Phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước hiện nay
(LLCT) - Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng, đặc biệt là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ, để đạt được mục tiêu “đến năm 2030 là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao”, nước ta cần tiếp tục đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số. Để thực hiện được điều này, phát triển nguồn nhân lực của đất nước, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng các yêu cầu thực tiễn có ý nghĩa quyết định.
THS TRẦN THỊ PHƯƠNG HUỲNH
Học viện Chính trị khu vực IV
1. Mở đầu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH) gắn với phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số là một quá trình tích hợp, phải thực hiện cùng lúc ba tiến trình: (1) đẩy mạnh công nghiệp hóa; (2) hiện đại hóa đất nước; (3) phát triển kinh tế tri thức và kinh tế số. Để thực hiện các tiến trình này đạt các mục tiêu, nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của thực tiễn đóng vai trò quyết định.
Tại Đại hội XIII, Đảng ta xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo”(1) là một trong ba đột phá chiến lược. Theo đó cần “Đào tạo con người theo hướng có đạo đức, kỷ luật, kỷ cương, ý thức trách nhiệm công dân, xã hội; có kỹ năng sống, kỹ năng làm việc, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, công nghệ số, tư duy sáng tạo và hội nhập quốc tế (công dân toàn cầu)”(2). Đây là chủ trương đúng đắn, kịp thời, thể hiện tư duy, tầm nhìn chiến lược của Đảng ta về phát triển nguồn nhân lực, trong đó có nguồn nhân lực chất lượng cao nhằm đáp ứng các yêu cầu đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH toàn diện và đồng bộ, phát triển đất nước nhanh và bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế và toàn cầu hóa sâu rộng.
2. Thực trạng nguồn nhân lực nước ta hiện nay
Hiện nay, quy mô dân số của cả nước là 100,3 triệu người (năm 2023). Lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 52,4 triệu người, trong đó, lực lượng lao động ở khu vực thành thị là 19,5 triệu người (chiếm 37,3%), khu vực nông thôn là 32,9 triệu người (chiếm 62,7%); lực lượng lao động nữ là 24,5 triệu người (chiếm 46,7%), lực lượng lao động nam là 27,9 triệu người (chiếm 53,3%). Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động là 68,9%, trong đó tỷ lệ tham gia lực lượng lao động của nam giới là 75,2% nữ giới là 62,9%(3). Qua số liệu thống kê cho thấy, quy mô lực lượng lao động Việt Nam hiện nay tương đối lớn và có cơ cấu hài hòa giữa lao động nam và lao động nữ, là nguồn lực dồi dào trong thực hiện các mục tiêu của quá trình CNH, HĐH đất nước.
Mặc dù Việt Nam có tốc độ già hóa dân số nhanh, cơ cấu dân số đang dịch chuyển theo hướng tăng tỷ lệ người cao tuổi và giảm tỷ lệ dân số trẻ, song hiện Việt Nam vẫn đang trong giai đoạn cơ cấu dân số vàng khi có nhóm dân số trong độ tuổi từ 15-59 tuổi chiếm 62,2% dân số(4). Đây là điều kiện thuận lợi cho việc tiếp thu các kiến thức, thành tựu khoa học - kỹ thuật và linh hoạt trong chuyển đổi nghề nghiệp của lực lượng lao động.
Đại hội XIII xác định: “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao; ưu tiên phát triển nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện, cơ bản về chất lượng giáo dục và đào tạo gắn với cơ chế tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ nhân tài, đẩy mạnh nghiên cứu, chuyển giao ứng dụng và phát triển mạnh khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo” là một trong ba đột phá chiến lược.
Chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam hiện nay đã có nhiều cải thiện. Tỷ lệ lao động qua đào tạo ở nước ta tăng từ 40% (năm 2010) lên 65% (năm 2020). Tính đến năm 2023, lực lượng lao động đã qua đào tạo, có bằng cấp, chứng chỉ đạt 14,1 triệu người, chiếm 27% dân số(5). Cùng với đó, chỉ số vốn nhân lực (HCI) và chỉ số phát triển con người (HDI) của Việt Nam không ngừng tăng qua các năm. Giai đoạn 2010-2020, HCI của nước ta tăng từ 0,66 lên 0,69(6). Hiện Việt Nam là một trong những nước ở khu vực Đông Á - Thái Bình Dương có điểm cao nhất về chỉ số vốn nhân lực. Về phát triển con người, sau 20 năm (1990-2019), HDI của Việt Nam tăng 48%, từ 0,475 lên 0,704(7). Hiện Việt Nam nằm trong nhóm các quốc gia có chỉ số phát triển con người cao của khu vực và thế giới. Qua đó cho thấy chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam đã không ngừng tăng lên.
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực chất lượng cao hiện nay cũng đã được quan tâm, chú trọng. Các doanh nhân giỏi, lao động có trình độ kỹ thuật cao ngày càng đông đảo, đóng góp quan trọng cho sự phát triển đất nước. Lực lượng lao động Việt Nam có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã thu hút và phát huy hiệu quả cao của một số ngành, lĩnh vực như: bưu chính viễn thông, công nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, công nghiệp đóng tàu, năng lượng, y tế, giáo dục và xuất khẩu. Lao động người Việt Nam được đánh giá là có nhiều tư chất thông minh và sáng tạo, nhạy bén trong tiếp thu và tiếp cận tri thức.
Mặc dù chất lượng nguồn nhân lực đã có sự cải thiện, nhưng để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH toàn diện và đồng bộ, phát triển kinh tế số và kinh tế tri thức, nguồn nhân lực Việt Nam hiện vẫn còn nhiều hạn chế. Cụ thể:
Một là, thể lực và trí lực nguồn nhân lực chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển kinh tế hiện đại nói chung và chuyển đổi số nói riêng
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa hiện nay đang đặt ra những yêu cầu về sức khỏe thể chất và tâm lý của người lao động. Thể lực và tầm vóc của người lao động Việt Nam thời gian qua đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước trên thế giới và trong khu vực như: Nhật Bản, Thái Lan, Xinhgapo, Trung Quốc về các chỉ số nhân trắc, sức khỏe, thể lực, nhất là thần kinh, tâm lý thì người lao động nước ta còn thấp hơn. Điều này gây khó khăn khi người lao động tham gia vào quá trình sử dụng vận hành các máy móc, thiết bị hiện đại, kích cỡ lớn hoặc làm việc trong môi trường không thuận lợi.
Nguyên nhân của thể lực, sức khỏe, tâm lý người lao động Việt Nam kém là do điều kiện ăn uống, sinh hoạt còn nghèo nàn, chưa được đầy đủ về dinh dưỡng. Đồng thời, những kiến thức, kỹ năng, nhận thức về tâm, sinh lý trong quá trình nuôi dạy, chăm sóc thế hệ trẻ còn thấp. Do đó, việc phát triển thể lực người lao động Việt Nam cần phải tính đến yếu tố chất lượng sinh sản và yếu tố bồi dưỡng thể lực sức khỏe tâm lý, thần kinh cho người lao động trong tương lai.
Thời gian qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về phát triển xã hội, phát triển y tế, xây dựng cơ sở hạ tầng, tiền lương… Qua đó góp phần nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của người lao động, tiêu biểu như Quyết định số 641/QĐ-TTg ngày 28-4-2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Đề án tổng thể phát triển thể lực, tầm vóc người Việt Nam giai đoạn 2011-2030; Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 25-10-2017 của Hội nghị Trung ương 6 khóa XII về Tăng cường công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe, nhân dân trong tình hình mới… Tuy nhiên, những chủ trương, chính sách trên vẫn chưa được thực hiện một cách hiệu quả trong nâng cao thể lực, sức vóc và yếu tố tinh thần, tâm lý, thần kinh của nguồn nhân lực nước ta. Điều này đòi hỏi cần phải chú trọng và cải thiện mức sống và chất lượng cuộc sống, đặc biệt là chế độ chăm sóc sức khỏe và dinh dưỡng, tâm lý, thể lực của người lao động nhằm đáp ứng chất lượng nguồn nhân lực cho quá trình CNH, HĐH hiện nay.
