã sáng suốt tạo lập và xây dựng “thế trận hậu cần nhân dân”. Điện Biên Phủ cách căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do khu IV trên ba trăm km, địa hình hiểm trở, điều kiện kinh tế của các địa phương trong vùng do mới được giải phóng còn hết sức khó khăn. Việc bảo đảm hậu cần chiến dịch bao gồm cả hậu cần nhân dân, hậu cần quân sự, hậu cần tại chỗ và hậu cần chiến dịch là vấn đề nan giải đối với Bộ chỉ huy mặt trận và Chính phủ.
Để giải quyết bài toán hậu cần tại đây, Chính phủ và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thành lập Hội đồng cung cấp hậu phương, giao cho Phó Thủ tướng Phạm Văn Đồng làm Chủ tịch. Nhờ đó, đã huy động được hàng chục vạn dân công và thanh niên xung phong của các địa phương thuộc căn cứ địa Việt Bắc và vùng tự do Liên khu IV để vận chuyển lương thực, thực phẩm, thuốc men đạn dược, vận chuyển thương binh, quản lý tù hàng binh; khai thác những điều kiện vật chất tại chỗ, huy động sức người, sức của các địa phương Tây Bắc, trong đó đã tổ chức xay sát gạo tại mặt trận, mở đường vận chuyển bằng ngựa, xe đạp thồ, ô tô, làm đường kéo pháo và lập các điểm nghi binh địch... Thắng lợi của công tác hậu cần tại mặt trận Điện Biên Phủ đã góp phần làm cho thế trận lòng dân của chiến dịch trở nên vững chắc, hoàn chỉnh.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ là thắng lợi của đường lối kháng chiến đúng đắn của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta. Thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra những chủ trương, biện pháp phù hợp với thực tế đất nước để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần, bồi dưỡng “tín tâm” và “quyết tâm” kháng chiến cho các tầng lớp nhân dân; nâng cao vai trò và uy tín của lực lượng lãnh đạo, tạo động lực và niềm tin khiến nhân dân tự nguyện, tự giác đem tất cả lực lượng vật chất và tinh thần, ý chí quyết tâm, sẵn sàng hy sinh cả tính mạng để cùng với quân đội và các lực lượng vũ trang cách mạng đưa kháng chiến đến thành công.
Chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” đã để lại một trong những điều đặc biệt trong lịch sử chiến tranh, đó là người dân tham gia vào Chiến dịch Điện Biên Phủ đông gấp nhiều lần quân đội. Trong Chiến dịch này, bộ đội ta khoảng 5-6 vạn, nhưng dân công và thanh niên xung phong là khoảng 26 vạn. Có thể nói, không có sự đóng góp sức người, sức của to lớn đó của nhân dân thì không có chiến thắng Điện Biên Phủ và sự đóng góp ấy không phải là ngẫu nhiên mà đó là kết quả của quá trình xây dựng và phát huy thế trận lòng dân dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh và của Đảng ta. Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã khái quát “Nhìn lại chặng đường dài của cuộc kháng chiến chống Pháp chúng ta càng thấy tư tưởng của Bác là rất sâu sắc, có giá trị to lớn về mặt lý luận và chỉ đạo thực hiện. Có thể nói, thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp là do dựa vào dân”(11).
3. Kết luận
Chiến thắng Điện Biên Phủ đã khẳng định triết lý, có dân là sẽ có tất cả, nhưng vấn đề là phải biết cách làm sao cho “được lòng dân” và để trong mọi công việc của cách mạng thì “dân làm là chính” như Người đã dạy. Những thành công và kinh nghiệm phát huy sức mạnh của thế trận lòng dân tạo mạch nguồn nội sinh của toàn dân tộc, góp phần quyết định chiến thắng Điện Biên Phủ dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần làm phong phú kho tàng lý luận của chiến tranh nhân dân và học thuyết quân sự Việt Nam trong thời đại mới. Tư tưởng Hồ Chí Minh và những bài học về xây dựng và phát huy sức mạnh của thế trận lòng dân làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ cần được nghiên cứu, kế thừa, vận dụng và phát triển vào xây dựng thế trận lòng dân trong sự nghiệp xây dựng bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay.
_________________
Ngày nhận bài: 5-4-2024; Ngày bình duyệt: 7-4-2024; Ngày duyệt đăng: 2-5-2024.
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.315.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.271.
(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr 271.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr 297.
(5), (8), (9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.8, tr.43, 31, 31.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.4, tr.344.
(7), (11) Võ Nguyên Giáp: Nghiên cứu học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội, 2006, tr.76, 76.
(10) Tổng kết công tác Đảng, công tác chính trị trong chiến dịch, chiến đấu của Quân đội nhân dân Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, 2013, tr.549.