Đổi mới, nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới
(LLCT) - Thực hiện lời huấn thị của Chủ tịch Hồ Chí Minh, được sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng mà trực tiếp là Bộ Chính trị, Ban Bí thư, trải qua 75 năm phấn đấu xây dựng, trưởng thành, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh đã phát triển toàn diện, bền vững, có nhiều đóng góp to lớn, quan trọng đối với sự nghiệp cách mạng của Đảng và dân tộc. Trong đó, Học viện không ngừng đổi mới công tác nghiên cứu khoa học, khẳng định vai trò, vị thế và uy tín của trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý.
GS, TS LÊ VĂN LỢI
Phó Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Xuất phát từ nhận thức, phát triển khoa học - công nghệ có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Tiếp tục thực hiện nhất quán chủ trương khoa học và công nghệ là quốc sách hàng đầu, là động lực then chốt để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại”(1). Đảng ta yêu cầu phát triển đồng bộ, hài hòa khoa học tự nhiên, khoa học kỹ thuật và công nghệ, khoa học xã hội và nhân văn và khoa học lý luận chính trị. Trong đó, khoa học lý luận chính trị có vai trò rất quan trọng, nhất là trong việc cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định, hoàn thiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.
Trải qua 75 năm xây dựng và phát triển (1949- 2024), với những tên gọi khác nhau, Trường Đảng Nguyễn Ái Quốc, nay là Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, đã đào tạo hàng trăm nghìn lượt cán bộ trung, cao cấp của Đảng và hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương, có trình độ lý luận, năng lực tổ chức thực tiễn, có bản lĩnh và phẩm chất cần thiết, đáp ứng kịp thời và có hiệu quả mục tiêu, nhiệm vụ chiến lược của sự nghiệp cách mạng trong các thời kỳ lịch sử.
2. Thực trạng nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Trong quá trình phát triển, nhất là trong thời kỳ đổi mới, Học viện đặc biệt quan tâm công tác nghiên cứu khoa học. Cán bộ khoa học của Học viện tham gia tích cực vào việc nghiên cứu và giải quyết các vấn đề lý luận và thực tiễn, phục vụ công tác lãnh đạo, quản lý của Đảng và Nhà nước. Nghiên cứu khoa học tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh hướng đến mục tiêu phục vụ cho việc nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; đồng thời góp phần bảo vệ, bổ sung, phát triển chủ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Đây là cơ sở quan trọng để bảo đảm sự phát triển bền vững và lâu dài của đất nước. Học viện trở thành địa chỉ tin cậy, khẳng định vị thế là trung tâm quốc gia nghiên cứu lý luận chính trị và tư vấn chính sách cho Ðảng, Nhà nước; đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, phản động của các thế lực thù địch, góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Ðảng.
Trong 5 năm gần đây, công tác nghiên cứu khoa học của Học viện ngày càng mở rộng về quy mô. Trước đây, hàng năm, Học viện chỉ tiến hành hơn 100 nhiệm vụ khoa học, chủ yếu là nhiệm vụ cấp bộ và cấp cơ sở. Nhưng hiện nay, mỗi năm Học viện chủ trì khoảng 400 chương trình, đề án, dự án, đề tài khoa học các cấp; hàng trăm hội thảo, tọa đàm khoa học, khảo sát, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu biên soạn chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu chuyên đề… Trong đó, có những nhiệm vụ khoa học trọng điểm có quy mô lớn do Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ giao, như: Chủ trì thực hiện 9 đề tài khoa học thuộc Chương trình Khoa học và công nghệ trọng điểm cấp quốc gia “Nghiên cứu khoa học lý luận chính trị giai đoạn 2021-2025” (mã số KX.04/21-25); Chương trình khoa học - công nghệ đặc biệt cấp quốc gia “Nghiên cứu, vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh vào sự nghiệp xây dựng, phát triển đất nước và bảo vệ Tổ quốc thời kỳ đổi mới (giai đoạn 1986 đến nay, định hướng đến năm 2030 và tầm nhìn đến 2045” (Mã số: KX.02/21-25); Đề án khoa học cấp bộ trọng trọng điểm giai đoạn 2021-2025: “Nghiên cứu, tuyển chọn, xuất bản tuyển tập Hồ Chí Minh và biên dịch những tác phẩm tiêu biểu của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ tiếng Việt sang tiếng nước ngoài”; Đề án Chương trình cấp bộ trọng điểm: “Nghiên cứu, tổ chức biên soạn bộ sách phổ thông về tuyên truyền, phổ biến rộng rãi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối đổi mới đất nước”; Đề án “Đưa nội dung quyền con người vào chương trình giáo dục trong hệ thống giáo dục quốc dân”; Chương trình “Sưu tầm tài liệu, viết tiểu sử các cán bộ lãnh đạo tiền bối của Đảng và cách mạng Việt Nam”...
