Kinh nghiệm về xây dựng thể chế để nhân tài trí thức sáng tạo và phát triển
(LLCT) - Trong thời đại hiện nay, trí thức góp phần khai phá tri thức, đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm giúp cải tạo xã hội, xây dựng và phát triển đất nước bền vững. Thông qua nghiên cứu kinh nghiệm của một số nước trong thu hút và trọng dụng trí thức hiệu quả, bài viết đề xuất một số kiến nghị trong công tác xây dựng thể chế, thúc đẩy môi trường để nhân tài trí thức Việt Nam phát huy tối đa tiềm năng và đóng góp cho sự phát triển vững bền của đất nước. Bài viết thuộc Đề tài “Đào tạo, sử dụng và thu hút nhân tài - đột phá chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu phát triển nhanh bền vững đất nước” (Mã số: KX.04/21-25).
TS NGUYỄN THỊ LAN ANH
Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn - Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Mở đầu
Trong bối cảnh hiện nay, đội ngũ trí thức với tinh thần, hành động đổi mới sáng tạo là chìa khóa then chốt cho sự phát triển của mỗi quốc gia, trong đó có Việt Nam. Là chủ thể của hoạt động nghiên cứu, sáng tạo và truyền bá tri thức, trí thức là nhân tố nòng cốt trong đổi mới và phát triển quốc gia.
Nhận thức được tầm quan trọng của đội ngũ trí thức, Trung ương Đảng khóa X đã ban hành Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nghị quyết đề cao mục tiêu “phát huy đến mức cao nhất mọi nguồn lực, tiềm năng trí tuệ của dân tộc, đặc biệt là năng lực sáng tạo của đội ngũ trí thức”(1). Nghị quyết 27 đã thể chế hóa cơ sở chính trị, pháp lý cho chính quyền các cấp tăng cường thực thi chính sách phát triển đội ngũ trí thức. Nhiều văn bản quy phạm pháp luật liên quan được ban hành, các hiệp hội trí thức được kiện toàn, nhiều người đứng đầu cấp ủy, chính quyền, địa phương đã tiến hành đối thoại với trí thức, vai trò của bộ phận kiểm định chất lượng đào tạo ở nhiều nơi được nâng cao... Tại một số địa phương đã thí điểm quy chế thu hút chuyên gia, đầu tư vào nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, chuẩn hóa đội ngũ cán bộ, tăng thu nhập cho cán bộ, công chức, viên chức(2).
Sau hơn 15 năm thực hiện Nghị quyết 27, bước đầu đội ngũ trí thức ở nước ta được nâng cao về số lượng, chất lượng, từng bước đáp ứng nhu cầu công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước(3). Tuy nhiên, quá trình thực hiện còn một số hạn chế, chưa thực sự phát huy hiệu quả Nghị quyết.
Trong bối cảnh cuộc cạnh tranh nhằm thu hút nhân tài đang diễn ra gay gắt trên thế giới, Việt Nam cần có những thể chế, với cách thức hiệu quả để phát huy nguồn lực trí thức phục vụ công cuộc đổi mới, phát triển đất nước.
2. Cơ sở lý luận về nhân tài trí thức và thể chế
Trí thức có nguồn gốc trong tiếng Latinh là “intelligentia”, có nghĩa là “sự hiểu biết” hay “sự thông thái”. Tuy nhiên, không có một định nghĩa hoàn chỉnh về trí thức bởi đây là một từ đa nghĩa.
Đảng ta quan niệm, trí thức là “những người lao động trí óc, có trình độ học vấn cao về lĩnh vực chuyên môn nhất định, có năng lực tư duy độc lập, sáng tạo, truyền bá và làm giàu tri thức, tạo ra những sản phẩm tinh thần và vật chất có giá trị đối với xã hội”(4).
Trí thức có những đặc trưng cơ bản: có học thức, trình độ chuyên môn cao, có tính sáng tạo, khả năng tư duy độc lập, có chính kiến, có khả năng đóng góp tri thức khoa học và thực tiễn, góp phần cải tiến xã hội. Ngoài trình độ hiểu biết, một trí thức chân chính cần có lương tâm và đạo đức, bởi sự hiểu biết của người trí thức chỉ thực sự mang lại những giá trị tốt đẹp cho xã hội khi tri thức “được soi rọi bằng lương tri của những người đang sống và làm việc vì sự tiến bộ của xã hội, không phải vì lợi ích của bản thân”, hay lợi ích của một nhóm người(5).
