Nghiên cứu lý luận

Chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực kinh tế quan trọng

13/11/2024 13:29

(LLCT) - Quan điểm của Đảng về sở hữu và các thành phần kinh tế nói chung, về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân nói riêng có quá trình hình thành và phát triển lâu dài, được bổ sung và hoàn thiện qua mỗi giai đoạn phát triển kinh tế đất nước. Bài viết làm rõ quá trình đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân, khẳng định tính đúng đắn của các quyết sách của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

TS NGUYỄN BẢO THƯ
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

Kinh tế tư nhân, động lực quan trọng của nền kinh tế
Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng của nền kinh tế _ Ảnh: laodong.vn

1. Quá trình đổi mới tư duy của Đảng về kinh tế tư nhân

Trước đổi mới, kinh tế tư nhân được coi là đối tượng trực tiếp của chủ trương cải tạo XHCN và hạn chế phát triển. Từ khi đổi mới đến nay, quan điểm của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân luôn nhất quán và ngày càng được hoàn thiện, góp phần thúc đẩy sự phát triển của khu vực này. Từ Đại hội VI (tháng 12-1986), nền kinh tế nhiều thành phần đã được thừa nhận chính thức trong văn kiện Đảng. Đại hội VI khẳng định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...”(1) và “Bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(2). Như vậy, các thành phần kinh tế phi XHCN được thừa nhận sự tồn tại và hoạt động dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế XHCN. Tuy nhiên lúc này, kinh tế tư nhân nói riêng, các thành phần kinh tế phi XHCN nói chung vẫn được coi là đối tượng phải “cải tạo”, bằng những hình thức và bước đi thích hợp, tránh chủ quan nóng vội: “cần có chính sách sử dụng và cải tạo đúng đắn các thành phần kinh tế khác(3).

Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15-7-1988 của Bộ Chính trị khóa VI và Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 khóa VI tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh. Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 5-4-1988 của Bộ Chính trị khóa VI về đổi mới quản lý kinh tế nông nghiệp xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa. Đó là bước khởi đầu quan trọng đối với kinh tế tư nhân nước ta, mở đường cho những bước đột phá sau này.

Đại hội VII (năm 1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”(4) và “Mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”(5). Đại hội VII cũng khẳng định: “Kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”(6). Như vậy, từ chỗ coi kinh tế tư bản tư nhân là một thành phần kinh tế “tàn dư” cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, Đại hội VII đã thực sự coi kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước nói chung. Do đó, Hội nghị Trung ương 2 khóa VII đã nêu chủ trương: “Bổ sung và sửa đổi thể chế nhằm bảo đảm cho tập thể, cá thể và tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những lĩnh vực mà pháp luật không cấm; được tự lựa chọn hình thức kinh doanh, kể cả liên doanh với nước ngoài theo những điều kiện do luật định”(7).

Đại hội VIII (năm 1996) tiếp tục khẳng định: “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”(8). Đại hội VIII khẳng định, cần đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế, đồng thời tạo điều kiện kinh tế và pháp lý thuận lợi để các nhà kinh doanh tư nhân yên tâm đầu tư lâu dài.

Bước phát triển mới trong quan điểm của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân thể hiện trong Văn kiện Đại hội IX (tháng 1-2001), khi Đảng ta khẳng định kinh tế tư bản tư nhân là thành phần kinh tế có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”(9).

Đến Đại hội IX, quan điểm của Đảng ta đã có bước nhìn nhận mới: “Tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển trên những hướng ưu tiên của Nhà nước, kể cả đầu tư ra nước ngoài; chuyển thành doanh nghiệp cổ phần, bán cổ phần cho người lao động; liên doanh liên kết với nhau với kinh tế tập thể và kinh tế nhà nước”(10).

Cụ thể hóa quan điểm của Đại hội IX, Hội nghị Trung ương 5 khóa IX (năm 2002) thông qua Nghị quyết “Về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích, tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân”. Đây là lần đầu tiên kể từ khi đổi mới, Ban Chấp hành Trung ương có một nghị quyết chuyên đề về kinh tế tư nhân, trong đó tiếp tục khẳng định: Kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Phát triển kinh tế tư nhân là vấn đề chiến lược lâu dài trong phát triển nền kinh tế nhiều thành phần định hướng XHCN. Hội nghị Trung ương 5 khóa IX cũng đưa ra những đánh giá xác đáng về đóng góp của kinh tế tư nhân, đó là: đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Đại hội X của Đảng (tháng 4-2006) tiếp tục xác định vị trí và định hướng phát triển các thành phần kinh tế chủ yếu. Trong đó, kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo, là lực lượng vật chất quan trọng để Nhà nước định hướng và điều tiết nền kinh tế đất nước, tạo môi trường và điều kiện thúc đẩy các thành phần kinh tế cùng phát triển. Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế. Lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng ta chính thức nêu ra và có quy định cụ thể. Hội nghị Trung ương 3 khóa X đã thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”.