Hiện nay, mỗi năm Học viện chủ trì khoảng 400 chương trình, đề án, dự án, đề tài khoa học các cấp; hàng trăm hội thảo, tọa đàm khoa học, khảo sát, tổng kết thực tiễn, nghiên cứu biên soạn chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng, nghiên cứu chuyên đề… Trong đó, có những nhiệm vụ khoa học trọng điểm có quy mô lớn do Ban Bí thư, Thủ tướng Chính phủ giao
Chất lượng nghiên cứu khoa học được nâng cao, nhiều công trình khoa học có giá trị, có sức lan tỏa trong đời sống xã hội. Các đề tài khoa học do Học viện và các đơn vị trực thuộc chủ trì đều được Hội đồng nghiệm thu đánh giá có chất lượng cao. Hằng năm, Học viện có khoảng 2.500 công trình khoa học được xã hội hóa, gồm: sách tham khảo, chuyên khảo, các bài viết đăng trên tạp chí khoa học trong nước và tạp chí quốc tế uy tín. Ngoài ra, còn có hàng nghìn bài nghiên cứu của các cán bộ khoa học của Học viện phục vụ các đề án, dự án, chương trình, đề tài khoa học, tham gia các hội thảo khoa học quốc tế, cấp quốc gia, liên bộ và cấp bộ... Nhiều công trình khoa học do Học viện chủ trì hoặc tham gia được hội đồng nghiệm thu đánh giá xuất sắc, được xã hội hóa thành các sách chuyên khảo, sách nghiên cứu, tham khảo, gây tiếng vang trong hệ thống chính trị và đời sống xã hội.
Công tác nghiên cứu khoa học có nhiều đóng góp quan trọng vào việc bảo vệ, bổ sung, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện đã góp phần phát triển nhận thức lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam; bổ sung, hoàn thiện lý luận về đường lối đổi mới, trong đó có lý luận về xây dựng Ðảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; về công nghiệp hóa, hiện đại hóa, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, về xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN; về xây dựng nền dân chủ XHCN; xây dựng nền văn hóa mới và con người mới Việt Nam, về các vấn đề quản lý phát triển xã hội, bảo vệ môi trường; về đường lối đối ngoại, an ninh, quốc phòng của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng,...
Đồng thời, kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện đã góp phần cung cấp luận cứ khoa học cho công tác bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch. Đặc biệt, với sáng kiến của Học viện về tổ chức cuộc thi Chính luận bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đã thu hút hàng trăm nghìn lượt cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân tham gia, tạo sự lan tỏa rộng rãi và tích cực các nội dung bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong đời sống xã hội.
Kết quả nghiên cứu khoa học của Học viện đã đóng góp quan trọng vào việc đổi mới chương trình, nội dung, nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi bưỡng cán bộ và công tác giáo dục lý luận chính trị của cả nước. Học viện đã đầu tư, triển khai nghiên cứu xây dựng hệ thống chương trình, giáo trình, tập bài giảng cho các hệ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp và cán bộ khoa học lý luận chính trị của hệ thống chính trị cả nước và các chương trình, giáo trình đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ Đảng Nhân dân cách mạng Lào. Từ kết quả nghiên cứu khoa học, hình thành hệ dữ liệu khoa học, các tập bài giảng, tài liệu tham khảo, báo cao chuyên đề,… phục vụ trực tiếp cho công tác giảng dạy của giảng viên và học tập của học viên. Kết quả nghiên cứu khoa học cũng góp phần cung cấp luận cứ khoa học và các giải pháp đổi mới cơ chế quan lý đào tạo, đổi mới phương pháp dạy - học theo hướng tích cực, hiện đại.