Đội ngũ trí thức Việt Nam không chỉ bao gồm các chuyên gia khoa học, người có học thức mà còn là những người có trình độ và đạo đức, có đóng góp cho sự tiến bộ xã hội, mang tinh thần yêu nước sâu sắc và khả năng nhạy bén với cái mới.
Nhân tài là những người có năng khiếu và kỹ năng chuyên môn, có năng lực lãnh đạo, sáng tạo, thái độ chủ động, cam kết và có đóng góp tích cực cho cộng đồng, quốc gia. Nhân tài cũng bao gồm những cá nhân có tiềm năng góp phần vào sự tiến bộ xã hội(6).
Quản trị trí thức là việc lập kế hoạch và thực hiện các chiến lược để thu hút, phát triển và “giữ chân” nhân tài trí thức để họ đóng góp vào sự phát triển của tổ chức và quốc gia. Để chuyển đổi tiềm năng thành thành tựu và đóng góp cho xã hội, mỗi quốc gia cần tạo điều kiện thuận lợi để khuyến khích sự cam kết và cống hiến của trí thức(7). Các nhóm nhân tài trí thức cần được quan tâm về đời sống và cơ sở vật chất để tập trung vào công việc chuyên môn. Đồng thời, được làm việc trong môi trường khích lệ, thúc đẩy sự độc lập và sáng tạo, giúp họ tự nguyện và dấn thân tạo ra giá trị cho tổ chức và xã hội(8).
Thể chế là hệ thống các quy tắc và biện pháp mà con người thiết lập để điều chỉnh tương tác chính trị, xã hội và kinh tế, bao gồm cả cơ chế ưu đãi và trừng phạt mà cá nhân, doanh nghiệp và chính phủ phải đối mặt(9). Thể chế bao gồm các quy định chính thức như luật pháp và quy định do chính phủ hoặc cơ quan có thẩm quyền thiết lập, và các quy tắc phi chính thức như quy tắc xã hội và hành vi, được hình thành, phát triển trong cộng đồng. Thể chế đóng vai trò quan trọng trong việc định hình hành vi kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội.
Thể chế bao gồm ba yếu tố chính: Hệ thống pháp luật, là các quy tắc xã hội được thừa nhận để điều chỉnh mối quan hệ và hành vi; Chủ thể quản lý tham gia điều hành xã hội, bao gồm nhà nước, cộng đồng dân cư và các tổ chức xã hội; Cơ chế, gồm các phương pháp quản lý và điều hành xã hội(10). Do đó, hiệu quả của thể chế phụ thuộc chủ yếu vào chất lượng của hệ thống pháp luật và cơ chế do các chủ thể quản lý sử dụng, đồng thời phụ thuộc vào mức độ can thiệp của chính phủ, sự minh bạch của hệ thống tư pháp và hiệu quả của hoạt động xã hội.
Dưới góc nhìn thể chế, công tác phát triển trí thức bao gồm xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật và chính sách công; khuyến khích sự tham gia của các chủ thể quản lý và nhà nước trong điều hành; ban hành và thực thi các cơ chế và phương pháp quản lý cụ thể, phù hợp với từng nhóm đối tượng trí thức để đạt hiệu quả cao nhất.
3. Kinh nghiệm thế giới về quản trị trí thức
Trên thế giới, mỗi quốc gia áp dụng các cách tiếp cận khác nhau trong sáng tạo tri thức và phát triển đất nước, tùy thuộc vào hoàn cảnh lịch sử, kinh tế, chính trị và văn hóa. Hình 1 minh họa một số thể chế mà các quốc gia sử dụng để quản lý nhân tài trí thức một cách hiệu quả, góp phần quan trọng vào sự sáng tạo, tiến bộ và phát triển đất nước. Trong nhóm các biện pháp hoàn thiện thể chế, việc nâng cao năng lực quản trị nhà nước và xây dựng hệ sinh thái trí thức được coi là hai nhóm quan trọng nhất.
Hình 1. Kinh nghiệm quản trị trí thức trên thế giới từ góc nhìn thể chế
Nguồn: Tác giả tổng hợp.