Hai là, cơ cấu lao động chưa hợp lý, cả về trình độ học vấn, chuyên môn và về phân bố theo khu vực
Trình độ học vấn chuyên môn của lao động Việt Nam hiện nay vẫn thấp so với mặt bằng chung các nước trong khu vực và trên thế giới. Hiện tỷ lệ lao động có trình độ học vấn, chuyên môn của nước ta chỉ gần tương đương với lao động của Inđônnêxia và thấp hơn nhiều nước khác trong khu vực, như: Nhật Bản, Hàn Quốc, Xinhgapo, Trung Quốc, Hồng Kông, Thái Lan, Philíppin.... Trình độ học vấn chuyên môn của lao động thấp dẫn đến những hạn chế trong quá trình ứng dụng khoa học - kỹ thuật, sử dụng các trang thiết bị, máy móc hiện đại vào quá trình sản xuất của người lao động, từ đó không làm gia tăng được năng suất lao động cũng như chất lượng các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ, dẫn đến sức cạnh tranh của nền kinh tế thấp. Đây là những khó khăn lớn cho sự phát triển kinh tế số của Việt Nam trong tương lai.
Cơ cấu về trình độ chuyên môn của lực lượng lao động nước ta hiện nay cũng còn bất hợp lý: lao động qua đào tạo đại học và sau đại học chiếm tỷ lệ lớn nhất và gia tăng nhanh chóng, trong khi tỷ lệ lao động có trình độ cao đẳng và trung cấp có xu hướng giảm và chiếm tỷ lệ không cao. Năm 2020, lao động có trình độ cao đẳng và đại học trở lên chiếm 62,08% số lao động chất lượng cao và riêng đại học trở lên là 46,25%, trong khi trình độ trung cấp nghề chỉ chiếm 18,33%(8). Điều này dẫn đến nước ta thiếu trầm trọng đội ngũ lao động chuyên môn kỹ thuật có trình độ cao đẳng và trung cấp.
Còn có sự chênh lệch lớn giữa thành thị và nông thôn trong phân bố nguồn lao động chất lượng cao. Mặc dù khoảng cách chênh lệch này có giảm so với trước đây, nhưng đến năm 2020, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo có việc làm tại thành thị là 39,7%, gấp 2,43 lần so với tại khu vực nông thôn (với tỷ lệ 16,3%). Năm 2010, khoảng cách này là 3,6 lần(9).
Ba là, đa số lao động của Việt Nam chậm thích nghi với sự thay đổi nhanh chóng của khoa học - kỹ thuật và công nghệ
Theo kết quả nghiên cứu do ILO công bố mới đây, trong 2 thập kỷ tới, khoảng 56% số người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc làm vì sự thay thế công việc của người lao động bởi rôbốt, đặc biệt là trong ngành may mặc(10). Sự phát triển của kinh tế số có thể sẽ làm mất đi một số lượng lớn công việc, như lao động chế biến nông sản, lao động trong ngành logicstics... Người lao động có nguy cơ mất việc làm cao nếu thiếu các kỹ năng cần thiết để có thể thích ứng và bắt nhịp được với các công việc mới nếu không có sự đầu tư đầy đủ và kịp thời cho việc phát triển kỹ năng. Khi bước sang nền kinh tế số, nước ta có thể sẽ phải chịu sức ép lớn trong việc giải quyết việc làm cho lực lượng lao động dư thừa và có nguy cơ đối mặt với sự gia tăng tỷ lệ thất nghiệp hoặc thiếu việc làm trong tương lai.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra yêu cầu đối với người lao động về thể lực, trình độ, kỹ năng lao động tác động vào máy móc, công nghệ hiện đại, qua đó làm tăng năng suất lao động, phát triển lực lượng sản xuất, từ đó hình thành nên những tầng lớp người lao động có trình độ kỹ thuật cao.
