Các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
(LLCT) - Hồ Chí Minh rất thành công trong việc kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào hoàn cảnh Việt Nam. Trong công cuộc đổi mới, Đảng ta khẳng định, lấy chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Tình hình thế giới và đất nước hiện nay, đang đặt ra nhiều vấn đề mới, đòi hỏi được giải quyết về mặt lý luận để thúc đẩy công cuộc đổi mới phát triển. Vì vậy, cần quán triệt các quan điểm cơ bản trong nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh.
PGS, TS BÙI ĐÌNH PHONG
1. Đặt vấn đề
Tư tưởng Hồ Chí Minh là kết quả của sự kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị truyền thống của dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại; là tài sản tinh thần vô cùng to lớn và quý giá của Đảng và dân tộc ta, để lại dấu ấn trong quá trình phát triển của nhân loại vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ, tiến bộ và phát triển, mãi mãi soi đường cho sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta giành thắng lợi.
Đại hội VII của Đảng khẳng định, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động của Đảng và cách mạng Việt Nam. Từ đó, là quá trình Đảng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người. Học và làm theo phong cách Hồ Chí Minh về kiên định và vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, chúng ta cần quán triệt các quan điểm này trong tình hình hiện nay.
2. Nghiên cứu toàn diện, hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh thường nhắc nhở, trong công cuộc kiến thiết nước nhà có bốn vấn đề cùng phải chú ý đến, cùng phải coi là quan trọng ngang nhau là chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa. Người lại nói: “Bất kỳ ở từng lớp nào, giữ địa vị nào, làm nghề nghiệp gì, sự hoạt động của một người trong xã hội có thể chia làm 3 mặt: 1. Mình đối với mình. 2. Mình đối với người. 3. Mình đối với công việc”(1). Điều đó có nghĩa là, trong khi xem xét và giải quyết các vấn đề của đất nước, của cách mạng phải chú ý một cách toàn diện các mặt.
Trong xem xét, đánh giá sự vật, hiện tượng, xã hội hay con người, Hồ Chí Minh chỉ dẫn phải xem xét một cách “hoàn toàn”, toàn diện: quá khứ, hiện tại, tương lai; truyền thống và cách mạng; dân tộc - giai cấp - nhân loại; dân tộc và quốc tế; cá nhân - cộng đồng; công dân, cán bộ, đảng viên, người lãnh đạo; thời - thế - lực; thiên thời - địa lợi - nhân hòa; đức và tài; tình cảm và lý trí; nhận thức và hành động; lý luận và thực tiễn; nói và làm; học và hành; một việc và nhiều việc; bên trong và bên ngoài; v.v.. Ngay trong lĩnh vực đạo đức, Người cũng nhắc nhở phải xem xét cả cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư về tất cả các phương diện ý thức đạo đức, hành vi đạo đức và quan hệ đạo đức, v.v..
Tính toàn diện và hệ thống của tư tưởng Hồ Chí Minh còn được nhìn nhận ở suy nghĩ về sự ham muốn tột bậc của Người, “làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”(2). Điều mong muốn cuối cùng của Người là “xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, và góp phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới”(3).
Cùng với thời gian và những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới, chúng ta có bước phát triển quan trọng trong nhận thức về tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư tưởng của Người không chỉ “là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam”(4), mà còn “góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin trên nhiều vấn đề quan trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc”(5). Đánh giá công lao to lớn của Người, Đảng ta khẳng định: “Người để lại cho chúng ta một di sản vô cùng quý báu. Đó là thời đại HỒ CHÍ MINH, thời đại rực rỡ nhất trong lịch sử quang vinh của dân tộc. Đó là kỷ nguyên độc lập, tự do của Tổ quốc, kỷ nguyên chủ nghĩa xã hội ở nước ta”(6).
Diễn văn tại Lễ kỷ niệm 130 năm Ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh (19-5-1890 - 19-5-2020), ngày 18-5-2020, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Tư tưởng Hồ Chí Minh và sự nghiệp cách mạng vô cùng phong phú, vĩ đại của Người không những là tài sản vô giá của dân tộc Việt Nam, nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam của cách mạng Việt Nam mà còn là đóng góp quý báu của Người vào sự nghiệp cách mạng của các dân tộc bị áp bức trên thế giới, vào sự phát triển những tinh hoa tư tưởng và văn hóa nhân loại”(7).