Kinh nghiệm nâng cao năng lực quản trị trí thức của nhà nước
Năng lực quản trị trí thức ảnh hưởng trực tiếp đến cách mà các lãnh đạo quốc gia định hình tầm nhìn và ủy quyền cho các cơ quan chuyên trách để tạo điều kiện thuận lợi cho trí thức phát huy tối đa năng lực trong nhiều lĩnh vực khác nhau, bao gồm hai nội dung chính:
Một là, xây dựng tầm nhìn quốc gia. Hàn Quốc là một minh chứng cho sự thành công của năng lực quản trị trí thức. Là quốc gia không có tài nguyên thiên nhiên ưu đãi, phải trải qua những thách thức từ Chiến tranh thế giới thứ II và nội chiến nhưng Chính phủ Hàn Quốc đã định hướng và hành động mạnh mẽ trong đầu tư vào giáo dục và nguồn nhân lực, nghiên cứu và phát triển (R&D). Kết quả, Hàn Quốc đã chuyển biến từ một quốc gia nhận viện trợ sang quốc gia hàng đầu thế giới trong nhiều lĩnh vực chỉ sau vài thập kỷ. Từ một quốc gia với GDP bình quân đầu người thấp trong những năm 1960, Hàn Quốc trở thành một trong số các quốc gia có GDP bình quân đầu người cao nhất trên thế giới, vượt qua con số 35,000 USD/người(11).
Tương tự, Thụy Sỹ trở thành một trong những nền kinh tế vượt bậc trên thế giới nhờ định hướng và cam kết tăng trưởng kinh tế dựa trên đổi mới(12). Đối mặt với cuộc khủng hoảng kinh tế năm 2009, Thụy Sỹ vẫn quyết tâm mở rộng đầu tư vào khoa học, công nghệ và đổi mới khi Quốc hội Thụy Sỹ tăng mức tài trợ cho R&D và triển khai chương trình kiểm tra đổi mới để hỗ trợ đổi mới trong các doanh nghiệp. Những nỗ lực này được ghi nhận trong Bảng điểm của Liên minh sáng tạo năm 2011: “Thụy Sỹ là quốc gia đi đầu về đổi mới nói chung, liên tục vượt trội so với tất cả các quốc gia EU27”(13).
Hai là, trao quyền cho cơ quan tổ chức chuyên trách thực hiện tầm nhìn dài hạn, nâng cao năng lực quản trị trí thức của nhà nước thông qua nghiên cứu và tư vấn chiến lược (think tank), cho phép các trường đại học quyền tự quyết; thiết lập cơ chế cho trí thức đổi mới sáng tạo.
Các tổ chức tư vấn thường hoạt động độc lập, có nhiệm vụ nghiên cứu và phân tích các chủ đề cụ thể về chính sách và đưa ra giải pháp chính sách cho các nhà lãnh đạo chính phủ. Các tổ chức này cung cấp các luận cứ khoa học, nên là nơi tạo điều kiện cho trí thức tham gia hoạch định chính sách và là cầu nối giữa giới trí thức và giới cầm quyền(14), ví dụ một số tổ chức tư vấn nổi tiếng trên thế giới như Brookings Institution ở Mỹ, Friedrich Ebert Stiftung ở Đức, Japan Institute of International Affairs ở Nhật Bản(15).
Tương tự, nhiều trường đại học trên thế giới được nhà nước trao quyền tự quyết và độc lập chuyên môn. Tự quyết là hình thức tự quản, cho phép các giáo sư, nhà nghiên cứu điều hành hoạt động của trường một cách độc lập, tạo môi trường học tập, nghiên cứu thuận lợi của trí thức. Ví dụ, các trường đại học lớn ở Mỹ như Harvard, Stanford có quyền tự quyết về chương trình giảng dạy, nghiên cứu và các hoạt động khác. Đây được coi là một trong những mô hình thành công trên thế giới, tuy vẫn đối mặt với nhiều thách thức trong cạnh tranh thu hút sinh viên và nhà tài trợ.
Ngoài ra, hiện nay khoảng 50 quốc gia trên thế giới đã và đang thiết lập cơ chế cho trí thức đổi mới sáng tạo thông qua trao quyền cho các cơ quan đổi mới quốc gia (CQĐMQG), như Tổ chức Phát triển Công nghệ công nghiệp và Năng lượng mới của Nhật Bản. CQĐMQG bao gồm các cơ quan của chính phủ hoặc tổ chức phi chính phủ có quyền tự quyết hoặc tự quyết một phần(16). Các CQĐMQG tập hợp các trí thức nghiên cứu và triển khai chính sách đổi mới liên quan đến nhiều lĩnh vực liên ngành, bao gồm: giáo dục, giao thông vận tải, thuế, thông tin liên lạc, quốc phòng, nhập cư… vì tất cả đều có tác động trực tiếp và đáng kể đến sự phát triển của một nền kinh tế đổi mới.