Bốn là, văn hóa nghề nghiệp của người lao động chưa hình thành những đặc trưng về ý thức chấp hành luật pháp, kỷ luật trong lao động cũng như khả năng làm việc theo nhóm, làm việc trong môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc.
Văn hóa nghề nghiệp của người lao động Việt Nam được hình thành qua quá trình kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc, cùng với tư chất, phẩm chất, tâm lý đặc trưng trong tính cách của người Việt Nam, như: thông minh, khéo léo, cần cù, sáng tạo và linh hoạt; có lòng nhân ái, tình yêu và say mê nghề nghiệp; làm việc có đạo đức, lương tâm nghề nghiệp. Đó là những truyền thống quý báu được người lao động nước ta gìn giữ và phát huy qua các thế hệ. Tuy nhiên, trong bối cảnh CNH, HĐH, nền sản xuất công nghiệp hiện đại, lực lượng lao động nước ta còn bộc lộ những mặt hạn chế trong văn hóa nghề nghiệp, đặc biệt là tác phong công nghiệp. Do đó, ý thức chấp hành luật pháp, kỷ luật trong lao động cũng như khả năng làm việc theo nhóm, làm việc trong môi trường đa văn hóa, đa sắc tộc còn rất hạn chế, đặc biệt là những rào cản về văn hóa, về ngôn ngữ khi có yếu tố lao động nước ngoài hoặc làm việc ở nước ngoài.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa không chỉ yêu cầu người lao động phải có thể lực tốt, trình độ chuyên môn cao, kỹ năng, lao động chuyên nghiệp mà còn cần có văn hóa nghề nghiệp, bao gồm: thái độ suy nghĩ, cách thức hành vi hướng tới những giá trị nhân bản về đạo đức, lương tâm nghề nghiệp, về thái độ, tác phong trong lao động. Ý thức chấp hành kỷ luật, chấp hành luật pháp trong hoạt động nghề nghiệp của người lao động phải không ngừng được hoàn thiện để điều chỉnh hành vi trong thực hiện công việc hay nghề nghiệp. Văn hóa nghề nghiệp buộc người lao động phải có trách nhiệm và ý thức tự giác cao đối với công việc đang đảm nhiệm. Do đó, cần thiết xây dựng và bồi đắp văn hóa nghề nghiệp trong lực lượng lao động của nước ta hiện nay.
Năm là, người lao động còn thiếu nhiều kỹ năng cơ bản và kỹ năng chuyên môn để thích ứng tốt với công việc
Lực lượng lao động Việt Nam hiện nay còn chưa được trang bị các kỹ năng cần thiết trong quá trình tham gia thị trường việc làm, bao gồm cả các kỹ năng cơ bản và kỹ năng chuyên môn, dẫn đến tính năng động và thích ứng với công việc, nghề nghiệp của lực lượng lao động còn chưa cao. Trên 65% doanh nghiệp trong nước nhận định, đa số người lao động còn thiếu các kỹ năng chuyên môn kỹ thuật cần thiết khi bước vào công việc cụ thể(11). Tại Đại hội XIII, Đảng ta cũng nhận định: “Chất lượng nguồn nhân lực, nhất là nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng yêu cầu phát triển; còn nặng về lý thuyết, nhẹ về thực hành, chưa quan tâm đúng mức đến kỹ năng xã hội, kỹ năng sống và khả năng tự học, kỹ năng sáng tạo”(12).