Tại Đại hội X, Đảng có những khẳng định mới về vai trò của kinh tế tư nhân khi coi kinh tế tư nhân là bộ phận cấu thành không thể thiếu, có vị trí quan trọng đặc biệt và mang ý nghĩa chiến lược trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, đồng thời, khuyến khích thành phần kinh tế này phát triển mạnh mẽ hơn nữa trong những năm tiếp theo của công cuộc đổi mới đất nước.

Đại hội XI của Đảng (năm 2011) tiếp tục xác định phải hoàn thiện cơ chế, chính sách để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, trở thành một trong những động lực của nền kinh tế. Có thể thấy, quan niệm coi kinh tế tư nhân là “một trong những động lực của nền kinh tế” trong hai kỳ Đại hội X và XI phản ánh bước tiến mới trong tư duy lý luận của Đảng về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nước ta.

Điểm mới của Đại hội XII (tháng 1-2016) so với các kỳ đại hội trước là sự khẳng định mạnh mẽ, dứt khoát hơn của Đảng về vai trò của kinh tế tư nhân như là một động lực quan trọng của nền kinh tế. Văn kiện Đại hội XII nhấn mạnh: “Hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế. Hoàn thiện chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp khởi nghiệp. Khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước”(11).

Như vậy, vị trí và vai trò của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế nhiều thành phần từng bước được thừa nhận qua từng giai đoạn, từ chỗ chỉ là thành phần kinh tế cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp đến chỗ có vị trí quan trọng lâu dài trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, được khuyến khích phát triển; từ chỗ là một trong những động lực của nền kinh tế trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế.

Xác định “kinh tế tư nhân là động lực quan trọng” của nền kinh tế chính là nhằm đến vai trò tích cực của thành phần kinh tế này. Đảng ta đã nhận thấy rõ, thành phần kinh tế tư nhân còn nhiều tiềm năng chưa được giải phóng, nhiều nguồn lực chưa được huy động và chưa hoạt động tương xứng với khả năng và nguồn lực trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta.

2. Vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân

Những đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân:

Sau gần 40 năm thực hiện đổi mới, với các chủ trương, đường lối đúng đắn của Đảng và Nhà nước, nước ta có hơn 930.000 doanh nghiệp, trong đó 98% là doanh nghiệp nhỏ và vừa, khoảng 14.400 hợp tác xã và hơn 5 triệu hộ kinh doanh. Đóng góp vào quy mô GDP của khu vực kinh tế tư nhân có xu hướng ngày càng tăng, từ 21,85% năm 2010 lên 24,2% năm 2015 và đạt 27,08% năm 2020, cao nhất trong các loại hình kinh tế. Kinh tế tư nhân từ loại hình kinh tế đóng góp đứng thứ hai, sau kinh tế cá thể đã vươn lên đứng đầu.

Đóng góp vào thu ngân sách Nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân liên tục tăng trong giai đoạn 2010-2020: năm 2010 chỉ đạt 70 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2015 tăng 85%, đạt 129,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,7%; đến năm 2020 đạt 247,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,36% và gấp 3,5 lần năm 2010. Năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp khoảng 46% GDP, tạo ra khoảng 30% nguồn thu ngân sách nhà nước, thu hút 85% lực lượng lao động, góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội(12).

Nhận thức về vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước tiến quan trọng. Hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách từng bước được hoàn thiện. Quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh của cá nhân và tổ chức được thể chế hóa và được pháp luật bảo vệ. Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân được đổi mới phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Cải cách hành chính, nhất là cải cách thủ tục hành chính được đẩy mạnh; môi trường đầu tư, kinh doanh từng bước được cải thiện, thông thoáng, thuận lợi hơn. Dân chủ trong đời sống kinh tế - xã hội ngày càng được phát huy.