Từ những kết quả nghiên cứu khoa học, Học viện đã góp phần cung cấp các luận cứ khoa học cho việc hoạch định, hoàn thiện đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước. Trong nhiều năm qua, các nhà khoa học của Học viện đã tích cực tham gia tư vấn, phản biện đối với công tác hoạch định đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước. Đặc biệt, những năm gần đây, Học viện chủ động triển khai xây dựng báo cáo kiến nghị cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư, các ban, bộ, ngành, địa phương. Từ năm 2021 đến nay, Học viện đã gửi 64 báo cáo kiến nghị phục vụ xây dựng dự thảo văn kiện các hội nghị Trung ương, dự thảo Văn kiện Đại hội XIV của Đảng; phục vụ công tác lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành của Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Quốc hội, Chính phủ, phục vụ triển khai có hiệu quả chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, được các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước ghi nhận, đánh giá cao.
Công tác nghiên cứu khoa học góp phần nâng cao trình độ, năng lực của đội ngũ cán bộ khoa học Học viện và cung cấp các luận cứ khoa học cho đổi mới toàn diện, đồng bộ các mặt công tác của Học viện. Với việc đổi mới cơ chế quản lý khoa học theo hướng mở rộng dân chủ, đẩy mạnh phân cấp, phân quyền đi đôi với coi trọng kiểm tra, đánh giá thực chất, Học viện đã thu hút đông đảo cán bộ khoa học ở trong và ngoài Học viện tham gia nghiên cứu khoa học.
Thông qua việc tham gia thực hiện các nhiệm vụ khoa học, trao đổi, chia sẻ giữa các thế hệ nhà khoa học ở trong và ngoài Học viện, trình độ đội ngũ cán bộ của Học viện không ngừng được nâng lên. Đội ngũ cán bộ khoa học trẻ của Học viện được giao thực hiện các đề tài, đề án, chương trình, dự án nghiên cứu nên đã trưởng thành nhanh chóng, vững vàng, tự tin trong thực hiện nhiệm vụ giảng dạy. Một số cán bộ khoa học đã trở thành chuyên gia có uy tín, có nhiều đóng góp cho sự nghiệp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và công tác tư tưởng, lý luận của Đảng.
Các đề tài, đề án khoa học về tổ chức - cán bộ, quản lý đào tạo, quản lý khoa học, hợp tác quốc tế,… được thực hiện đã xác lập những luận cứ khoa học cho việc tiến hành đổi mới toàn diện các mặt công tác của Học viện.
Đặc biệt, Học viện đã xây dựng và công bố, trao Giải thưởng “Nghiên cứu lý luận chính trị” để động viên, khích lệ và tôn vinh các nhà khoa học xuất sắc, tiêu biểu đã có nhiều đóng góp trong công tác nghiên cứu lý luận chính trị, góp phần tham mưu, tư vấn có hiệu quả cho Đảng, Nhà nước về đường lối, chủ trương, chính sách xây dựng, phát triển đất nước. Việc tổ chức Giải thưởng là hoạt động thiết thực để các nhà nghiên cứu, nhà khoa học trong cả nước nỗ lực cống hiến hơn nữa tâm sức, trí tuệ trong sự nghiệp nghiên cứu lý luận chính trị của Đảng, góp phần khẳng định và nâng cao vị thế và uy tín của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
Những đổi mới trong quản lý và tổ chức hoạt động khoa học đã tạo điều kiện để phát triển công tác nghiên cứu khoa học lên tầm cao mới. Học viện đã sửa đổi và từng bước hoàn thiện thể chế quản lý khoa học, từng bước đưa công tác nghiên cứu khoa học đi vào nền nếp, chuyên nghiệp hóa, có hiệu quả và chất lượng ngày càng được nâng cao. Học viện đã xây dựng Chiến lược hoạt động khoa học, Quy chế quản lý khoa học, các quy chế tuyển thầu, quy chế tuyển chọn nhiệm vụ khoa học, quy định về quy trình, cách thức triển khai các nhiệm vụ khoa học, quy chế chi tiêu kinh phí khoa học và bộ biểu mẫu về công tác khoa học.
