Đào tạo - Bồi dưỡng

Quảng Bình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ “dám đổi mới”

14/05/2024 07:02

(LLCT) - Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm công tác xây dựng, rèn luyện đội ngũ cán bộ nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có đủ phẩm chất, năng lực, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng. Đặc biệt, Người là hiện thân mẫu mực, cao đẹp của người cán bộ luôn đổi mới sáng tạo, trọn đời cống hiến vì nước, vì dân, vì sự nghiệp cách mạng. Trong bối cảnh hiện nay, tư tưởng, tấm gương của Người về đổi mới vẫn nguyên giá trị, là cơ sở để vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ “dám đổi mới” trong thực thi công vụ vì lợi ích chung, góp phần xây dựng đất nước giàu đẹp, văn minh. Bài viết làm rõ quan điểm Hồ Chí Minh về đổi mới và vận dụng vào xây dựng đội ngũ cán bộ “dám đổi mới” ở Quảng Bình hiện nay.

THS NGUYỄN VĂN GIANG
Trường Chính trị Quảng Bình

Quảng Bình vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ “dám đổi mới”
Tỉnh ủy Quảng Bình triển khai ký cam kết trách nhiệm về công tác cán bộ_Ảnh: xaydungdang.org.vn

1. Quan điểm của Hồ Chí Minh về người cán bộ phải luôn đổi mới để đáp ứng mọi yêu cầu thực tiễn

“Đổi mới” là bộ phận cơ bản trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh, có giá trị định hướng sâu sắc đối với những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Trong đó, có tư tưởng về người cán bộ phải không ngừng đổi mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này được nhận thức từ khía cạnh sau:

Thứ nhất, quan điểm về “đổi mới”

Theo Từ điển tiếng Việt, đổi mới là “thay đổi cho khác hẳn với trước, tiến bộ hơn, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ và đáp ứng yêu cầu của sự phát triển”(1). Với Hồ Chí Minh, cụm từ “đổi mới” được đề cập rất sớm, trong tác phẩm Đường Kách mệnh (1927), Người viết: “Cách mệnh là phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(2). Xuyên suốt quá trình cách mạng, với sự ra đời trong nhiều tác phẩm, như Sửa đổi lối làm việc (1947), Đời sống mới (năm 1947), Dân vận (năm 1949), Nâng cao đạo đức cách mạng quét sạch chủ nghĩa cá nhân, Di chúc (1965 - 1969),... Người nhiều lần đề cập đến quan niệm về “đổi mới”, tựu trung có thể hiểu đổi mới trong quan điểm của Người là “cuộc chiến đấu chống lại những cái cũ kỹ, hư hỏng để tạo ra cái mới mẻ, tốt tươi”(3).Đổi mới là bản chất của cách mạng, là quy luật khách quan của sự phát triển.

Thứ hai, sự cần thiết phải luôn đổi mới ở người cán bộ cách mạng

Trước hết, xuất phát từ vị trí, vai trò của cán bộ là “gốc của mọi công việc” và “muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hay kém”(4). Cán bộ là “cái dây chuyền của bộ máy”, là những người “đem chính sách của Đảng, Chính phủ giải thích cho dân chúng hiểu rõ và thi hành. Đồng thời đem tình hình của dân chúng báo cáo cho Đảng, cho Chính phủ để hiểu rõ, để đặt chính sách cho đúng”(5), vì vậy, “nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì dù động cơ dù tốt, dù chạy toàn bộ máy cũng tê liệt”(6), cán bộ tốt thì bộ máy vận hành trơn tru, hiệu quả, ngược lại cán bộ “dở’ thì chính sách vừa không thực hiện được vừa hoạch định chính sách sẽ sai, không phù hợp.

Thực tế đã chứng minh đường lối, chính sách đúng hay sai, thành hay bại từ hoạch định đến thực thi suy cho cùng đều do cán bộ. Người cũng khẳng định, động lực của đổi mới là quần chúng nhân dân nhưng “cốt yếu” là năng lực cán bộ, cán bộ vừa là chủ thể, là mục tiêu, cũng là động lực của đổi mới. Vì thế đòi hỏi người cán bộ vừa phải có đức, tài, vừa có kỹ năng, uy tín trước nhân dân. Điều này được thuyết phục bằng lời nói, việc làm, hiệu quả trong thực tiễn của người cán bộ.