Trong khi đó việc đẩy mạnh thực hiện CNH, HĐH của nước ta gắn liền với hội nhập quốc tế đòi hỏi người lao động cần có năng lực thích ứng và năng động trong công việc. Yêu cầu này đặt ra cho người lao động cần có sự định hướng đúng về nghề nghiệp hoặc có sự đào tạo bài bản khi tham gia bất cứ một công việc nào trên thị trường nghề nghiệp, việc làm. Đồng thời, điều này đòi hỏi việc đào tạo nghề nghiệp cho người lao động ở nước ta cần tính đến những yếu tố về sở thích, năng lực của bản thân người lao động cũng như hoàn cảnh các điều kiện của gia đình và nhu cầu của thị trường lao động.
Mặt khác, việc đào tạo nghề nghiệp cho người lao động cũng sẽ hình thành ở họ những kỹ năng như: nắm bắt thông tin thị trường; kỹ năng đàm phán, thỏa thuận; kỹ năng ứng phó với các rủi ro trong kinh tế thị trường… Qua đó xây dựng phẩm chất, bản lĩnh của người lao động phù hợp với sự biến động nhanh của các bối cảnh kinh tế cũng như những tác động của nền kinh tế thị trường.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Thứ nhất, xây dựng, triển khai các kế hoạch, chương trình nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước theo từng ngành, nghề, lĩnh vực, chú trọng tính chuyên nghiệp, kỹ năng thực hành của người lao động trong quá trình đào tạo. Việc xây dựng chiến lược phát triển nguồn nhân lực cần gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Xác định rõ các chủ thể và trách nhiệm trong việc xây dựng và phát triển nguồn nhân lực đất nước. Đồng thời cần khai thác, sử dụng nguồn nhân lực, tạo chuyển biến mạnh mẽ trong các ngành công nghiệp, xây dựng, nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao và các ngành dịch vụ.
Kế hoạch nâng cao chất lượng nguồn nhân lực cần xác định rõ các mục tiêu cụ thể trong việc gia tăng quy mô và chất lượng nguồn nhân lực đối với từng ngành, lĩnh vực, từ đó có kế hoạch và tổ chức triển khai các chương trình đào tạo nâng cao trình độ kiến thức, khoa học - công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong làm việc đối với từng đối tượng cụ thể. Người lao động cần có sức khỏe tốt, trình độ chuyên môn, năng lực, phẩm chất đạo đức tốt, có tinh thần, thái độ, động lực làm việc tốt cùng với công cụ lao động tốt, họ sẽ tạo ra sản phẩm, năng suất lao động cao.
Thứ hai, sử dụng hợp lý, hiệu quả nguồn nhân lực
Trong quá trình thực hiện CNH, HĐH, việc sử dụng hợp lý nguồn nhân lực không chỉ tạo ra sự hài hòa, cân đối trong cấu trúc các ngành nghề, lĩnh vực phát triển mà còn tạo động lực thúc đẩy phát triển nguồn nhân lực, lực lượng sản xuất của đất nước. Trong bối cảnh hiện nay, từ thực trạng nguồn lao động hiện tại, cần có sự đổi mới mạnh mẽ về quản lý nhà nước đối với phát triển nguồn nhân lực. Việc đổi mới cần tập trung hướng tới kiến tạo bộ máy quản lý hành chính nhà nước về phát triển nguồn nhân lực tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Theo đó, cần hình thành một cơ quan chịu trách nhiệm thu thập, xây dựng hệ thống thông tin về cung - cầu nhân lực trên địa bàn cả nước nhằm bảo đảm cân đối cung - cầu nhân lực cho các ngành, lĩnh vực cụ thể. Cùng với đó, cần đẩy mạnh cải cách chế độ công vụ công chức, qua đó nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức có đủ phẩm chất chính trị, đạo đức, trình độ, năng lực, kỹ năng đáp ứng yêu cầu.
