Bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng

Quá trình nhận thức của Đảng về đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đối với cán bộ, đảng viên

12/11/2024 09:41

(LLCT) - Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là biểu hiện chính trị tiêu cực, phản cách mạng, xa rời mục tiêu, lý tưởng, định hướng chính trị; dao động, mơ hồ, mất phương hướng, thực chất là sự biến đổi về tư tưởng chính trị theo chiều hướng xấu dần, từng bước xa rời mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Thời gian qua, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” ở một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên ở nước ta có diễn biến phức tạp. Bài viết tập trung phân tích những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của một bộ phận đội ngũ cán bộ, đảng viên, xác định các nguyên nhân. Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp chủ yếu ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong thời gian tới.

TS NGUYỄN THỊ TỐ UYÊN
Viện Xây dựng Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Chú thích ảnh
Tổng Bí thư, Chủ tịch nước Tô Lâm phát biểu chỉ đạo Hội nghị toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 10, Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII. Ảnh: Trí Dũng/TTXVN

1. Quá trình nhận thức của Đảng về biểu hiện, nguy cơ "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ

Trải qua hơn 94 năm dựng xây và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn chú trọng công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng. Công tác nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là công việc thường xuyên nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có lập trường tư tưởng vững vàng, giữ vững phẩm chất, đạo đức cách mạng, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị thời kỳ mới.

Vấn đề nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên được Đảng ta quan tâm. Hội nghị Trung ương 8, khóa VII nhận diện âm mưu thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình” của các thế lực đế quốc, trong đó xác định: “Trọng điểm chống phá của chúng là nhằm vào nội bộ Đảng và Nhà nước, mưu đồ tạo ra quá trình tự diễn biến từ bên trong. Chúng kết hợp tiến công về tư tưởng, lý luận với nhiều biện pháp về kinh tế, tài chính, tổ chức lực lượng…, hy vọng làm cho Đảng và Nhà nước ta thay đổi bản chất, thay đổi đường lối, chuyển dần sang nền kinh tế thị trường tự do, tư nhân hóa và nền dân chủ tư sản hoặc xã hội - dân chủ”(1). Thảo luận Chiến lược cán bộ trong thời kỳ mới, Bộ Chính trị nêu: “Họ đang muốn lợi dụng sự đổi mới, sự chuyển tiếp các thế hệ cán bộ của ta, thông qua quan hệ kinh tế, văn hóa, ngoại giao…để làm đội ngũ cán bộ ta “tự diễn biến” đi chệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội”(2). Tiếp đến Chỉ thị 39-CT/TW ngày 14-8-1998 của Bộ Chính trị về thực hiện một số nhiệm vụ cấp bách trong công tác bảo vệ chính trị nội bộ đã nhận định: “Để chống phá công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nước ta, các thế lực thù địch ráo riết lợi dụng sơ hở và khuyết điểm của ta để thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, thâm nhập phá hoại nội bộ Đảng ta nhằm làm thay đổi bản chất giai cấp của Đảng, làm cho đảng viên từ bỏ mục tiêu lý tưởng cách mạng, tự “diễn biến”, tự “đổi màu, hình thành lực lượng đối lập từ bên trong, tạo dựng “ngọn cờ” chờ thời cơ để thực hiện âm mưu xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng, xóa bỏ chế độ xã hội chủ nghĩa”(3). Tại Đại hội XI (năm 2011), lần đầu tiên Đảng ta nhận định: “Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có những biểu hiện phức tạp”(4) là một trong những nguy cơ đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Đại hội XII của Đảng đã chỉ rõ các biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí diễn biến phức tạp”(5). Đại hội nêu: “…tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu biện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức…”(6). Nội dung này được cụ thể hóa trong Nghị quyết số 04-NQ/TW khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng, đã chỉ ra những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, "tự diễn biến", "tự chuyển hóa" trong nội bộ. Cùng với việc lần đầu tiên chỉ ra 9 biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, điểm mới về nhận thức trong Nghị quyết số 04-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa XII là chỉ ra “vị trí” của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, và mối quan hệ giữa những biểu hiện “tự diễn biến”, tự chuyển hóa” với những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong nội bộ và nguy cơ phản bội, phản động.