Hơn nữa, đổi mới là quy luật của sự phát triển, của thực tại khách quan, đòi hỏi người cán bộ cần “phải biết rằng thực tiễn khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không kịp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi”(7), “thế giới ngày nay đổi mới, nhân dân ta ngày càng tiến bộ, cho nên chúng ta phải tiếp tục học và hành để tiến bộ kịp nhân dân”(8).

Vì vậy, người cán bộ đổi mới để tạo ra cái mới, tiến bộ, vừa sáng tạo lý luận, dẫn dắt thực thi làm biến đổi tích cực trong thực tiễn chính là yêu cầu khách quan của sự phát triển, nếu không “đổi mới” để tiến bộ hơn không chỉ không góp phần vào sự nghiệp cách mạng mà còn tự đào thải chính bản thân người cán bộ. Theo Người, sức mạnh của đổi mới nằm ở nhân dân, Đảng là linh hồn của đổi mới, lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, trong đó mỗi cán bộ, đảng viên phải tiên phong trong sự nghiệp đổi mới.

Thứ ba, động cơ, mục đích của đổi mới là vì nước, vì dân, vì sự nghiệp cách mạng chứ không phải vì lợi ích cá nhân

Bổn phận của người cán bộ là “công bộc” của dân, suốt đời phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Nhiều lần, Người yêu cầu người cán bộ phải nhớ rằng phục vụ lợi ích của nhân dân, đất nước với tinh thần “trong xã hội không có gì tốt đẹp, vẻ vang bằng phục vụ lợi ích của nhân dân”(9), “muốn được dân yêu, muốn được lòng dân, trước hết phải yêu dân, phải đặt quyền lợi của dân trên hết thảy, phải có một tinh thần chí công vô tư”(10).

Do vậy, động cơ, mục đích hàng đầu của đổi mới ở người cán bộ là phải đặt lợi ích của Đảng, nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích cá nhân mình, ra sức làm việc cho Đảng, phải vì nước vì dân, vì sự nghiệp cách mạng, phải ích nước, lợi nhà “việc gì có lợi cho dân, ta phải hết sức làm, việc gì có hại đến dân ta phải hết sức tránh”(11). Đó là chân lý của sự đổi mới “chân lý là cái gì có lợi cho Tổ quốc, cho nhân dân. Cái gì trái với lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân tức là không phải chân lý”(12), “Nếu dân đói, Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi; nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ có lỗi”(13)

Thứ tư, về cách thức đổi mới của người cán bộ

Đổi mới là bản chất của cách mạng, là quy luật của sự phát triển khách quan vì vậy đổi mới trước hết phải bắt đầu từ thực tiễn, nhìn từ thực tiễn khách quan. Từ sự chân thực của thực tiễn, nhận thức đúng bản chất vấn đề, người cán bộ sẽ hình thành ý chí, năng lực tư duy, hành động đổi mới, bởi thực tiễn “là các vấn đề cần mình phải giải quyết, là mâu thuẫn sự vật. Chúng ta là những người cán bộ cách mạng, thực tế của chúng ta là những vấn đề mà cách mạng đề ra cho ta phải giải quyết”(14). Thực tiễn cũng là thước đo, chân lý khoa học của lý luận đổi mới đó. Vì vậy, sáng tạo, tìm tòi cái mới, phải luôn gắn, bám sát, coi trọng tổng kết thực tiễn. Đồng thời, kết quả của đổi mới phải giải quyết được những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn, lấy hiệu quả thực tiễn làm thước đo tính đúng đắn của đổi mới, tránh sa vào chủ quan, cảm tính, áp đặt thực tiễn.