Giống như các tổ chức tư vấn, hầu hết các CQĐMQG đưa ra phân tích và phê bình về mức độ ảnh hưởng của các sáng kiến do chính phủ đề xuất đến khả năng cạnh tranh đổi mới của đất nước, trong khi một số tổ chức đưa ra các khuyến nghị chính sách của riêng họ. Ngoài ra, các CQĐMQG còn thúc đẩy đổi mới trong toàn bộ các cơ quan hành chính của chính phủ, thông qua tài trợ cho các nhà nghiên cứu hoặc tham gia trực tiếp vào các nghiên cứu. Các CQĐMQG cũng đo lường địa điểm, mức độ và hiệu quả của hoạt động đổi mới trong doanh nghiệp và ngành của một quốc gia(17).
Kinh nghiệm xây dựng hệ sinh thái trí thức đổi mới sáng tạo
Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo gồm nhiều hợp phần như: cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý, luật sở hữu trí tuệ; các quỹ đầu tư, ngân hàng công nghệ, các vườn ươm khởi nghiệp, cơ quan hỗ trợ để các doanh nhân khởi nghiệp, các nhà đầu tư, sinh viên, giảng viên, chuyên gia… tham gia kiến tạo tri thức, sản xuất và cung cấp dịch vụ cho xã hội(18). Xây dựng hệ sinh thái trí thức gồm hai nội dung chính:
Một là, đầu tư cho R&D. Đầu tư cho R&D là một trong những yếu tố then chốt bảo đảm sự bền vững của hệ sinh thái đổi mới sáng tạo, đặc biệt là trong việc hỗ trợ kiến thức và tăng cường khả năng tiếp cận vốn cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa và các công ty khởi nghiệp(19).
Ở Thụy Sỹ, thông qua việc thành lập Ủy ban Công nghệ và đổi mới từ năm 1943, Chính phủ đã tài trợ và thúc đẩy các hoạt động nghiên cứu và phát triển công nghệ nội địa. Ủy ban Công nghệ và đổi mới tập trung đặc biệt vào việc nâng cao khả năng đổi mới của các doanh nghiệp nhỏ và vừa, chiếm 99,7% tổng số doanh nghiệp và 67,5% lực lượng lao động của Thụy Sỹ. Bên cạnh việc hỗ trợ về kiến thức và hiểu biết thông qua các dự án nghiên cứu khoa học cơ bản, Ủy ban Công nghệ và đổi mới cung cấp các chương trình đào tạo và tư vấn tài chính để hỗ trợ các nhà sáng lập ý tưởng và doanh nghiệp khởi nghiệp. Các chương trình này đồng thời giúp các doanh nghiệp đã thành lập tìm kiếm nguồn tài chính, chuyên môn và mạng lưới để hợp tác, tăng trưởng và phát triển. Ủy ban Công nghệ và đổi mới sử dụng “Séc đổi mới”, cho phép các doanh nghiệp nhỏ và vừa đăng ký phiếu mua hàng trị giá 5.000 euro mà họ có thể đổi tại các trường đại học hoặc tổ chức nghiên cứu để được hỗ trợ nghiên cứu tính khả thi của công nghệ, chuyển giao công nghệ hoặc trong quá trình phát triển công nghệ mới(20).
Nhờ những nỗ lực hỗ trợ trí thức đổi mới sáng tạo, Thụy Sỹ đã trở thành một trong những hệ thống đổi mới quốc gia mạnh mẽ nhất ở châu Âu. Trong số 269 công ty được trao danh hiệu Khởi nghiệp của Ủy ban Công nghệ và đổi mới từ năm 1996, 86% duy trì hoạt động hiệu quả. Những công ty này không chỉ tạo ra lợi nhuận mà còn đóng góp đáng kể cho xã hội bằng cách tạo ra hàng nghìn việc làm cho lao động chất lượng cao ở Thụy Sỹ(21).
Hai là, phát triển mạng lưới liên kết trí thức. Cơ sở của các mối liên kết đổi mới gồm nhiều chủ thể như: doanh nghiệp, trường đại học và nhà nghiên cứu, chuyên gia truyền thông, vận tải và các tổ chức của chính phủ(22). Mặc dù thường hoạt động độc lập hoặc có sự liên kết hạn chế, nhưng khi được phối hợp trong các mạng lưới liên kết, những chủ thể này được gia tăng sức mạnh đáng kể.