Đại hội XIII của Đảng tiếp tục nêu: “Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí, ngại khó, ngại khổ, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”(7); “Tham nhũng, lãng phí, quan liêu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ cũng như những mâu thuẫn xã hội còn diễn biến phức tạp. Các thế lực thù địch tiếp tục tăng cường chống phá Đảng, Nhà nước và đất nước ta”(8).

2. Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Theo Từ điển tiếng Việt, diễn biến là biến đổi theo chiều hướng nào đó(9). Theo đó, tự diễn biến là tự thân chủ thể (tổ chức, cá nhân) có hành vi tự gây ra, chỉ bằng khả năng của riêng mình dẫn đến sự tự biến đổi về tư tưởng, diễn biến tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm của mình.

Như vậy, “tự diễn biến” trong cán bộ, đảng viên là việc cán bộ, đảng viên chịu sự chi phối của hành động do chính mình gây ra dẫn đến sự tự biến đổi về tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống, diễn biến tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm trong từng thời điểm, thời kỳ nhất định.

Theo Từ điển tiếng Việt, chuyển hóa là biến đổi từ dạng này, hình thái này sang dạng khác, hình thái khác(10). Còn theo Từ điển Triết học, chuyển hóa là những biến đổi về lượng thành những biến đổi về chất(11). “Tự chuyển hóa” là tự bản thân chủ thể (tổ chức, cá nhân) có hành vi tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng của riêng mình để biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác về tư tưởng, diễn biến tâm lý hoặc về ý thức, trách nhiệm của mình. Như vậy, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên là việc cán bộ, đảng viên có hành vi hoặc việc làm, hoặc tự gây ra, chỉ bằng sức lực, khả năng của chính mình để tư tưởng chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống hoặc về ý thức, trách nhiệm biến đổi sang dạng hoặc hình thái khác.

Thực tế cho thấy quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra theo hai hướng ngược nhau: tiến bộ và phản tiến bộ, tích cực và tiêu cực. Trong các văn kiện của Đảng, nội hàm của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” được sử dụng với hàm ý chỉ sự phản tiến bộ, tức là sự biến chất của một bộ phận cán bộ, đảng viên. “Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” cũng là quá trình tự phủ định, nhưng đó không phải là tự phủ định cái phủ định (các hạn chế, yếu kém) mà là tự phủ định cái khẳng định (mặt thành tựu, tích cực) của chính bản thân mình. Như vậy, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là quá trình tự biến đổi về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên theo chiều hướng tiêu cực, làm phai nhạt niềm tin và các chuẩn mực của người đảng viên cộng sản, nếu không được ngăn chặn kịp thời sẽ dẫn đến xa rời nguyên tắc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu, lý tưởng cách mạng, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, phá hoại nền tảng tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối của Đảng, làm mục ruỗng Đảng từ bên trong, dẫn đến sự chuyển hóa chế độ.

Khi nói quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nghĩa là đã diễn ra trong một thời gian nhất định. Quá trình “tự diễn biến” chuyển sang “tự chuyển hóa” có thể diễn ra một cách tự phát, chậm chạp, nhưng cũng có thể xảy ra lúc nhanh, lúc chậm, lúc sôi động, lúc âm thầm hoặc nhanh chóng, mau lẹ, liên tục, nhất là khi tình hình chính trị, xã hội diễn biến phức tạp, có sự tác động của nhân tố bên ngoài, trong đó đáng chú ý là hoạt động “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch.

“Tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” thường bắt đầu từ việc tiếp nhận một cách thụ động các luận điệu tuyên truyền phản cách mạng của các thế lực thù địch thông qua các phương tiện thông tin khác nhau. Với những người có vướng mắc về tư tưởng, lệch lạc về nhận thức, tiếp nhận thụ động lâu ngày rồi cũng sẽ đến tiếp nhận chủ động, nghĩa là tự tìm kiếm những thông tin, nội dung theo chiều hướng khẳng định những suy nghĩ, quan điểm sai lệch. Trong điều kiện tác động từ các mặt trái của kinh tế thị trường và những sơ hở trong quản lý các hoạt động truyền thông đại chúng, nhất là mạng xã hội, các chủ thể “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” bắt đầu tự xác định cho mình những lý lẽ chủ quan để tiếp tục phát triển tư tưởng phản động đã tiếp nhận được. Kết quả là, kẻ đó sẽ đưa tư tưởng phản động của mình vào thực tế hành động của họ. Vì vậy, một cán bộ mà “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, nếu có quyền lực chính trị, tác hại của nó sẽ rất nguy hiểm. Nó sẽ làm thay đổi bản chất chính trị của tổ chức do người đó có vai trò lãnh đạo sang một trạng thái khác, đó là chuyển hóa chính trị.

Quá trình “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có thể diễn ra với các giai đoạn khác nhau tương ứng với các mức độ. Ở giai đoạn đầu, đối tượng thể hiện sự hoang mang, dao động về tư tưởng chính trị, sự hoài nghi về sự lãnh đạo của Đảng, tính khoa học và phù hợp của chủ nghĩa Mác - Lênin. Những biểu hiện này nếu không được kiểm soát bằng giáo dục, kiểm điểm, tự phê bình và phê bình thì sẽ sang giai đoạn tiếp theo cao hơn.

Ở giai đoạn tiếp theo, biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tăng lên, đối tượng bắt đầu chủ động hơn trong tiếp nhận những thông tin trái chiều, những luận điệu chống đối hoặc lý luận phản động. Kết quả là một số đối tượng bắt đầu hoạt động câu kết với đối tượng bất mãn, thoái hóa, các phần tử thù địch bên ngoài để tiếp tay cho chúng. Biểu hiện rõ nhất là hoạt động thu thập, tổng hợp tin tức nội bộ, kể cả các thông tin công khai nhưng nhạy cảm để cung cấp cho các đối tượng phản động sử dụng hoạt động chống phá Đảng, Nhà nước. Ở giai đoạn này, công tác đấu tranh chủ yếu là các biện pháp tổ chức và hành chính, với phương châm cảm hóa, thuyết phục và “kéo” là chính.

Ở giai đoạn tiếp theo biểu hiện của “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” tăng thêm lên, ở độ cao của biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” nếu không ngăn chặn kịp thời đối tượng sẽ có tư tưởng phản động, chống đối, chủ động tìm đến những phần tử đang “tự diễn biến” để tập hợp lực lượng, hình thành nhân lõi tổ chức ban đầu. Một số kẻ sẽ tự tìm đến các tổ chức phản động nước ngoài để câu kết. Ở giai đoạn này, đối tượng đã thể hiện rõ tư tưởng chính trị phản động, sẵn sàng đối đầu với hệ thống chính trị và pháp luật. Chúng không còn biết sợ hãi trước sức mạnh của pháp luật, thậm chí sẵn sàng hành động để làm thay đổi hệ thống chính trị.

Đối với loại đối tượng đã chuyển hóa đến mức độ chống đối rõ ràng, thậm chí công khai này, công tác đấu tranh cũng cần phải tương ứng. Trong đó, đấu tranh làm tan rã tổ chức, chuyển hóa tư tưởng phản động là nhiệm vụ quan trọng. Trong trường hợp cụ thể, phải kiên quyết trấn áp mạnh bằng pháp luật để cảnh báo, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” diễn ra trên nhiều mặt từ tư tưởng, nhận thức lệch lạc về tư tưởng, chính trị đến hành vi sa đọa về đạo đức, lối sống nếu không được ngăn chặn, đẩy lùi kịp thời. Các biểu hiện suy thoái trên có quan hệ tương tác với nhau; từ sự suy thoái về tư tưởng, chính trị có thể dẫn tới sự tha hóa về đạo đức, phẩm chất, lối sống và ngược lại, tha hóa về đạo đức, lối sống có thể dẫn đến sự thoái hóa về tư tưởng - chính trị.