Đổi mới là một quá trình, sự nghiệp lâu dài, là cuộc đấu tranh phức tạp, phải có những bước đi, lộ trình thích hợp. Người từng nói, thắng đế quốc, phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng, lạc hậu khó khăn hơn nhiều, vì thế đòi hỏi người cán bộ vừa phải bản lĩnh để dám đổi mới, vừa kiên định kiên quyết để đổi mới không ngừng. Bởi theo Người, bản chất của đổi mới là cuộc đấu tranh giữa cái mới và cái cũ, nhằm xóa bỏ cái cũ để xây dựng cái mới trong điều kiện cái cũ là phổ biến, đó là quá trình không hề dễ dàng là nhiệm vụ nặng nề, khó khăn, phức tạp. Vì thế phải có kế hoạch tỉ mỉ, chuẩn bị chu đáo, lộ trình, bước đi, nhiệm vụ rõ ràng và thực hiện chắc chắn.

Hơn nữa, việc giải quyết mối quan hệ giữa cái cũ và cái mới, người cán bộ phải tuân theo quy luật phủ định biện chứng, kế thừa và phát triển, không phủ định sạch trơn. Cái gì cũ trước đây là đúng nhưng nay lỗi thời, cản trở phát triển phải loại bỏ, hoặc thay đổi hợp lý. Cái gì mà đúng nhưng quan niệm sai làm sai, thì phải sửa sai, nhận thức lại và làm đúng. Cái cũ mà tốt thì phát triển thêm, cái cũ tốt nay có phần không phù hợp kế thừa những giá trị tốt loại bỏ phần lạc hậu lỗi thời… Cái mới mà hay, mà đúng, có xu hướng phát triển tốt thì phải bảo vệ, phải tạo điều kiện cần thiết để phát triển…

Đổi mới của người cán bộ phải bắt đầu từ tư duy, đến hành động đổi mới, nói phải đi đôi với làm, lý luận gắn với thực tiễn. Đồng thời, phải vận dụng sáng tạo, linh hoạt các cơ sở lý luận và thực tiễn trong từng điều kiện cụ thể, thời điểm thích hợp, luôn có tầm nhìn lâu dài, kết hợp sức mạnh dân tộc với thời đại, kiên định các nguyên tắc trong đổi mới để bảo đảm đúng định hướng.

Người khẳng định: “chỉ có sự lãnh đạo của một đảng biết vận dụng một cách sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của nước mình thì mới có thể đưa cách mạng giải phóng dân tộc đến thắng lợi và cách mạng xã hội chủ nghĩa đến thành công”(15).

Thứ năm, đổi mới yêu cầu người cán bộ phải luôn có tư duy độc lập, tự chủ và sáng tạo, bản lĩnh, kiên định, dám làm, dám chịu

Theo Hồ Chí Minh, “độc lập” là không lệ thuộc, không phụ thuộc, không bắt chước, rập khuôn, giáo điều. “Tự chủ” là chủ động suy nghĩ và làm chủ suy nghĩ của mình, tự chịu trách nhiệm trước dân, trước dân tộc, biết làm chủ bản thân và công việc. “Sáng tạo” là luôn tìm ra cái mới, cách giải quyết mới, không gò bó, phụ thuộc cái đã có trên cơ sở vận dụng đúng quy luật chung cho phù hợp với cái riêng, cái đặc thù. Đồng thời, sáng tạo cũng là tìm tòi, đề xuất những cái mới mà có thể trả lời được những đòi hỏi của cuộc sống đặt ra.

Một trong những căn bệnh người cán bộ hay mắc phải đó là “bảo thủ”, bệnh kinh nghiệm, áp dụng máy móc. Người nói: “tư tưởng bảo thủ như là sợi dây cột chân, cột tay người ta… Muốn tiến bộ thì phải có tinh thần mạnh dạn, dám nghĩ, dám làm”(16)

Thứ sáu, Hồ Chí Minh, tấm gương mẫu mực về không ngừng đổi mới vì lợi ích của dân tộc, nhân dân, sự nghiệp cách mạng

Suốt cuộc đời, Hồ Chí Minh “chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành…”(17). Điều đó đã thôi thúc Người phải đổi mới, đổi mới từ rất sớm và không ngừng đổi mới. Ngay từ năm 1911, khi ra đi tìm đường cứu nước, Người đã tự mình nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm cha ông, trên cơ sở bám sát thực tiễn đặc thù Việt Nam lúc bấy giờ. Với tinh thần đổi mới, Người đã quyết định đi sang phương Tây mà không đi theo con đường mà các bậc tiền bối đã lựa chọn.