Các khâu trong quy trình quản lý khoa học của Học viện đều có sự đổi mới theo hướng bảo đảm sự quản lý chặt chẽ và môi trường dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động nghiên cứu, sáng tạo. Trong xây dựng, xác định hướng nghiên cứu, đã có sự kết hợp tốt hơn giữa đề xuất nhiệm vụ của đơn vị chủ trì với định hướng mục tiêu của Học viện. Việc tuyển chọn được tiến hành chặt chẽ, dựa trên các tiêu chí, thang bảng chấm điểm luận chứng đề tài, làm cho công tác tuyển chọn có căn cứ khách quan hơn. Việc nghiệm thu được thực hiện theo quy trình chặt chẽ, quy định cụ thể tiêu chí đánh giá xếp loại đề tài, yêu cầu về việc xã hội hóa sản phẩm nghiên cứu.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác nghiên cứu khoa học của Học viện cũng còn những hạn chế, bất cập. Hoạt động nghiên cứu khoa học vẫn còn có sự dàn trải và phân tán. Sự kết hợp giữa hoạt động nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và các hoạt động khác chưa chặt chẽ, thể hiện trong xây dựng kế hoạch, bố trí nguồn nhân lực và thời gian. Chưa hình hành được nhiều nhóm nghiên cứu mạnh liên ngành và kết nối giữa các đơn vị ở Trung tâm Học viện với các Học viện trực thuộc và các trường chính trị. Chưa phát huy tinh thần chủ động, tích cực trong khai thác các nguồn kinh phí nghiên cứu khoa học ngoài ngân sách nhà nước. Hạn chế lớn nhất và cũng là điều trăn trở của lãnh đạo và nhiều cán bộ, giảng viên Học viện là: Chất lượng nghiên cứu khoa học của các đơn vị chưa đồng đều, một số đề tài khoa học chất lượng chưa tốt; kết quả nghiên cứu khoa học chưa tương xứng với tiềm năng, vị thế, vai trò của Học viện, chưa đáp ứng thật tốt yêu cầu đổi mới tư duy, phát triển lý luận chính trị trong giai đoạn mới, thể hiện rõ nhất là trong nhiều năm, Học viện chưa có nhiều công trình khoa học lớn, tiêu biểu ở tầm quốc gia và khu vực, số bài đăng trên tạp chí khoa học quốc tế uy tín còn ít.
Những hạn chế, bất cập nêu trên của công tác nghiên cứu khoa học của Học viện xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó có một số nguyên nhân chủ yếu sau:
Thứ nhất, mặc dù đã có nhiều thay đổi trong nhận thức nhưng thực tế cho thấy cấp ủy, lãnh đạo một số đơn vị khoa học chưa xác định đúng tầm quan trọng và vị trí của nghiên cứu khoa học. Lãnh đạo một số đơn vị ứng xử chưa đúng mức giữa hai nhiệm vụ giảng dạy và nghiên cứu, tập trung vào việc tổ chức lớp, bố trí giảng viên giảng dạy mà chưa thật coi trọng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học và nghiên cứu khoa học. Thủ trưởng một số đơn vị chỉ tập trung công tác giảng dạy, xem nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ thứ yếu. Bản thân một số giảng viên có tâm lý thích lên lớp giảng bài hơn là nghiên cứu khoa học.
Thứ hai, đội ngũ các nhà khoa học có chức danh Giáo sư, Phó Giáo sư, học vị tiến sĩ, chuyên gia đầu ngành ngày càng giảm, đội ngũ kế cận còn mỏng. Công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học tuy đã được quan tâm, nhưng vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu chiến lược lâu dài. Năng lực của cán bộ nghiên cứu, quản lý khoa học, nhất là năng lực sử dụng ngoại ngữ, công nghệ thông tin và sử dụng các phương pháp nghiên cứu hiện đại còn hạn chế. Chưa khắc phục được tình trạng hẫng hụt cán bộ khoa học, nhất là những chuyên gia giỏi, đầu đàn làm nòng cốt trong nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, công tác quản lý khoa học tuy đã có những đổi mới, nhưng vẫn còn nhiều hạn chế, thiếu tính chuyên nghiệp, kể từ công tác lập kế hoạch đến quản lý, điều hành. Chưa có cơ chế thích hợp về lợi ích và trách nhiệm của các nhà khoa học; cơ chế tạo động lực và khơi dậy sức sáng tạo trong trong hoạt động nghiên cứu khoa học chưa thật mạnh mẽ, hiệu quả. Cơ chế quản lý tài chính đối với các nhiệm vụ khoa học còn phức tạp, chậm sửa đổi, bổ sung để tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động khoa học.