Một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước và các tổ chức hỗ trợ phát triển tri thức là thúc đẩy liên kết giữa trường đại học với doanh nghiệp. Hầu hết các CQĐMQG, như Trung tâm phát triển Công nghệ công nghiệp thuộc Bộ Khoa học và Đổi mới của Tây Ban Nha, đều có chủ trương xây dựng và điều phối mạng lưới các nguồn lực này trong danh mục đầu tư(23). Các CQĐMQG hỗ trợ từ việc giới thiệu các doanh nghiệp nhỏ và vừa với nhà đầu tư hoặc thị trường mới, đến việc hỗ trợ các nhà nghiên cứu, nhà đầu tư vốn và doanh nghiệp tư nhân chuyển giao công nghệ thành công.
Ủy ban Công nghệ và đổi mới của Thụy Sỹ không đầu tư trực tiếp vào các công ty mà thực hiện điều này thông qua tài trợ các viện nghiên cứu hợp tác với các công ty trong các dự án R&D. Việc hỗ trợ được áp dụng theo nguyên tắc công ty phải đóng góp ít nhất một nửa kinh phí cho tất cả các dự án R&D được hỗ trợ(24). Trong số 556 dự án mà Ủy ban Công nghệ và đổi mới hỗ trợ năm 2011, 42% tổng kinh phí dự án đến từ Ủy ban, phần còn lại do ngành cung cấp. Ủy ban cũng thúc đẩy quan hệ đối tác đổi mới quốc tế và tạo các kết nối quốc tế cho các nhà đổi mới của Thụy Sỹ.
Ngoài việc thúc đẩy liên kết giữa trường đại học và doanh nghiệp, các quốc gia tích cực tạo điều kiện cho các hiệp hội ngành nghề trí thức. Những hiệp hội này thường được thành lập bởi các chuyên gia cùng lĩnh vực để thực hiện các chức năng như đào tạo, tư vấn, xây dựng quy chuẩn nghề nghiệp, liên kết các thành viên trong hội ngành nghề và liên ngành. Đây là cơ chế quan trọng để bảo đảm điều kiện, môi trường và nguồn lực thuận lợi cho sự phát triển trí thức trong các ngành nghề cụ thể.
Ở Nhật Bản, các hiệp hội như Tổ chức Hiệp hội các trường tư thục Nhật Bản (JANU) và Hiệp hội các trường đại học quốc gia Nhật Bản (JAPUC) là các tổ chức độc lập, không thuộc kiểm soát trực tiếp của Chính phủ(25), (26). Tuy nhiên, các trường đại học thành viên vẫn phải tuân thủ quy định và tiêu chuẩn của Chính phủ Nhật Bản về giáo dục và đào tạo. Cơ chế quản trị của JANU và JAPUC dựa trên quyết định của hội đồng quản trị, kèm theo các văn phòng quản lý và phòng ban chuyên môn để hỗ trợ quản lý, triển khai chương trình và hoạt động.
Cả hai tổ chức này có các hoạt động hỗ trợ giáo dục và nghiên cứu, đại diện cho các trường thành viên trong các hoạt động đối ngoại, cung cấp dịch vụ và hỗ trợ cho cộng đồng giáo dục. Hiệu trưởng, giảng viên và sinh viên các trường thành viên được hưởng nhiều lợi ích, gồm: cơ hội giao lưu và hợp tác với đồng nghiệp; cơ hội tiếp cận thông tin mới nhất về giáo dục và nghiên cứu; khả năng đóng góp tiếng nói vào thay đổi chính sách; được hỗ trợ về tài chính. Tham gia JANU và JAPUC giúp các trường thành viên tăng cường uy tín và thu hút sinh viên. Ngoài ra, JAPUC còn sáng lập Hiệp hội Kiểm định chất lượng giáo dục Nhật Bản để đánh giá chất lượng giáo dục và hỗ trợ các trường nâng cao chất lượng giáo dục(27).