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ phản ánh quy luật của cách mạng Việt Nam, từ một nước thuộc địa đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân đi tới CNXH, mà Người còn là một “biểu tượng kiệt xuất về quyết tâm của cả một dân tộc, đã cống hiến trọn đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, góp phần vào cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội”(8). Chủ tịch Hồ Chí Minh “sẽ được ghi nhớ không phải chỉ là người giải phóng cho Tổ quốc và nhân dân bị đô hộ, mà còn là một nhà hiền triết hiện đại đã mang lại một viễn cảnh và hy vọng mới cho những người đang đấu tranh không khoan nhượng để loại bỏ bất công, bất bình đẳng khỏi trái đất này”(9).
Với chính cuộc đời, sự nghiệp, tư tưởng Hồ Chí Minh và những ghi nhận, đánh giá nêu trên, hiện nay nghiên cứu Hồ Chí Minh phải quán triệt quan điểm toàn diện và hệ thống với cốt lõi Độc lập - Tự do - Hạnh phúc, độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, tránh nghiên cứu chủ quan, phiến diện, một chiều. Tách độc lập với tự do, hạnh phúc là không hiểu đúng tư tưởng Hồ Chí Minh, tách độc lập dân tộc với CNXH, dân tộc với nhân loại là xa rời tư tưởng Hồ Chí Minh, tách một yếu tố, một quan điểm nào đó khỏi hệ thống sẽ hiểu sai tư tưởng Hồ Chí Minh.
3. Quan điểm lý luận gắn liền với thực tiễn
Hồ Chí Minh chỉ rõ, “thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin”(10), trở thành phương châm hoạt động của Đảng. Theo Người, “phương châm của Đảng là: Lý luận Mác - Lênin thống nhất với thực tiễn cách mạng Việt Nam”(11). “Nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin ở Việt Nam là nói đến chủ trương, chính sách của Đảng”(12).
Quán triệt lời dạy của V.I.Lênin “lý luận cách mạng không phải là giáo điều, nó là kim chỉ nam cho hành động cách mạng; và lý luận không phải là một cái gì cứng nhắc, nó đầy tính chất sáng tạo; lý luận luôn luôn cần được bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động, những người cộng sản các nước phải cụ thể hóa chủ nghĩa Mác - Lênin cho thích hợp với điều kiện hoàn cảnh từng lúc và từng nơi”(13), Hồ Chí Minh chỉ ra rằng “nói chung thì loài người phát triển theo quy luật nhất định như vậy. Nhưng tùy hoàn cảnh, mà các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau”(14).
Khi nói về học tập lý luận, Người chỉ rõ: “Phải nêu cao tác phong độc lập suy nghĩ và tự do tư tưởng. Đọc tài liệu thì phải đào sâu hiểu kỹ, không tin một cách mù quáng từng câu một trong sách, có vấn đề chưa thông suốt thì mạnh dạn đề ra và thảo luận cho vỡ lẽ. Đối với bất cứ vấn đề gì đều phải đặt câu hỏi “vì sao?”, đều phải suy nghĩ kỹ càng xem nó có hợp với thực tế không, có thật là đúng lý không, tuyệt đối không nên nhắm mắt tuân theo sách vở một cách xuôi chiều. Phải suy nghĩ chín chắn”(15).
Nói đến CNXH khoa học, nhận thức và cải tạo thế giới để thực hiện giải phóng con người, giải phóng nhân loại, mang lại hạnh phúc, tự do thật sự cho nhân dân là nói đến chủ nghĩa Mác - Lênin. Nhưng tùy hoàn cảnh từng dân tộc mà học và làm theo chủ nghĩa Mác - Lênin có khác nhau. Với dân tộc Việt Nam, “học chủ nghĩa Mác - Lênin không phải nhắc như con vẹt “Vô sản thế giới liên hiệp lại” mà phải thống nhất chủ nghĩa Mác - Lênin với thực tiễn Việt Nam… Mác - Lênin dạy cho người ta biết giác ngộ, giáo dục quần chúng để lãnh đạo quần chúng đấu tranh quyền lợi thiết thực hằng ngày. Chủ nghĩa Mác - Lênin không phải ở đâu người ta cũng làm cộng sản, cũng làm Xôviết”(16).
Lý luận gắn liền với thực tiễn tức là trong lúc học lý luận, phải nghiên cứu công việc thực tế để có kinh nghiệm từ thực tế. Như vậy, mới tìm ra phương hướng chính trị đúng để làm tốt công việc, đó mới là lý luận thiết thực, có ích, nếu không như thế là lý luận suông, vô ích, ví dụ: “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình thế nào để làm cho đúng”(17).