Thứ tư, nguồn lực tài chính cho khoa học chủ yếu là từ ngân sách nhà nước; nhiều đơn vị khoa học chưa tích cực, chủ động khai thác các nguồn lực ngoài ngân sách để triển khai nghiên cứu khoa học.
3. Giải pháp nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh thời gian tới
Theo dự báo, trong thời gian tới, cách mạng Việt Nam đứng trước nhiều thuận lợi và khó khăn, thách thức đan xen. Trong đó, nổi lên là những thách thức từ toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng; sự cạnh tranh giữa các nước lớn, sự tranh chấp, xung đột sắc tộc, tôn giáo; sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc cực đoan, chủ nghĩa cường quyền nước lớn; sự phát triển nhanh chóng của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, nhất là sự phát triển của công nghệ số; các vấn đề toàn cầu; các thách thức an ninh phi truyền thống,...
Ở trong nước, sau gần 40 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lích sử, “chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”. Những thành tựu đó tạo nền tảng vững chắc để đất nước ta “tiến vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc” (2). Tuy nhiên, quá trình phát triển đất nước cũng còn những hạn chế, khó khăn, thách thức. Nền kinh tế phát triển chưa thật bền vững; năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế chưa cao, xu hướng già hóa dân số tăng nhanh, cùng với tác động của khủng hoảng kinh tế toàn cầu, dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu diễn biến phức tạp, khó lường là những khó khăn, thách thức không nhỏ sẽ tác động mạnh, ảnh hưởng tiêu cực đến sự phát triển đất nước.
Những thách thức trên diễn ra trong bối cảnh chúng ta tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới đất nước đã và đang đặt ra nhiều vấn đề rất mới, đòi hỏi phải được nhận thức và giải quyết một cách kịp thời, đúng đắn trên nền tảng kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đại hội XIII nhận định: “Công cuộc đổi mới tiếp tục đặt ra nhiều vấn đề về lý luận và thực tiễn cần phải tập trung giải quyết để đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững hơn theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nhất là việc nhận thức, giải quyết đúng, hiệu quả các mối quan hệ lớn”(3). Do đó, việc đẩy mạnh tổng kết thực tiễn, phát triển lý luận để giải quyết thấu đáo vấn đề đặt ra và định hướng cho sự phát triển đất nước trong thời gian tới là nhiệm vụ hết sức quan trọng, cần thiết.
Trong bối cảnh thực tiễn vận động, phát triển rất nhanh, công tác nghiên cứu lý luận chính trị không chỉ phải “đi cùng thực hiện, đi sau tổng kết” mà điều quan trọng là phải “đi trước mở đường”, dẫn dắt cho công cuộc đổi mới tiến lên, với tầm nhìn: “đến năm 2030, trên cơ sở tổng kết 40 năm thực hiện Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, tổng kết 100 năm Đảng lãnh đạo cách mạng Việt Nam, có thể bổ sung, phát triển Cương lĩnh, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới; bổ sung, làm phong phú và tiến thêm một bước để hoàn thiện hơn nền tảng tư tưởng của Đảng; và đến năm 2045, khi nước ta trở thành nước phát triển, có thu nhập cao thì chúng ta sẽ có một hệ thống lý luận hoàn chỉnh, khoa học và hiện đại về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam”(4).