4. Đề xuất hoàn thiện thể chế để nhân tài trí thức Việt Nam sáng tạo và phát triển
Mặc dù đã có nhiều tiến bộ trong xây dựng và thực hiện cơ chế, chính sách đối với trí thức sau hơn 15 năm thực thi Nghị quyết 27, nhưng đến nay vẫn còn một số hạn chế. Các chuyên ngành như khoa học xã hội và nhân văn, y học… chưa được chú trọng đầy đủ, thiếu chuyên gia. Công tác kết nối giữa các chủ thể, như trường đại học, viện nghiên cứu, tổ chức khoa học, hiệp hội chuyên ngành còn yếu(28). Nguyên nhân cơ bản của những hạn chế này là do cơ chế, thể chế còn khá phức tạp, gây khó khăn trong quá trình triển khai.
Để khắc phục những hạn chế nêu trên, cần xem xét các đề xuất sau:
Thứ nhất, xác định định hướng ưu tiên phát triển nguồn lực trí tuệ
Từ kinh nghiệm của một số quốc gia cho thấy, khả năng phát triển của một quốc gia sâu rộng hay không tùy thuộc vào lãnh đạo quốc gia đó nhìn nhận tầm quan trọng của đầu tư vào các loại vốn trí tuệ.
Vốn trí tuệ gồm nhiều thành tố: vốn con người, vốn quan hệ, vốn cấu trúc, trong đó quan trọng hơn cả là vốn con người (29). Vốn con người là kho tàng tri thức, chuyên môn, trực giác và khả năng của mỗi cá nhân để thực hiện nhiệm vụ và mục tiêu quốc gia, nhìn rộng ra là các giá trị về giáo dục, văn hóa và triết lý dân tộc. Với vốn con người, tỷ lệ trí thức, lực lượng lao động có tay nghề cao, sự sẵn có của các nhà khoa học và kỹ sư, lực lượng và sức khỏe lao động là những chỉ số quan trọng. Vốn con người là yếu tố then chốt để tạo ra vốn tri thức (30).
Để đạt hiệu quả hiện thực về nâng cao vốn con người, Việt Nam cần xác định yếu tố căn bản nhất của quốc gia là đầu tư vào giáo dục và nguồn nhân lực. Ở Hàn Quốc, điều cốt lõi làm nên “kỳ tích Hàn Quốc” là phát triển giáo dục song song với phát triển kinh tế. Giáo dục không chỉ giới hạn trong nhà trường, mà còn là cung cấp các cơ hội học tập và chia sẻ kiến thức, kinh nghiệm hữu ích cho mọi đối tượng, đặc biệt là những đối tượng yếu thế trong xã hội. Vì vậy, ngoài mục phát triển đội ngũ trí thức, lực lượng và sức khỏe lao động, Việt Nam nên chú trọng mở rộng các cơ hội học tập suốt đời của mỗi cá nhân trong cộng đồng, để nâng cao phẩm chất trí tuệ, chuyên môn và đạo đức, đóng góp cho phát triển văn hóa dân tộc và mục tiêu quốc gia.
Cùng với việc đầu tư cho giáo dục nhà trường, Nhà nước nên đầu tư vào hệ thống thư viện, bảo tàng về nhiều lĩnh vực như lịch sử và khoa học, ở cấp quốc gia và địa phương. Đồng thời, các bộ, ngành, địa phương cần tạo điều kiện về thời gian và kinh phí để cán bộ, công chức, viên chức được chủ động nâng cao kiến thức thông qua các khóa đào tạo, bồi dưỡng hoặc tham gia các tổ chức chuyên môn phù hợp.
Các quốc gia tiên tiến trong thúc đẩy sáng tạo tri thức thông qua đầu tư vào R&D mạnh mẽ và hiệu quả cũng cung cấp những kinh nghiệm có thể tham khảo. Học hỏi Hàn Quốc từ mục tiêu và hành động nâng cao khả năng sáng tạo và chia sẻ tri thức với cộng đồng toàn cầu, như nguyên Thủ tướng Hàn Quốc Chung Un-Chan chia sẻ: “khi nền kinh tế phát triển, một quốc gia phải chuẩn bị để chuyển mục tiêu giáo dục từ chuyển giao kiến thức sáng tạo ra kiến thức. Khi tiến hành R&D, chữ R có nghĩa là nghiên cứu thực sự, không phải sàng lọc những gì người khác đã làm”(31).
Thứ hai, phân bổ nguồn lực hướng tới phát triển bền vững
Kinh nghiệm về tăng trưởng chia sẻ (shared growth) của các nước đó là thúc đẩy tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ nhưng vẫn bảo đảm phân phối công bằng lợi ích giữa các lĩnh vực, tổ chức, ngành nghề và cá nhân.