Cần xây dựng đội ngũ chuyên gia giỏi, nhất là đội ngũ cán bộ, công chức tham mưu chiến lược, có chính sách phù hợp với đội ngũ chuyên gia nhằm thu hút người tài vào làm việc trong cơ quan của hệ thống chính trị, có chính sách thu hút cán bộ trẻ có trình độ học vấn cao, trình độ chuyên môn, kỹ thuật tốt về công tác tại các địa phương, khu vực cơ sở. Gắn chính sách tinh giản biên chế với việc thực hiện cải cách chính sách tiền lương, nâng cao thu nhập cho đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức.
Việc phân bố nguồn nhân lực hợp lý là cơ sở động lực trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm cân đối giữa các vùng, miền và xuất phát từ yêu cầu giữ vững ổn định chính trị, bảo đảm quốc phòng, an ninh đất nước. Do đó, cần tập trung chuyển dịch nguồn nhân lực trong các lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ và các khu vực trực tiếp sản xuất, đặc biệt ưu tiên đối với các ngành công nghiệp trọng yếu, các ngành công nghiệp mũi nhọn, tạo điều kiện phát triển chất lượng nguồn nhân lực bao gồm các nội dung về môi trường làm việc, chính sách việc làm, thu nhập, bảo hiểm, bảo trợ xã hội, các điều kiện về nhà ở và sinh hoạt hằng ngày cho người lao động tại khu vực sinh sống, định cư.
Quan tâm các chính sách đối với bộ phận nhân lực chất lượng cao. Tăng cường sự phối hợp giữa các cấp, các ngành, các chủ thể tham gia phát triển nhân lực bảo đảm việc sử dụng nguồn nhân lực theo đúng chuyên môn ngành nghề đã được đào tạo. Đồng thời, cần có cơ chế, chính sách để đánh giá, đãi ngộ nguồn nhân lực theo năng lực, kết quả công việc, thực tiễn kết quả sản xuất kinh doanh mà họ được phân công đảm nhiệm, phụ trách. Việc hình thành và phát triển thị trường lao động phải bảo đảm yêu cầu phát triển kinh tế nhằm tạo điều kiện vật chất cần thiết phục vụ cho nhu cầu phát triển của nhân lực. Đẩy mạnh và tạo cơ chế phù hợp để thu hút các nguồn vốn nước ngoài cho phát triển nhân lực Việt Nam. Có cơ chế thu hút đầu tư trực tiếp FDI của nước ngoài cho phát triển nhân lực. Xây dựng và vận hành hệ thống thông tin thị trường lao động, cơ sở dữ liệu quốc gia về thị trường lao động. Nâng cao năng lực dự báo, kế hoạch hóa nguồn nhân lực dựa trên các tín hiệu của thị trường lao động trong nước và thế giới để từ đó mở rộng các hình thức đào tạo nghề đối với công nghệ mới.
Thứ ba, đẩy mạnh đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực
Đổi mới hệ thống các trường đại học, cao đẳng và các cơ sở giáo dục đào tạo nghề theo hướng có sự liên thông, ứng dụng khoa học - công nghệ cũng như nâng cao năng lực, chất lượng giáo dục - đào tạo của các cơ sở đào tạo. Theo đó, cần đổi mới cơ chế quản lý của các trường theo hướng hiện đại, tinh gọn, hội nhập. Đặc biệt, đẩy mạnh phát triển các trường công lập, chuyển dần một số hình thức trường tư thục thành trường công lập, hạn chế các trường bán công. Cùng với đó, cần tăng cường hiện đại hóa các trường dạy nghề, ứng dụng khoa học, công nghệ, kỹ thuật hiện đại trong quá trình đào tạo nghề cho người lao động nhằm nâng cao chất lượng công nhân các ngành nghề được đào tạo theo hướng hiện đại, hội nhập.
Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp giáo dục, đào tạo ở các cấp học theo hướng tiệm cận với trình độ giáo dục của khu vực và thế giới. Việc đổi mới cần thực hiện theo hướng hiện đại, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, chuẩn hóa và hội nhập quốc tế, phù hợp với lứa tuổi, trình độ và ngành, nghề của người lao động. Đồng thời, phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của người học. Cùng với đó, cần từng bước chuẩn hóa về cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ giảng dạy và học tập ở các cấp, các loại hình, trường lớp, có sự ưu tiên đầu tư tăng cường phương tiện hiện đại cho công việc dạy và học. Phát huy vai trò của các thiết chế giáo dục: nhà trường, gia đình, xã hội trong phát triển giáo dục, qua đó xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh và toàn diện, hiện đại, bảo đảm công bằng cơ hội học tập với tất cả mọi người, tạo điều kiện để toàn xã hội học tập và học tập suốt đời, nhằm xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu của quá trình CNH, HĐH.
Chú trọng tăng cường nguồn lực cho phát triển giáo dục - đào tạo, đặc biệt là về cơ sở hạ tầng và con người. Theo đó, cần đẩy mạnh công tác xã hội hóa giáo dục, đào tạo, ngoài ngân sách nhà nước cần linh hoạt sử dụng, thu hút các nguồn viện trợ, tài trợ của nước ngoài để xây dựng cơ sở vật chất cho giáo dục, đồng thời phát huy vai trò chung tay phát triển giáo dục của các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp và doanh nghiệp.
Đối với đội ngũ giáo viên, cần có chiến lược đào tạo, bồi dưỡng theo hướng chuẩn hóa trình độ kiến thức, kỹ năng và các phẩm chất nghề nghiệp; đồng thời có chính sách, cơ chế nâng cao thu nhập, lương, thưởng cũng như địa vị xã hội, góp phần tạo động lực cho họ tâm huyết cống hiến với nghề nghiệp.
Quan tâm nâng cao chất lượng, hiệu quả nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào quá trình đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo giáo viên. Quan tâm, chú trọng xây dựng đội ngũ đủ về số lượng, đáp ứng yêu cầu về chất lượng, khơi dậy, phát huy ở họ tâm huyết phấn đấu cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo.
4. Kết luận
Để phát triển nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước, đòi hỏi sự thống nhất ý chí và hành động của các cấp lãnh đạo từ trung ương đến địa phương trong thực hiện đồng bộ các giải pháp trên. Trong đó, vai trò hoạch định đường lối, chính sách, chiến lược của những lãnh đạo Đảng, Nhà nước có tính chất quyết định. Bên cạnh đó là đòi hỏi trách nhiệm của các cấp lãnh đạo, quản lý, nhà trường, doanh nghiệp, gia đình cũng như của mỗi cá nhân trong quá trình triển khai tổ chức thực hiện. Tập trung mọi nguồn lực thực hiện tốt các giải pháp phát triển nguồn nhân lực sẽ góp phần khắc phục căn bản thực trạng thiếu hụt về số lượng, hạn chế về chất lượng, bất hợp lý về cơ cấu nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao ở Việt Nam hiện nay.
_________________
Ngày nhận bài: 19-6-2024; Ngày bình duyệt: 30 -6-2024; Ngày duyệt đăng: 13-8-2024.
(1), (2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 203 - 204, 232 - 233.
(3), (4) “Tình hình thị trường lao động Việt Nam năm 2023”, https://www.gso.gov.vn, đăng ngày 2-1-2024.
(5) “Thông cáo báo chí về tình hình dân số, lao động, việc làm quý IV và năm 2023”, https://www.gso.gov.vn, đăng ngày 29-12-2023
(6), (7) “Chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam”, https://www.mof.gov.vn, đăng ngày 28-10-2021
(8), (9) Tổng Cục thống kê: Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020.
(10) “Công nhân may mặc có nguy cơ thất nghiệp vì rôbốt”, https://tuoitre.vn, đăng ngày 7-8-2016.
(11) “Kỹ năng lao động của lực lượng lao động Việt Nam”, https://www.tuyengiao.vn, đăng ngày 14-11-2023.
(12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t. II, Sđd, tr. 70.