Thực tiễn cần được hiểu cả ở Việt Nam và thế giới, cả thực tế công tác và tư tưởng của cá nhân; là những vấn đề cách mạng đặt ra phải giải quyết, là mâu thuẫn của sự vật, là kinh nghiệm lịch sử của Đảng, v.v.. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Chúng ta làm cách mạng nhằm mục đích cải tạo thế giới, cải tạo xã hội. Muốn cải tạo thế giới và cải tạo xã hội thì trước hết phải tự cải tạo bản thân chúng ta. Do đó, cho nên trước hết là phải liên hệ lý luận với thực tế công tác và tư tưởng của mình, để tự cải tạo mình, nâng cao sự tu dưỡng của mình về lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin”(18).
Thực tiễn còn một vấn đề rất quan trọng khác đó là tâm tư, nguyện vọng và đòi hỏi của các tầng lớp nhân dân. Đồng chí Phạm Văn Đồng từng nói: “Thoát ly thực tiễn, thoát ly cuộc sống, thoát ly xu thế đổi mới của nước ta và diễn biến của thời đại, nhất là thoát ly tâm tư, nguyện vọng và đòi hỏi của người dân, thì lý luận chỉ là không tưởng”(19).
Đại hội XIII của Đảng nêu dự báo tình hình thế giới và đất nước những năm sắp tới “có cả thuận lợi, thời cơ và khó khăn, thách thức đan xen, đặt ra nhiều vấn đề mới, yêu cầu mới, nặng nề, phức tạp hơn đối với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đòi hỏi toàn Đảng phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy”(20). Vì vậy, để bảo vệ thành quả cách mạng đã đạt được, đưa đất nước tiến lên, phát triển nhanh và bền vững cần tiến hành đồng bộ nhiều giải pháp; trong đó, hàng đầu, xuyên suốt và nhất quán là phải nhận thức sâu sắc, đẩy đủ tư tưởng Hồ Chí Minh, là “cẩm nang thần kỳ”, kim chỉ nam, mặt trời soi sáng con đường XHCN ở Việt Nam. Phải gắn liền tư tưởng của Người với hoàn cảnh mới để giải quyết những vấn đề do thực tiễn đặt ra.
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn gắn liền với thống nhất bản chất khoa học với bản chất cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Bản chất khoa học vì tư tưởng Hồ Chí Minh thuộc hệ tư tưởng, lý luận Mác - Lênin, mà lý luận Mác - Lênin là “Khoa học về các quy luật phát triển của tự nhiên và xã hội; khoa học về cách mạng của quần chúng bị áp bức và bóc lột”(21). Khoa học còn là việc trình bày, phân tích đúng những sự kiện lịch sử, không được “tô hồng”, “bôi đen” hay “phóng đại lịch sử”. Bản chất cách mạng là nói đến “phá cái cũ đổi ra cái mới, phá cái xấu đổi ra cái tốt”(22). Đó là cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc đi tới CNXH; đấu tranh trừ bỏ chủ nghĩa cá nhân, cản lực trên con đường đi tới thắng lợi của CNXH. Như vậy, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh là phải dùng hệ quan điểm, đặc biệt là phương pháp biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác - Lênin soi đường thì mới đi tới được cái mới, cái tốt, cái thành công của công cuộc đổi mới.
Cùng với phương châm lý luận thống nhất với thực tiễn, cần nắm vững quan điểm thực tiễn để giải đáp những vấn đề do thực tiễn công cuộc đổi mới đặt ra hiện nay. Cách mạng giải phóng dân tộc và bước đầu xây dựng CNXH giành được thắng lợi do nhiều nhân tố, trong đó cần phải nhấn mạnh rằng, Hồ Chí Minh đã nắm vững và vận dụng tốt nhận thức phương pháp luận mácxít về cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể, thực tiễn là thước đo chân lý.
Cần khẳng định, nếu không quán triệt và thực hành tốt quan điểm thực tiễn của chủ nghĩa Mác - Lênin như V.I.Lênin đã chỉ ra, chỉ gắn với nhiệm vụ của các nhà cách mạng phương Đông, “khi nông dân là quần chúng cơ bản, khi cần phải giải quyết nhiệm vụ đấu tranh không phải chống tư bản, mà chống những tàn tích của thời trung cổ”(23), thì cách mạng Việt Nam không có được những thắng lợi như ngày nay.