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh là trung tâm quốc gia nghiên cứu khoa học lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, nghiên cứu đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước, khoa học chính trị, khoa học lãnh đạo, quản lý, có sứ mệnh và trọng trách to lớn trong việc phát triển, hoàn thiện lý luận của Đảng trong bối cảnh mới. Để thực hiện được vai trò, sứ mệnh của mình, trên cơ sở nắm vững định hướng trọng tâm, chiến lược của Đảng về phát triển khoa học lý luận chính trị, Học viện cần có những giải pháp đột phá để nâng cao chất lượng công tác nghiên cứu khoa học, trong đó tập trung vào một số vấn đề sau đây:
Một là, cần quán triệt nhận thức sâu sắc về chức năng, nhiệm vụ của Học viện là trung tâm quốc gia về nghiên cứu khoa học lý luận chính trị và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo, quản lý trung, cao cấp của Đảng và Nhà nước. Từ đó có quan điểm và ứng xử thích hợp đối với hoạt động nghiên cứu khoa học, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nghiên cứu khoa học và đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Cần làm cho đội ngũ cán bộ khoa học Học viện nhận thức rõ, nghiên cứu khoa học là chức năng thể hiện bản sắc trường Đảng, không chỉ là một trong những nhân tố quan trọng, quyết định chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, mà còn thực hiện sứ mệnh to lớn và hết sức vẻ vang của Học viện là góp phần bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, cung cấp luận cứ khoa học cho công tác hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách phát triển đất nước.
Hai là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy, Ban Giám đốc, cấp ủy và lãnh đạo các đơn vị trực thuộc đối với công tác nghiên cứu khoa học. Ngày 11-7-2024 vừa qua, Đảng ủy Học viện đã ban hành Nghị quyết 44-NQ/ĐU về tăng cường công tác nghiên cứu khoa học, tham mưu tư vấn chính sách cho Đảng và Nhà nước trong tình hình mới, trong đó đã nêu rõ quan điểm, nhiệm vụ và những giải pháp chủ yếu để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nghiên cứu khoa học.
Các cấp ủy và lãnh đạo các đơn vị cần quán triệt và xây dựng kế hoạch cụ thể để triển khai thực hiện. Trong đó, chú ý việc xác định định hướng trọng tâm nghiên cứu; lãnh đạo thực hiện đầy đủ các khâu từ xây dựng kế hoạch, xác định nhiệm vụ, tổ chức tuyển chọn, tổ chức thực hiện, tổ chức đánh giá, nghiệm thu; tập trung xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và xây dựng nhóm nghiên cứu mạnh.
Ba là, tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học, huy động và phát huy tối đa tiềm năng các nguồn nhân lực khoa học trong hoạt động nghiên cứu. Trước hết, cùng với việc xây dựng, trình Bộ Chính trị ban hành Chiến lược phát triển Học viện, cần rà soát, đánh giá đội ngũ cán bộ khoa học trong toàn Học viện. Trên cơ sở đó, tiến hành xây dựng quy hoạch phát triển đội ngũ cán bộ khoa học của Học viện và từng đơn vị trực thuộc. Có kế hoạch điều động, sắp xếp cán bộ khoa học theo đúng chuyên ngành, kiên quyết bố trí công tác khác đối với những cán bộ khoa học không có khả năng nghiên cứu, giảng dạy.
Xây dựng quy trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ khoa học trẻ theo hướng gắn kết giữa đào tạo lý luận với rèn luyện trong thực tế. Đổi mới căn bản hình thức và phương pháp đi nghiên cứu thực tế của cán bộ khoa học theo hướng mỗi cán bộ trong thời gian giữ ngạch (giảng viên, giảng viên chính, giảng viên cao cấp) phải đi thực tế với thời gian thích hợp và giao đề tài nghiên cứu gắn với hoạt động thực tế chuyên môn, tổng kết thực tiễn. Yêu cầu báo cáo kết quả thực tế bằng các kiến nghị có chất lượng.
Đồng thời, xây dựng kế hoạch và có chính sách để đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học đầu ngành, để đội ngũ này đảm đương được nhiệm vụ chủ trì quy tụ các cán bộ trẻ thực hiện các nhiệm vụ khoa học lớn.
Cùng với việc chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ, cần có biện pháp để huy động được tối đa nguồn nhân lực hiện có vào công tác nghiên cứu khoa học. Trong đó, cần tập hợp, tuyển chọn các cán bộ khoa học trình độ chuyên môn cao, có uy tín, năng lực nghiên cứu và có đam mê, nhiệt huyết trong nghiên cứu khoa học và sáng tạo tri thức mới về khoa học lý luận chính trị để hình thành các nhóm nghiên cứu mạnh.