Khi tìm hiểu về Cách mạng Tháng Mười Nga, tiếp cận được bản sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin (1920), tìm ra con đường cứu nước, tư tưởng đổi mới của Người bắt đầu gắn chặt với sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào đặc điểm cụ thể cách mạng Việt Nam, nhằm hiện thực hóa sự nghiệp giải phóng dân tộc, giai cấp, xã hội và con người, đưa cách mạng Việt Nam trở thành một bộ phận của thế giới.

Sự đổi mới sáng tạo, phát triển được thể hiện rõ trong quá trình Người dày công tổ chức vận động thành lập Đảng và trong Cương lĩnh chính trị đầu tiên. Trong tiến trình cách mạng Việt Nam từ năm 1930 - 1969, dưới sự lãnh đạo của Người thể hiện một quá trình đổi mới không ngừng, toàn diện và bao trùm đó là Hội nghị Trung ương 8 khóa I (tháng 5-1941) và Cách mạng Tháng Tám, đó là bản Tuyên ngôn độc lập và quá trình lãnh đạo kháng chiến chống thực dân Pháp, đó là đường lối kháng chiến chống Mỹ cứu nước và xây dựng CNXH ở miền Bắc, trong bản Di chúc thiêng liêng…

Người luôn có tư duy độc lập, tự chủ sáng tạo, với bản lĩnh vững vàng, một tinh thần dũng cảm, dám chịu trách nhiệm trước kết quả đổi mới. Người kế thừa nhưng luôn phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, trong thời điểm nhiều nhà lý luận mácxit ngại nói về chủ nghĩa dân tộc thì người lại khẳng định chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước, cách mạng ở nước thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc… Dần dần thì những sáng tạo đó được nhân loại công nhận. Tuy nhiên, để có được kết quả đó, Người phải hy sinh lợi ích cá nhân, “phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo… Bất kỳ bao giờ, bất kỳ ở đâu, tôi cũng chỉ theo đuổi một mục đích, làm cho ích quốc lợi dân”(18).

Hồ Chí Minh đã đi xa, song tư tưởng đổi mới của Người mãi là ngọn cờ dẫn dắt, soi sáng con đường đổi mới liên tục, bền bỉ, kiên định đầy sáng tạo của Đảng ta.

2. Vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về đổi mới vào xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức “dám đổi mới” ở Quảng Bình hiện nay

Quảng Bình là tỉnh thuộc khu vực Bắc Trung Bộ, được ví như “viên kim cương xanh của Việt Nam”, hội tụ nhiều yếu tố thuận lợi để phát triển giàu mạnh. Cách đây 67 năm, ngày 16-6-1957, trong lần duy nhất về thăm Quảng Bình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “ngày nay chúng ta đã có hòa bình để xây dựng chủ nghĩa xã hội, nếu biết dùng đúng và dùng tốt tài nguyên và lao động của mình thì Quảng Bình, Vĩnh Linh sẽ giàu có, không những đời sống nhân dân tỉnh nhà được nâng lên mà còn đóng góp một phần quan trọng cho Nhà nước”(19).