Hồ Chí Minh đã chỉ ra, cuộc đấu tranh ở Việt Nam không diễn ra giống như ở phương Tây. Việt Nam là nước thuộc địa, mâu thuẫn chủ yếu là mâu thuẫn dân tộc (toàn thể dân tộc Việt Nam chống thực dân, đế quốc xâm lược và bọn phong kiến tay sai). Tính chất của cách mạng Việt Nam là, dân tộc giải phóng theo con đường cách mạng vô sản. Mục đích trước tiên của cách mạng giải phóng dân tộc là giành độc lập dân tộc. Muốn giành được thắng lợi, Đảng cộng sản phải tổ chức và xây dựng được khối đại đoàn kết toàn dân tộc gắn với đoàn kết quốc tế, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
Tính phổ biến và đặc thù của chủ nghĩa Mác - Lênin soi sáng cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới như Hồ Chí Minh đã phân tích về quy luật chung của loài người và tùy hoàn cảnh, các dân tộc phát triển theo con đường khác nhau, Người viết: “Ta không thể giống Liên Xô, vì Liên Xô có phong tục tập quán khác, có lịch sử địa lý khác… Ta có thể đi con đường khác để tiến lên chủ nghĩa xã hội”(24).
Nhờ nắm vững và thực hiện tốt quan điểm thực tiễn, không chỉ trong đấu tranh giành độc lập dân tộc mà cả trong xây dựng CNXH, Việt Nam đã giành được những thành tựu to lớn. Đánh giá 10 năm xây dựng CNXH, Người nói: “Trong 10 năm qua, miền Bắc đã tiến những bước dài chưa từng thấy trong lịch sử dân tộc. Đất nước, xã hội và con người đều đổi mới”(25).
Ngược lại, cũng có những thời kỳ đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng, tình hình đó có nguyên nhân khách quan, nhưng chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan, “bệnh chủ quan, duy ý chí, lối suy nghĩ và hành động giản đơn, nóng vội, chạy theo nguyện vọng chủ quan”(26), không xuất phát từ thực tế, không hành động theo quy luật khách quan. Mười năm sau ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, Đảng ta chỉ rõ: “Chúng ta đã trả giá đắt để thu được những hiểu biết và kinh nghiệm ngày nay, và chúng ta đã có bước trưởng thành”(27).
Qua gần 40 năm đổi mới, Đảng ta đã có những bước trưởng thành, đất nước phát triển nhiều mặt, cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế ngày càng tăng. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trong công cuộc đổi mới cho thấy, việc quán triệt, nắm vững và thực hiện tốt quan điểm thực tiễn có ý nghĩa hết sức to lớn. Chúng ta đã “tạo ra một xã hội xã hội chủ nghĩa theo đặc điểm Việt Nam, mang đậm dấu ấn của thiên tài và cốt cách dân tộc, trong mục tiêu và động lực, trong con đường, bước đi và cách làm… Chủ nghĩa xã hội theo đặc điểm Việt Nam là sự kết thúc thắng lợi hành trình lịch sử của dân tộc mà Hồ Chí Minh đã vạch ra từ đầu thế kỷ, là sự thực hiện trọn vẹn Di chúc của Người, là đỉnh cao của sự nghiệp cách mạng ba cuộc giải phóng của Việt Nam”(28).
Do đó, nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh phải quán triệt sâu sắc và làm theo chỉ dẫn của Người về quan điểm thực tiễn. Phải phát huy lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, ý chí tự lực tự cường, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, giá trị văn hóa, khát vọng và sức mạnh con người Việt Nam.
Từ thực tiễn công cuộc đổi mới, Đảng ta rút ra bài học là phải: “tôn trọng quy luật khách quan, xuất phát từ thực tiễn, bám sát thực tiễn, coi trọng tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận, tập trung giải quyết kịp thời, hiệu quả những vấn đề do thực tiễn đặt ra”(29). Thực tiễn trên phạm vi toàn thế giới, vì vậy phải “nêu cao ý chí độc lập, tự chủ, chủ động, tích cực hội nhập và nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, phát huy tối đa nội lực, tranh thủ ngoại lực, trong đó nguồn lực nội sinh, nhất là nguồn lực con người là quan trọng nhất”(30). Như vậy, xây dựng xã hội XHCN Việt Nam phải bắt đầu, nhất quán và xuyên suốt từ thực tế Việt Nam, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại.
4. Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh tuyệt đối trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, Người chỉ rõ chủ nghĩa Mác - Lênin là cái cẩm nang thần kỳ, mặt trời soi sáng con đường chúng ta đi đến thắng lợi; là vũ khí không gì thay thế được. Theo Người, trong nhiều học thuyết, chủ nghĩa, chỉ có chủ nghĩa Mác - Lênin là “chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách mệnh nhất”(31).