Bên cạnh sử dụng đội ngũ cán bộ khoa học cơ hữu hiện có, cần có cơ chế để huy động các nguồn nhân lực sau: những Giáo sư, Phó Giáo sư đã nghỉ hưu của Học viện; học viên các hệ lớp, nhất là các học viên cao học, nghiên cứu sinh; các cán bộ lãnh đạo, quản lý trong hệ thống chính trị; các nhà khoa học có uy tín ở các cơ quan, đơn vị nghiên cứu, giảng dạy trong và ngoài nước.
Bốn là, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ cơ chế quản lý khoa học để tạo động lực, môi trường thuận lợi cho các hoạt động khoa học. Để thúc đẩy hoạt động khoa học, cần tiếp tục đổi mới hơn nữa, trước hết cần tập trung chỉnh sửa quy chế hoạt động khoa học cho phù hợp với sự thay đổi của tình hình thực tế, tạo môi trường để thực hành phát huy dân chủ, tôn trọng và phát huy tự do tư tưởng, nâng cao tính chủ động, sáng tạo, say mê nghiên cứu của các nhà khoa học.
Phát huy hơn nữa vai trò tư vấn của các hội đồng khoa học, nhất là hội đồng khoa học cơ sở. Hoàn thiện hệ thống biểu mẫu phù hợp, đồng bộ, khoa học đối với tất cả các khâu trong quản lý và thực hiện nhiệm vụ khoa học. Xây dựng hệ thống dữ liệu, hồ sơ khoa học của các chuyên gia để mời đánh giá kết quả thực hiện các nhiệm vụ. Để các quy chế, quy định phát huy hiệu quả, cần tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của các đơn vị chức năng, công khai hóa quá trình thực hiện của các tổ chức, cá nhân trong Học viện, kịp thời xử lý nghiêm những cá nhân, đơn vị chủ trì nhiệm vụ khoa học chậm tiến độ, triển khai không tuân thủ các quy định của Nhà nước và Học viện. Qua đó, tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong hoạt động quản lý nghiên cứu khoa học.
Cùng với đổi mới cơ chế quản lý, cần đổi mới cách thức, quy trình lựa chọn nhiệm vụ khoa học. Trước hết, mục tiêu nghiên cứu cần phù hợp chức năng, nhiệm vụ của Học viện, bám sát chương trình công tác của Trung ương Đảng và nhu cầu của ban, bộ, ngành, địa phương. Hiện nay, việc lựa chọn nhiệm vụ khoa học còn mang nặng tính chủ quan. Để khắc phục điều này, ngoài việc tập hợp nhu cầu của các đơn vị để cơ quan quản lý chọn lựa, cần có cơ chế thu nhận ý tưởng nghiên cứu từ nhiều nguồn, cả từ cán bộ khoa học, từ học viên, đồng thời chủ động khảo sát, nắm bắt nhu cầu của các ban, bộ, ngành, địa phương về các vấn đề cần nghiên cứu.
Năm là, nâng cao tính ứng dụng các kết quả hoạt động khoa học. Trong một số diễn đàn, một số ý kiến cho rằng, khoa học lý luận chính trị, ngoài việc tự bồi dưỡng kiến thức bản thân người nghiên cứu, rất khó đánh giá kết quả ứng dụng. Song, chúng ta hoàn toàn có thể và cần thiết phải xác định khả năng và hiệu quả ứng dụng của các sản phẩm nghiên cứu. Muốn vậy, cần định rõ yêu cầu đối với từng loại sản phẩm khoa học. Đối với nghiên cứu cơ bản về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các vấn đề cơ bản của khoa học chính trị, các sản phẩm nghiên cứu yêu cầu phải được xã hội hóa để lan tỏa tri thức khoa học và tham gia vào bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng. Nghiên cứu ứng dụng vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Học viện phải được cụ thể hóa thành các chương trình, giáo trình, tập bài giảng, các tài liệu tham khảo cho giảng viên và học viên. Nghiên cứu tư vấn chính sách phải được thể hiện bằng các kiến nghị cho các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước. Nghiên cứu về những vấn đề đặt ra từ thực tiễn của công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế phải có địa chỉ ứng dụng cụ thể. Cần tập trung xây dựng hệ tiêu chí ứng dụng đối với từng loại hình nhiệm vụ khoa học để có cơ sở đánh giá kết quả thực hiện.