Trước đây, Hàn Quốc là quốc gia đã từng áp dụng ưu tiên phân bổ nguồn lực cho các ngành có tiềm năng cao, mà không phải cho tất cả các ngành, dẫn đến hậu quả bất bình đẳng kinh tế. Tuy có những tập đoàn kinh tế lớn mạnh toàn cầu nhưng những doanh nghiệp nhỏ và vừa của Hàn Quốc lại bị lu mờ, khoảng cách giàu nghèo trong xã hội ngày càng gia tăng, tăng trưởng kinh tế chậm lại(32). Đây là bài học về hậu quả của việc tăng trưởng không cân bằng cần rút ra để phòng tránh, hướng tới mô hình phát triển bền vững cho tăng trưởng.
Tăng trưởng chia sẽ đồng nghĩa chính phủ ưu tiên xây dựng năng lực và tạo cơ hội cho những đối tượng trí thức yếu thế trong xã hội như sinh viên, giáo viên vùng cao, trí thức nữ hay các doanh nhân điều hành doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một trong những nhiệm vụ quan trọng mà Việt Nam cần ưu tiên đầu tư là phát triển chương trình hợp tác giữa các trường đại học, viện nghiên cứu và các tổ chức chuyên ngành nhằm thu hút và phát triển chuyên gia trong đa dạng các lĩnh vực, đặc biệt trong các lĩnh vực trọng yếu, còn thiếu hụt nhiều chuyên gia như khoa học xã hội và nhân văn hay ngành y học.
Trường hợp Thụy Sỹ là ví dụ tiêu biểu về thành công trong huấn luyện khởi nghiệp cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa để giải quyết khó khăn do thiếu kiến thức, kỹ năng và mạng lưới khởi nghiệp. Ngoài hỗ trợ vốn, Thụy Sỹ hỗ trợ nuôi dưỡng ý tưởng khởi nghiệp, cung cấp kiến thức chuyên biệt, kiểm tra và đánh giá mô hình kinh doanh, hay tặng “Séc đổi mới” để đổi lấy gói hỗ trợ nghiên cứu chuyển giao công nghệ… là những hành động thiết thực để các cá nhân và tổ chức cùng tăng trưởng vốn trí tuệ, phục vụ bản thân và đất nước.
Thứ ba, phát triển mạng lưới liên kết trí thức hiệu quả, có tầm ảnh hưởng
Ngoài việc ưu tiên đầu tư phát triển đội ngũ chuyên gia, trí thức ở nhiều lĩnh vực, Chính phủ cần đẩy mạnh việc thành lập cơ quan chuyên trách trong công tác trọng dụng nhân tài, đồng thời phát triển mạng lưới liên kết trí thức trong và ngoài nước để phát huy sức mạnh trí thức Việt Nam. Thực tế, Việt Nam đã thành lập được nhiều tổ tư vấn, nhóm tư duy chiến lược hay các hội trí thức. Việt Nam là quốc gia được đánh giá có nhiều think tank nhất trên thế giới với số lượng lên tới 180 hiệp hội ngành nghề(33). Nhiều hiệp hội được thành lập nhằm thúc đẩy sự phát triển của các ngành nghề cụ thể, như Liên hiệp các hội khoa học và kỹ thuật Việt Nam. Tuy nhiên, hiện chưa có hiệp hội nghề nghiệp của trí thức có tầm ảnh hưởng quốc gia như ở Thụy Sỹ hay Nhật Bản. Vì vậy, việc trao quyền để các cá nhân, tổ chức tư vấn chính sách, hiệp hội nghề hoạt động độc lập và hiệu quả là ưu tiên của lãnh đạo các cấp.
5. Kết luận
Trên cơ sở thực tiễn chính sách phát huy vai trò của trí thức và thể chế trọng dụng nhân tài, Việt Nam cần những chính sách cơ chế cụ thể về phát triển vốn trí tuệ, đặc biệt là vốn con người khi xây dựng chiến lược quốc gia. Điều này đòi hỏi ưu tiên cải thiện hệ thống pháp luật, tăng cường nghiên cứu và phát triển, nâng cao năng lực học tập suốt đời, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, xây dựng môi trường cạnh tranh công bằng và tăng cường mạng lưới liên kết trí thức.
Việc tạo ra các thể chế thu hút và trọng dụng nhân tài trí thức để phát triển đất nước là thách thức của nhiều quốc gia trên thế giới. Thực hiện phát triển bền vững thông qua đầu tư vào giáo dục và sáng tạo tri thức, trong tương lai Việt Nam sẽ có những bước phát triển vượt bậc sánh vai các quốc gia phát triển trên thế giới.