Trong công tác huấn luyện, học tập, tranh đấu, Hồ Chí Minh căn dặn, phải kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, lấy chủ nghĩa đó làm gốc, làm cốt, “phải theo chủ nghĩa Mã Khắc Tư và Lênin”(32). Đồng thời, Người cũng chỉ rõ “Chủ nghĩa Mác - Lênin là kim chỉ nam cho hành động, chứ không phải là kinh thánh”(33). Trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin là trung thành với lập trường, quan điểm có tính nguyên tắc, kiên định mục tiêu, lý tưởng XHCN; là lấy hiệu quả công việc Đảng, Nhà nước, nhân dân giao cho, lấy phục vụ Tổ quốc và nhân dân làm thước đo, không học thuộc lòng từng câu từng chữ, không “đào tạo ra những con người thuộc sách làu làu, cụ Mác nói thế này, cụ Lênin nói thế kia, nhưng nhiệm vụ của mình được giao quét nhà lại để cho nhà đầy rác”(34).
Bối cảnh thế giới và đất nước hiện nay có nhiều vấn đề nảy sinh, cần phải giải quyết sáng tỏ về mặt lý luận. Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về tư tưởng Hồ Chí Minh, dùng tinh thần, lập trường, nguyên tắc, quan điểm, phương pháp và logic phát triển tư tưởng của Người để suy nghĩ và tìm lời giải, tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích đúng đắn những đặc điểm của nước ta theo phương châm “dĩ bất biến ứng vạn biến”, tìm ra quy luật của công cuộc đổi mới.
Trung thành với tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu bất di bất dịch là độc lập dân tộc và CNXH, nhưng phải linh hoạt, mềm dẻo. Chúng ta phải vừa kế thừa, vừa phát triển tư tưởng của Người một cách sáng tạo cho phù hợp với thực tiễn, bối cảnh và điều kiện hiện nay của đất nước. Phát triển là một trong những phương cách tốt nhất thể hiện sự trung thành và kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh; kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh là phải trung thành, phát triển và luôn luôn sáng tạo.
5. Kết luận
Kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh là để tạo ra một xã hội XHCN theo đặc điểm, bản sắc, cốt cách dân tộc Việt Nam, đó là tinh thần trong một bài viết của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng: “Tính khoa học và cách mạng triệt để của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là những giá trị bền vững, đã và đang được những người cách mạng theo đuổi và thực hiện. Nó sẽ còn tiếp tục phát triển và có sức sống trong thực tiễn cách mạng cũng như trong thực tiễn phát triển của khoa học. Chúng ta cần tiếp thu, bổ sung một cách có chọn lọc trên tinh thần phê phán và sáng tạo những thành tựu mới nhất về tư tưởng và khoa học để chủ nghĩa, học thuyết của chúng ta luôn luôn tươi mới, luôn luôn được tiếp thêm sinh lực mới, mang hơi thở của thời đại, không rơi vào xơ cứng, trì trệ, lạc hậu so với cuộc sống”(35).
Nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh hiện nay, cần quán triệt quan điểm toàn diện và hệ thống; quan điểm thực tiễn và lý luận gắn liền với thực tiễn; kiên định, vận dụng và phát triển sáng tạo tư tưởng của Người cho phù hợp với tình hình thế giới và đất nước. Như vậy, mới bảo vệ và phát triển được tư tưởng Hồ Chí Minh, đem lại cho tư tưởng Hồ Chí Minh một sinh khí mới, cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin là nền tảng tư tưởng vững chắc của Đảng ta và công cuộc đổi mới.
_________________
Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 554 (4-2024)
Ngày nhận bài: 15-3-2024; Ngày bình duyệt: 13-4-2024; Ngày duyệt đăng: 22-4-2024.
(1), (11), (12), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.129, 368, 368, 368-369.
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.187.
(3), (6), (34) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.614, 630, 668.
(4) ĐCSVN: Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.32.
(5) ĐCSVN: Nghị quyết số 09-NQ/TW ngày 18-2-1995 của Bộ Chính trị (khóa VII) về một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay.
(7), (35) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường di lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2022, tr.236, 37-38.
(8), (9) Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia - Ủy ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam: Chủ tịch Hồ Chí Minh - Anh hùng giải phóng dân tộc, nhà văn hóa lớn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1995, tr.5, 29.
(10), (13), (15), (18), (21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.95, 95, 98-99, 96-97, 96.
(14) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd, tr.293.
(17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.312.
(19), (28) Phạm Văn Đồng: Hồ Chí Minh tinh hoa và khí phách của dân tộc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2012, tr.479, 219-220.
(20), (30) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.109, 110-111.
(22), (31), (32) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Sđd, tr.284, 289, 304.
(23) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.411.
(24) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.391.
(25) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.275.
(26), (27) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1997, tr.86, 9.
(29) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.69.
(33) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.7, tr.120.