Sáu là, tăng cường hơn nữa quan hệ phối hợp với các ban, bộ, ngành Trung ương, các địa phương và các đối tác nước ngoài. Trong thời gian qua, Học viện đã ký thỏa thuận hợp tác trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ và nghiên cứu khoa học với một số cơ quan, đơn vị, như: Bộ Khoa học và Công nghệ, Ủy ban Dân tộc, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam, Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel), Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam, vv.. Trong thời gian tới, cần chủ động liên hệ, ký kết các văn bản thỏa thuận hợp tác, chương trình phối hợp công tác với một số ban, bộ, ngành và địa phương nhằm huy động được nhiều nguồn lực cho công tác nghiên cứu khoa học, đồng thời, giúp cho công tác nghiên cứu khoa học của Học viện gắn với thực tiễn sôi động.
Cần tăng cường hợp tác quốc tế theo hướng mở rộng hợp tác nhưng có chọn lọc, bảo đảm phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Học viện cũng như thiết thực góp phần đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ khoa học Học viện. Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới phương thức hợp tác, theo hướng chủ động cả về chủ đề, nội dung, nguồn nhân lực khoa học tham gia, để hợp tác quốc tế thật sự đi vào chiều sâu, phục vụ trực tiếp cho nhiệm vụ nghiên cứu, phát triển lý luận chính trị và nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ của Học viện.
Bảy là, tăng cường khai thác các nguồn kinh phí và sử dụng kinh phí khoa học đúng mục đích, đúng pháp luật và có hiệu quả. Cùng với kinh phí sự nghiệp khoa học được giao hàng năm, cần tích cực khai thác các nguồn kinh phí khác thông qua đấu thầu các đề tài, dự án quốc gia, tranh thủ sự hỗ trợ của các quỹ, chủ động tìm kiếm, chắp nối các hoạt động hợp tác nghiên cứu với các ban, bộ, ngành, địa phương và các tổ chức quốc tế. Để việc sử dụng kinh phí có hiệu quả, cùng với việc công khai hóa việc phân bổ kinh phí, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan chức năng với nhau và với các đơn vị chủ trì nhiệm vụ khoa học trong công tác kiểm tra, giám sát.
Tám là, đẩy mạnh chuyển đổi số trong hoạt động nghiên cứu khoa học, xây dựng và sử dụng hiệu quả hệ thống dữ liệu thông tin khoa học. Thực hiện chuyển đổi số hoạt động khoa học trước hết cần thường xuyên cập nhật kiến thức về chuyển đổi số để nâng cao khả năng của các nhà quản lý, nhà khoa học trong môi trường số. Theo đó, các cơ quan quản lý khoa học phối hợp với đơn vị ứng dụng công nghệ thông tin và các đơn vị khoa học tăng cường thực hiện số hóa quy trình quản lý hoạt động nghiên cứu khoa học gắn với quá trình hoàn thành phần mềm quản lý trong dự án quản trị Học viện thông minh. Cơ quan quản lý khoa học phối hợp đơn vị thông tin khoa học và các đơn vị có liên quan xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu phục vụ nghiên cứu đồng bộ, cập nhật, khai thác, sử dụng thuận lợi; tăng cường tính minh bạch, công khai kết quả nghiên cứu. Đặc biệt chú ý nâng cao chất lượng, hiệu quả khai thác, chia sẻ dữ liệu thông tin phục vụ nghiên cứu khoa học.
_________________
Ngày nhận bài: 26-8-2024; Ngày bình duyệt: 28-8-2024; Ngày duyệt đăng: 5-9-2024.
(1), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 140, 103.
(2) Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm tại Lễ kỷ niệm Quốc khánh 2/9/1945 - 2/9/2024, https://xaydungchinhsach.chinhphu.vn, ngày 1-9-2024.
(4) Toàn văn bài phát biểu của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng tại Hội đồng Lý luận Trung ương, https://www.vietnamplus.vn, ngày 17-4-2021.