_________________
Ngày nhận bài: 20-4-2024; Ngày bình duyệt: 31-5-2024; Ngày duyệt đăng: 24-7-2024.
(1) ĐCSVN: Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 06-8-2008 về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
(2), (28) Hoàng Mẫn: Đội ngũ trí thức đóng góp rất lớn trong tiến trình phát triển của Thành phố Hồ Chí Minh, https://dangcongsan.vn/, ngày 22-2-2023.
(3) Nguyễn Quang Hưng: Vĩnh Phúc: Xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa, https://tuyengiao.vn/, ngày 26-10-2022.
(4) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.81-82.
(5) Nguyễn Viết Thông, Lê Thị Sự: Trí thức và vai trò của trí thức trong quá trình phát triển của Việt Nam hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2019, tr.18.
(6) Nguyễn Lan Anh, Trịnh Ngọc Thạch: Quản lý nhân tài trong kỷ nguyên số: con đường phía trước [Talent management in the digital age: the way forward]. Kỷ yếu hội thảo Quốc tế, Nxb Nomos Verlag, Cộng hòa Liên bang Đức, 2024.
(7) Michailova, S., & Ott, D. L.: Nhân tài, quản lý nhân tài và tại sao chúng quan trọng?, trong S. Michailova & D. L. Ott, “Quản lý nhân tài ở các nền kinh tế nhỏ tiên tiến”, Công ty TNHH Xuất bản Emerald, 2019, tr.7-32, https://doi.org/10.1108/978-1-78973-449-220191003.
(8) Trịnh Ngọc Thạch: Mô hình quản lý đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao trong giáo dục đại học Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2012.
(9) North, D. C.: Các tổ chức, thay đổi thể chế và hoạt động kinh tế [Institutions, Institutional Change and Economic Performance], Nxb Đại học Cambridge, 1990.
(10) Xem: Phạm Thị Túy: Thể chế, trong Mục “Từ điển mở”, http://lyluanchinhtri.vn/.
(11), (31), (32) Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh: Nguyên Thủ tướng Hàn Quốc: “Khả năng thích ứng, sáng tạo tri thức và chia sẻ là nền tảng của phát triển bền vững”, https://www.ueh.edu.vn/, ngày 14-12-2022.
(12), (13), (16), (17), (19), (20), (21), (22), (23), (24) Ezell, S., Spring, F., & Bitka, K. (2015): Sự hưng thịnh toàn cầu nhờ các quỹ đổi mới quốc gia [The Global Flourishing of National Innovation Foundations], ITIF, April.
(14) Nguyễn Cẩm Ngọc: Think Tank - Một mô hình tổ chức hiện đại tạo cơ hội cho giới trí thức tinh hoa góp phần hoạch định chính sách quốc gia, Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội: Khoa học Xã hội và Nhân văn, 2015, t.31, số 2, tr.60-71, https://js.vnu.edu.vn/SSH/article/view/223/216.
(15), (33) McGann, J.: Báo cáo chỉ số Think Tank toàn cầu năm 2020 [2020 Global Go To Think Tank Index Report], 2021, https://repository.upenn.edu/.
(18) Báo Điện tử Chính phủ: Hệ sinh thái đổi mới sáng tạo có những bước phục hồi ấn tượng, https://baochinhphu.vn/, ngày 08-9-2022.
(25) Tổ chức Hiệp hội các trường đại học Quốc gia Nhật Bản (Japan Association of National Universities), https://www.janu.jp/eng/.
(26) Tổ chức Hiệp hội các trường Đại học tư thục Nhật Bản (Japan Association of Private Universities and Colleges) https://www.shidairen.or.jp/english/
(27) Hiệp hội Kiểm định Chất lượng giáo dục Nhật Bản (Japan Institution for Higher Education Evaluation), http://www.jihee.or.jp/en/index.html.
(29), (30) Lin, C. Y.-Y., & Edvinsson, L.: Giới thiệu Vốn trí tuệ quốc gia [Introduction of National Intellectual Capital], trong sách của C. Y.-Y. Lin & L. Edvinsson (Eds.) “Vốn trí tuệ quốc gia: So sánh 40 nước” [National Intellectual Capital: A Comparison of 40 Countries], Nxb. Springer, 2011, tr.1-6, https://doi.org/.