Thực hiện lời căn dặn của Người, sau gần 40 năm đổi mới đất nước, Quảng Bình đã có những bước phát triển vượt bậc, toàn diện, đời sống nhân dân ngày càng nâng cao. Kết quả đó là sự cộng hưởng của nhiều yếu tố nhưng vai trò lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh là nhân tố hàng đầu có tính quyết định, với tư duy đột phá và những cách làm đổi mới, vận dụng sáng tạo đường lối đổi mới của Đảng, tận dụng tối đa nguồn lực bên ngoài, đánh thức và khơi dậy sức mạnh nội lực bên trong, mà điều “cốt yếu” đến từ sức sáng tạo của đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Tuy nhiên, thực tế hiện nay “vẫn còn tình trạng một bộ phận cán bộ, đảng viên sợ trách nhiệm, né tránh, thiếu chủ động, ngại đột phá trong lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, thực thi công vụ… không dám làm, không dám chịu trách nhiệm… đã và đang tạo ra những rào cản lớn, tác động tiêu cực đến việc thực hiện các chỉ tiêu, nhiệm vụ”(20). Trong khi đó, trước bối cảnh tác động mạnh mẽ của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, hội nhập quốc tế toàn diện và sâu rộng, yêu cầu đất nước phát triển nhanh và bền vững… Đảng, Nhà nước ta luôn xác định thúc đẩy đổi mới sáng tạo là động lực quan trọng cho sự phát triển của đất nước, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức.

Đại hội XIII của Đảng xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước… có cơ chế lựa chọn, đào tạo, thu hút, trọng dụng nhân tài, khuyến khích, bảo vệ cán bộ dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đương đầu với khó khăn, thử thách và quyết liệt hành động vì lợi ích chung”(21).

Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Bình lần thứ XVII, nhiệm kỳ (2020 - 2025) đặt ra mục tiêu tổng quát: “Tăng cường xây dựng Đảng bộ và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân; đẩy mạnh thực hiện các đột phá chiến lược, chú trọng đổi mới sáng tạo… phấn đấu đưa Quảng Bình trở thành tỉnh khá trong khu vực Bắc Trung Bộ”. Đảng bộ xác định mục tiêu phát triển đến năm 2030 “phấn đấu xây dựng Quảng Bình trở thành nền kinh tế năng động ở khu vực miền Trung”(22). Đối với xây dựng đội cán bộ thời kỳ mới, Đảng bộ nhấn mạnh: “xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là người đứng đầu có bản lĩnh chính trị vững vàng, có khát vọng, hoài bão và có năng lực nổi trội, luôn tìm tòi đổi mới sáng tạo, có sản phẩm cụ thể, uy tín cao, thực sự tiên phong, gương mẫu, trung thực…”(23).

Như vậy, để hoàn thành mục tiêu, định hướng nhằm xây dựng quê hương Quảng Bình ngày càng giàu đẹp, văn minh, ngoài các yếu tố khách quan, chủ quan khác, yếu tố quyết định vẫn là khơi dậy và phát huy được tinh thần “dám đổi mới” của đội ngũ cán bộ trong hệ thống chính trị.

Để vận dụng hiệu quả tư tưởng, tấm gương Hồ Chí Minh về đổi mới trong xây dựng đội ngũ cán bộ dám đổi mới, dám nghĩ, dám làm vì lợi ích chung, thời gian tới Quảng Bình cần quan tâm thực hiện tốt một số nội dung sau:

Thứ nhất, nâng cao nhận thức về sự cần thiết phải luôn đổi mới sáng tạo, xem đổi mới là nguyên tắc, yêu cầu đặt ra đối với mỗi cán bộ

Theo Hồ Chí Minh, đổi mới bắt đầu từ tư duy, nhận thức mới đến hành động. Vì vậy, điều quyết định chính là “sự tự nhận thức” luôn nảy nở trong mỗi cán bộ, đảng viên. Cán bộ cần nhận thức rằng, đổi mới là quy luật của sự phát triển khách quan, nằm ngoài quy luật đó sẽ bị thực tiễn bỏ qua. Đổi mới tạo nên sức mạnh của Đảng, nhân dân là động lực; là chủ thể của đổi mới, mỗi cán bộ, đảng viên phải tiên phong, đi đầu trong đổi mới sáng tạo. Hơn nữa, sức mạnh của Đảng được tạo nên từ những cán bộ, đảng viên, uy tín của cán bộ đối với nhân dân là từ hành động và hiệu quả công việc, vì vậy cần nhận thức sâu sắc không đổi mới sẽ không tạo ra hiệu quả, không bồi đắp “uy tín”, không tạo nên sức mạnh của Đảng.