Các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” mà Đảng ta nhận diện và chỉ ra cụ thể thành 09 điểm trong Nghị quyết Trung ương 4 khóa XII, như sau: “(1) Phản bác, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các nguyên tắc tổ chức của Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ; đòi thực hiện “đa nguyên, đa đảng”. (2) Phản bác, phủ nhận nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; đòi thực hiện thể chế “tam quyền phân lập”, phát triển “xã hội dân sự”. Phủ nhận nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, chế độ sở hữu toàn dân về đất đai. (3) Nói, viết, làm trái quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Hạ thấp, phủ nhận những thành quả cách mạng; thổi phồng khuyết điểm của Đảng, Nhà nước. Xuyên tạc lịch sử, bịa đặt, vu cáo các lãnh tụ tiền bối và lãnh đạo Đảng, Nhà nước. (4) Kích động tư tưởng bất mãn, bất đồng chính kiến, chống đối trong nội bộ. Lợi dụng và sử dụng các phương tiện thông tin, truyền thông, mạng xã hội để nói xấu, bôi nhọ, hạ thấp uy tín, vai trò lãnh đạo của Đảng, gây chia rẽ nội bộ, nghi ngờ trong cán bộ, đảng viên và nhân dân. (5) Phủ nhận vai trò lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của Đảng đối với lực lượng vũ trang; đòi "phi chính trị hóa" quân đội và công an; xuyên tạc đường lối quốc phòng toàn dân và an ninh nhân dân; chia rẽ quân đội với công an; chia rẽ nhân dân với quân đội và công an. (6) Móc nối, cấu kết với các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị để truyền bá tư tưởng, quan điểm đối lập; vận động, tổ chức, tập hợp lực lượng để chống phá Đảng và Nhà nước. (7) Đưa thông tin sai lệch, xuyên tạc đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước; thông tin phiến diện, một chiều về tình hình quốc tế, gây bất lợi trong quan hệ giữa Việt Nam với các nước. (8) Phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng đối với báo chí, văn học - nghệ thuật. Tác động, lôi kéo, lái dư luận xã hội không theo đường lối của Đảng; cổ súy cho quan điểm, tư tưởng dân chủ cực đoan; thổi phồng mặt trái của xã hội. Sáng tác, quảng bá những tác phẩm văn hóa, nghệ thuật lệch lạc, bóp méo lịch sử, hạ thấp uy tín của Đảng. (9) Có tư tưởng dân tộc hẹp hòi, tôn giáo cực đoan. Lợi dụng vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, dân tộc, tôn giáo để gây chia rẽ nội bộ, gây chia rẽ giữa các dân tộc, giữa các tôn giáo, giữa dân tộc và tôn giáo, giữa các dân tộc, tôn giáo với Đảng và Nhà nước”(12).

3. Nguyên nhân của những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Một là, sự tác động từ hoạt động tuyên truyền thù địch, sự tác động tiêu cực của diễn biến tình hình thế giới và sự tác động bởi tình trạng mất dân chủ, quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, phân hóa giàu nghèo gia tăng dẫn tới sự bất mãn, bất bình trong xã hội. Song, trước hết và chủ yếu là do nguyên nhân chủ quan từ chính bản thân những cán bộ, đảng viên lập trường tư tưởng, chính trị không vững vàng, không tự tu dưỡng rèn luyện; ở bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện giữ những vị trí, trọng trách trong hệ thống chính trị. Bên cạnh đó là những người dân do thiếu hiểu biết, mơ hồ, nhận thức chính trị còn hạn chế, thiếu thông tin hoặc bị các thế lực thù địch, phản động mua chuộc, dụ dỗ, lôi kéo nhằm biến họ trở thành công cụ gây áp lực chính trị, thực hiện âm mưu lật đổ chế độ.