Vì vậy, mỗi cán bộ không thể hài lòng với kết quả đã có, không thể giữ mãi tư duy và hành động theo lối mòn mà phải luôn mạnh dạn tiếp tục đổi mới sáng tạo nhằm tạo ra những động lực mới để tạo sự phát triển. Đồng thời, cũng cần nhận thức sâu sắc những chỉ dẫn của Hồ Chí Minh về đổi mới: cán bộ đổi mới phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định; có đạo đức cách mạng; đổi mới phải vì lợi ích chung; đổi mới phải gắn thực tiễn, đổi mới phải có kế thừa, phát triển, đổi mới là quá trình lâu dài, phải có kế hoạch, đổi mới phải sáng tạo… để vận dụng đúng đắn trong nhận thức và hành động đổi mới...

Để nâng cao nhận thức thì mỗi cấp ủy, tổ chức đảng và mỗi cán bộ, đảng viên cần quán triệt, học tập vận dụng tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh cũng như chủ trương, đường lối của Đảng về đẩy mạnh đổi mới sáng tạo vào thực tiễn một cách thiết thực, hiệu quả, phát huy cao độ sức mạnh nội sinh, ý chí tự cường trong phát triển. Đặc biệt là, nghiêm túc thực hiện Kết luận số 14-KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị về chủ trương khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung; Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 của Chính phủ quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung; Kế hoạch số 133-KH/TU, ngày 29-12-2023 của Ban Thường vụ Tỉnh ủy Quảng Bình về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh năm 2024, trong đó xác định chủ đề “Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh về xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên gương mẫu, tận tâm, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới vì sự phát triển của quê hương, đất nước”…

Thứ hai, nâng cao phẩm chất chính trị, năng lực, trình độ, chuyên môn, nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ

Thực tế cho thấy nguyên nhân cơ bản để cán bộ “không dám đổi mới” là do thiếu bản lĩnh chính trị, năng lực, trình độ chưa ngang tầm nhiệm vụ đặt ra, thậm chí có tình trạng chủ nghĩa cá nhân, bệnh kinh nghiệm, bảo thủ, sợ trách nhiệm, đùn đẩy trách nhiệm… Điều này không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng thực thi công vụ mà còn triệt tiêu động lực, gây thụ động, ngại đổi mới trong bộ phận cán bộ. Vì thế, nâng cao chất lượng toàn diện cho đội ngũ cán bộ chính là yếu tố nền tảng tạo nên sự đổi mới trong thực thi công vụ của cán bộ, công chức

Chủ tịch Hồ Chí Minh coi tự học là nhu cầu tự thân của người cán bộ, nhằm nâng cao trình độ và khả năng bản thân đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng. Do đó, phải không ngừng nâng cao trình độ mọi mặt, nhất là kiến thức, chuyên môn nghiệp vụ, thường xuyên cập nhật kiến thức, kinh nghiệm và tự cải thiện bản thân để có năng lực đáp ứng công việc. Thường xuyên rèn luyện phương pháp, phong cách làm việc khoa học, đề cao tính hiệu quả. Phải có tư duy độc lập, tự chủ, vận dụng sáng tạo, không rập khuôn, máy móc, lối cũ đường mòn mà thường xuyên tìm tòi, nghiên cứu, tự tổng kết thực tiễn để giải quyết thấu đáo mọi mâu thuẫn, phù hợp với yêu cầu và điều kiện thực tiễn, tìm ra những phương án tối ưu trong thực thi nhiệm vụ đạt hiệu quả cao nhất.

Đặc biệt, là cán bộ phải luôn “tự soi, tự sửa”, không ngừng nâng cao đạo đức cách mạng, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân. Đổi mới là vì lợi ích chung, vì nước, vì dân, lấy đó làm chân lý, động lực trong đổi mới thực thi nhiệm vụ. Muốn vậy phải không ngừng bồi đắp bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ lý luận chính trị, phải gắn lý luận với thực tiễn, nhận thức được các quy luật vận động của sự vật, hiện tượng để có nhận thức đúng đắn, khoa học, từ đó có biện pháp thấu đáo, dám đổi mới và đổi mới thành công.