Hai là, một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống cơ hội, vụ lợi, hám danh, bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của nhân dân; nói không đi đôi với làm, nói một đằng, làm một nẻo, không chấp hành nghiêm túc quy tắc ứng xử và đạo đức nghề nghiệp, thiếu gương mẫu.

Ba là, các thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch từ bên ngoài, có thể làm chuyển hóa thành sai lệch, biến chất từ bên trong nội bộ. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đang tiềm tàng và hiện hữu trong một bộ phận cán bộ, đảng viên bị kích động bởi “diễn biến hòa bình” từ bên ngoài, nên lại càng phức tạp và nguy hiểm. Đó là những nguy cơ, mầm họa làm suy yếu Đảng từ bên trong, nếu không ngăn chặn kịp thời sẽ làm giảm lòng tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước, là nguy cơ đến sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Nhận diện, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” là vấn đề cấp bách, cần sắc bén và thận trọng. Trong điều kiện tình hình thế giới biến đổi nhanh chóng, kỷ nguyên số và hội nhập quốc tế đặt ra yêu cầu cấp bách phải tổng kết thực tiễn, làm rõ những yếu tố tác động dẫn đến “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”.

4. Một số nhiệm vụ, giải pháp ngăn chặn, đẩy lùi những biểu hiện "tự diễn biến", "tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên hiện nay

Một là, thực hiện tốt các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, trước hết là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình. Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng chứa đựng trong đó những nội dung, yêu cầu mọi cán bộ, đảng viên phải nhận thức đúng, đầy đủ. Tuy nhiên, thực tế không phải tất cả cán bộ, đảng viên đều có nhận thức đúng, thậm chí có cán bộ, đảng viên cố tình nhận thức sai, vi phạm nguyên tắc vì lợi ích cá nhân. Do vậy, nhận thức đúng và thực hiện tốt các nguyên tắc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình là sự bảo đảm cho đội ngũ cán bộ, đảng viên đoàn kết, thống nhất ý chí và hành động thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, làm cho các tổ chửc đảng luôn luôn trong sạch, vững mạnh. Thực hiện tự phê bình, phê bình để làm cho đức tính tốt đẹp tăng lên, điều xấu mất đi, trên cơ sở đó tăng cường đoàn kết, thống nhất trong nội bộ Đảng; để các tổ chức đảng và đảng viên luôn luôn hoàn thiện mình, phấn đấu hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ Tổ quốc và nhân dân giao phó.

Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp ủy, tổ chức đảng đối với công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho cán bộ, đảng viên. Tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện tốt trong thực tế công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong đội ngũ cán bộ, đảng viên. Quan tâm, lựa chọn có trọng tâm, trọng điểm nội dung giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, mục tiêu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Lựa chọn các hình thức, biện pháp giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với nội dung giáo và đối tượng giáo dục, trong từng hoàn cảnh, từng nhiệm vụ. Chăm lo bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác chính trị, tư tưởng, nhất là đội ngũ cán bộ nòng cốt, chuyên trách về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng về cả số lượng, chất lượng; về phẩm chất, năng lực, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, phương pháp, tác phong công tác; về thực hiện tốt các chế độ, chính sách. Không ngừng nâng cao tính chiến đấu, tính thuyết phục của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, nhất là tính sắc bén, tính thuyết phục cao trong đấu tranh phòng, chống các luận điệu sai trái, thù địch trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng. Đây là yếu tố rất quan trọng để nâng cao nhận thức chính trị, tăng cường niềm tin của cán bộ, đảng viên và nhân dân về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, góp phần đẩy lùi, triệt tiêu những biễu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” về tư tưởng chính trị và suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên.