Bênh cạnh đó, Tỉnh ủy, UBND tỉnh Quảng Bình tiếp tục quan tâm chú trọng lãnh đạo, điều hành, quản lý nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ. Thực hiện có hiệu quả chính sách thu hút nhân tài, cải thiện chất lượng cán bộ. Xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ gắn với thực tiễn, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cơ bản, có định hướng lâu dài phù hợp với xu thế phát triển… Tăng cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng và đạo đức công vụ cho đội ngũ cán bộ, trong đó tập trung hướng đến nâng cao trách nhiệm, tinh thần cống hiến, tính tiên phong, gương mẫu đi đầu trong kiến tạo, dẫn dắt đổi mới sáng tạo góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Làm cho người cán bộ nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò, trách nhiệm… luôn trăn trở về những vấn đề phát triển của quê hương, đất nước, ấm no, hạnh phúc của nhân dân… tạo ra động lực tinh thần thúc đẩy cán bộ đổi mới vì lợi ích chung, đẩy lùi chủ nghĩa cá nhân, tư duy bảo thủ, kinh nghiệm…

Thứ ba, xây dựng môi trường thuận lợi để đội ngũ cán bộ dám đổi mới

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ rằng “cán bộ và đảng viên vẫn ít sáng kiến, ít hăng hái” là “Vì nhiều lẽ. Mà trước hết là vì cách lãnh đạo của ta không được dân chủ, cách công tác của ta không được tích cực…”(24). Do đó, trong bối cảnh hiện nay, muốn cán bộ “dám đổi mới” điều tiên quyết phải tạo được môi trường thuận lợi để đổi mới. Môi trường đó được tạo nên bởi tổng hòa nhiều yếu tố. Trước hết là về mặt cơ chế phải cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước phù hợp với thực tiễn địa phương theo hướng mở, tạo cơ chế, điều kiện khuyến khích cho cán bộ đổi mới, bảo vệ cán bộ dám đổi mới.

Đồng thời, tập trung đổi mới, nâng cao chất lượng công tác cán bộ, xây dựng tổ chức đảng vững mạnh, là hạt nhân chính trị; mỗi đảng viên luôn tiên phong, gương mẫu. Thực hiện nghiêm kỷ luật, kỷ cương trong thực thi công vụ. Thực hiện tốt công tác đánh giá cán bộ, sàng lọc loại bỏ những cán bộ không đạt yêu cầu. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp ủy các cấp, tổ chức đảng trong điều kiện mới theo hướng khoa học, dân chủ, sát thực tiễn…

Đặc biệt, triển khai thực hiện có hiệu quả, ý nghĩa và thiết thực các phong trào thi đua yêu nước, nhất là phong trào thi đua yêu nước trong thực thi công vụ đối với cán bộ. Xây dựng văn hóa đổi mới sáng tạo trong môi trường công sở…

_________________

Ngày nhận: 16-3-2024; Ngày bình duyệt: 20-3-2024; Ngày duyệt đăng: 26-4-2023.

(1) Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2003, tr.337.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.284.

(3), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.61, 391.

(4), (5), (14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.54, 48, 273.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.46.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.96.

(8), (10), (11), (17), (18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.377, 47-48, 65, 187, 272.

(9), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.453, 378.

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.518.

(16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.340.

(19) Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh Quảng Bình: Lịch sử Đảng bộ Quảng Bình, t.II 1954 - 1975, Đồng Hới, tháng 2-2000, tr.43-44.

(20) Bài phát biểu của đồng chí Vũ Đại Thắng, Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy tại Hội nghị học tập quán triệt chuyên đề năm 2024 của Đảng bộ tỉnh về học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh. https://quangbinh.gov.vn.

(21) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.178-179.

(22), (23) Đảng bộ tỉnh Quảng Bình: Văn kiện Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XVII, nhiệm kỳ 2020 - 2025, Quảng Bình, 2020, tr.60-61, 107.

(24) https://www.bqllang.gov.vn.