Ba là, kịp thời phát hiện âm mưu, hoạt động của các thế lực thù địch, cơ hội chính trị chống phá. Biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” của cán bộ, đảng viên có tác động trực tiếp từ những luận điệu tuyên truyền phản động. Để cán bộ, đảng viên trước các âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, cần chủ động có các phương án, biện pháp cụ thể, tổ chức lực lượng thích hợp để đấu tranh, phản bác có hiệu quả.

Bốn là, nâng cao chất lượng công tác quản lý cán bộ, đảng viên, thường xuyên duy trì có hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát của Đảng. Cán bộ, đảng viên phải tự giác đặt mình trong tổ chức, chịu sự quản lý của tổ chức, chấp hành các chế độ, quy định của tổ chức. Dù ở bất cứ cương vị công tác nào cũng phải nêu cao ý thức tổ chức, kỷ luật, không ngừng tự tu dưỡng, rèn luyện. Cấp ủy, tổ chức đảng các cấp phải nâng cao chất lượng quản lý đảng viên một cách toàn diện trên các mặt, kể cả các quan hệ xã hội, các nguồn thu nhập, lối sống. Tăng cường chế độ trách nhiệm trong Đảng, quán triệt và thực hiện nghiêm quy định về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát sẽ góp phần quản lý chặt chẽ cán bộ, đảng viên ở mọi lúc, mọi nơi, phát hiện và xử lý kịp thời những đảng viên vi phạm tư cách, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những phần tử cơ hội, bất mãn, gây mất đoàn kết nội bộ trong đảng.

Năm là, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, tăng cường “sức đề kháng”, khả năng “miễn dịch” trước mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch. Nâng cao sức “đề kháng” cho đội ngũ cán bộ, đảng viên trước sự tác động từ mặt tiêu cực của cơ chế thị trường, mở cửa, hội nhập, nhất là trước sự cám dỗ của đồng tiền. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, rèn luyện với tự giáo dục, tự rèn luyện, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên cả về phẩm chất và năng lực, phương pháp, tác phong công tác, xứng đáng là người lãnh đạo, người đầy tớ thật trung thành của nhân dân, vừa “hồng” vừa “chuyên”.

Sáu là, phát huy vai trò của nhân dân, các đoàn thể, báo chí và dư luận xã hội trong việc đấu tranh ngăn chặn biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Phát huy vai trò giám sát, phản biện xã hội của nhân dân, nhất là với việc thực hiện các chủ trương, chính sách có liên quan đến chức trách, nhiệm vụ của đảng viên, phát huy vai trò của dư luận xã hội trong đấu tranh phòng, chống biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Người đứng đầu cấp ủy, chính quyền các cấp phải thực hiện nghiêm việc tiếp dân định kỳ hoặc đột xuất để tiếp nhận thông tin, lắng nghe, đối thoại trực tiếp và xử lý kịp thời, hiệu quả những phản ánh, kiến nghị của nhân dân, nhất là các biểu hiện suy thoái “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên. Xây dựng và thực hiện cơ chế bảo vệ, khuyến khích người dân phản ánh, tố giác và tích cực đấu tranh chống suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”. Nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng toàn dân trước âm mưu chống phá của các thế lực phản động.

5. Kết luận

Như vậy, việc nhận diện những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” đã được Đảng ta tổng kết, khái quát làm cơ sở để đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân và đề xuất những giải pháp phù hợp nâng cao hiệu quả đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong cán bộ, đảng viên, góp phần xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng.

_________________

Ngày nhận bài: 7-11-2024; Ngày bình duyệt: 9-11-2024; Ngày duyệt đăng: 11-11-2024.

Email tác giả: touyen0379@gmail.com

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.54, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2007, tr.28.

(2), (3) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.56, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.289.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2011, tr. 185.

(5), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội địa biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.74, 428-429.

(7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2021, t.1, tr. 92, 108.

(9), (10) Viện Ngôn ngữ học: Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, 2004, tr. 1075, 188.

(11) Từ điển Triết học, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1975, tr. 95-96.

(12) ĐCSVN:Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016.