Kinh tế tư nhân đã phát triển trên nhiều phương diện, được tự do kinh doanh theo quy định của pháp luật và đối xử bình đẳng như các thành phần kinh tế khác, nhất là trong tiếp cận các yếu tố sản xuất và các loại thị trường; hoạt động đa dạng ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và các vùng, miền; hiệu quả, sức cạnh tranh dần được nâng lên; bước đầu đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế.

Tuy nhiên, việc triển khai thực hiện các chủ trương, chính sách về khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân còn một số hạn chế, yếu kém:

Kinh tế tư nhân chưa phát huy hết vai trò là một động lực quan trọng của nền kinh tế; tốc độ tăng trưởng có xu hướng giảm trong những năm gần đây. Kinh tế tư nhân đa số có quy mô nhỏ và siêu nhỏ, chủ yếu vẫn là kinh tế hộ kinh doanh; có trình độ công nghệ, trình độ quản trị, năng lực tài chính, chất lượng sản phẩm và sức cạnh tranh thấp; cơ cấu ngành nghề còn bất hợp lý, thiếu liên kết với nhau và với các thành phần kinh tế khác; năng lực hội nhập kinh tế quốc tế còn hạn chế, chưa đáp ứng yêu cầu của các chuỗi giá trị sản xuất khu vực và toàn cầu. Nhiều doanh nghiệp tư nhân ngừng hoạt động, giải thể và phá sản.

Hệ thống pháp luật, các cơ chế, chính sách khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn nhiều bất cập, thiếu đồng bộ. Hiện tượng vi phạm pháp luật và cạnh tranh không lành mạnh trong kinh tế tư nhân còn tương đối phổ biến. Tình trạng sản xuất, kinh doanh gây ô nhiễm môi trường, không bảo đảm vệ sinh, an toàn thực phẩm; gian lận thương mại… diễn ra nghiêm trọng, phức tạp. Nhiều doanh nghiệp tư nhân không bảo đảm lợi ích của người lao động, báo cáo tài chính không trung thực, nợ quá hạn ngân hàng, nợ bảo hiểm xã hội, trốn thuế và nợ thuế kéo dài.

Xuất hiện một số quan hệ không lành mạnh giữa các doanh nghiệp tư nhân và cơ quan quản lý nhà nước, như can thiệp vào quá trình xây dựng, thực thi chính sách để có đặc quyền, đặc lợi, hình thành "lợi ích nhóm", gây hậu quả xấu về kinh tế - xã hội, làm suy giảm lòng tin của nhân dân.

Nhiều quy định của pháp luật về kinh tế tư nhân chưa được thực hiện nghiêm. Môi trường đầu tư kinh doanh, khởi nghiệp còn nhiều hạn chế, tiềm ẩn rủi ro cao và thiếu tính minh bạch. Quyền tự do kinh doanh và quyền tài sản, tiếp cận các cơ hội kinh doanh, nguồn lực xã hội chưa thực sự bình đẳng giữa kinh tế tư nhân và các thành phần kinh tế khác; còn tồn tại chi phí trung gian, chi phí không chính thức.

Thủ tục hành chính còn rườm rà, phức tạp; tình trạng thiếu trách nhiệm, lạm dụng chức quyền, gây khó khăn, phiền hà cho doanh nghiệp vẫn còn diễn ra. Sự phân công, phân cấp, phối hợp giữa các bộ, ban, ngành, địa phương trong quản lý, khuyến khích kinh tế tư nhân phát triển còn thiếu chặt chẽ. Hiệu quả công tác thanh tra, kiểm tra hoạt động của kinh tế tư nhân còn thấp.

3. Giải pháp để kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng

Thứ nhất, đổi mới nội dung, phương thức, tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước, nâng cao vai trò của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, xã hội - nghề nghiệp đối với kinh tế tư nhân

Bảo đảm giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương, giữ vững sự lãnh đạo của Đảng đối với khu vực kinh tế tư nhân trên cơ sở phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị từ trung ương đến cơ sở.

Các cấp ủy đảng tăng cường chỉ đạo công tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức, tạo sự thống nhất cao trong hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về chủ trương nhất quán trong phát triển kinh tế tư nhân của Đảng và Nhà nước; lãnh đạo thực hiện hiệu quả, công khai, minh bạch các chính sách khuyến khích phát triển kinh tế tư nhân. Đẩy mạnh thực hiện chủ trương phát triển đảng trong khu vực kinh tế tư nhân. Coi trọng công tác sơ kết, tổng kết thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển kinh tế tư nhân.

Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nền kinh tế, năng lực kiến tạo phát triển và tổ chức thực hiện chính sách, luật pháp của Nhà nước, qua đó, chống thất thu thuế và xử lý các hành vi vi phạm luật doanh nghiệp, người dân. Xây dựng Nhà nước “kiến tạo” để các loại hình doanh nghiệp phát huy tốt nhất tiềm năng trong một môi trường bình đẳng, công khai và minh bạch.

Phát huy vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp trong phát triển kinh tế tư nhân. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các tổ chức xã hội - nghề nghiệp, làm tốt vai trò tổ chức đại diện, tích cực phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước để cung cấp thông tin, hỗ trợ liên kết, hợp tác kinh doanh, đào tạo kỹ thuật và tư vấn cho các hội viên.

Thứ hai, hoàn thiện môi trường thể chế, chính sách cho quá trình xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa

Nhận thức sâu sắc được điều kiện quan trọng, mấu chốt để kinh tế tư nhân phát triển là hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, Đảng đề ra các định hướng cơ bản hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó nhấn mạnh về hoàn thiện thể chế sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp và các tổ chức sản xuất - kinh doanh, hoàn thiện thể chế bảo đảm đồng bộ các yếu tố thị trường và phát triển đồng bộ các loại thị trường.

Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, phong trào khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tạo tiền đề hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu.

Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của kinh tế tư nhân; không biến các cơ chế, chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế tư nhân thành bao cấp, phục vụ “lợi ích nhóm” dưới mọi hình thức.

Hoàn thiện thể chế quản lý tài chính doanh nghiệp và minh bạch thông tin tài chính doanh nghiệp của tư nhân. Phát triển kết cấu hạ tầng kết nối các vùng kinh tế, các ngành kinh tế,… Tăng cường khả năng tiếp cận các nguồn lực đất đai, vốn, công nghệ

Thứ ba, tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng, lành mạnh giữa các thành phần kinh tế. Mọi doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế đều phải hoạt động theo cơ chế thị trường, bình đẳng trước pháp luật

Nhà nước từ vai trò quản lý doanh nghiệp trở thành Nhà nước kiến tạo hỗ trợ doanh nghiệp phát triển, hoàn thiện thể chế kinh tế theo kịp sự phát triển của thực tiễn, tạo hành lang pháp lý thông thoáng, nâng cao hiệu quả thực thi chính sách. Tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển kinh tế tư nhân, bảo đảm thực hiện quyền tự do kinh doanh, quyền sở hữu tài sản của các chủ thể kinh tế tư nhân.

Triển khai thực hiện đồng bộ các giải pháp ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng.

Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh nâng cao hiệu quả hoạt động, mở rộng quy mô, liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác.

Thứ tư, hỗ trợ kinh tế tư nhân đổi mới sáng tạo, phát triển nguồn nhân lực, nâng cao năng suất lao động.

Đẩy mạnh thực hiện chiến lược quốc gia về phát triển nguồn nhân lực. Đổi mới căn bản, toàn diện và nâng cao chất lượng giáo dục, đào tạo, nhất là đào tạo nghề, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao để đáp ứng nhu cầu số lượng và chất lượng nhân lực cho phát triển kinh tế tư nhân. Tăng cường hợp tác, liên kết chặt chẽ giữa doanh nghiệp và cơ sở đào tạo; quy hoạch và phát triển đào tạo theo nhu cầu sử dụng của doanh nghiệp và thị trường.

Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Khuyến khích, động viên tinh thần khởi nghiệp và đổi mới sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng doanh nghiệp. Đẩy mạnh tuyên truyền, phổ biến, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp.

Xây dựng mô hình quản trị doanh nghiệp hiện đại. Để doanh nghiệp phát triển bền vững, cần xây dựng mô hình quản trị hiện đại, phù hợp với các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế, tập trung nâng cao hiệu quả, sức cạnh tranh của doanh nghiệp.

4. Kết luận

Kinh tế tư nhân ngày càng phát triển, có những đóng góp to lớn hơn trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, cơ cấu lại nền kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết các vấn đề xã hội. Bước đầu, nước ta đã hình thành được một số tập đoàn kinh tế tư nhân có quy mô lớn, hoạt động đa ngành, có khả năng cạnh tranh tốt hơn trên thị trường trong nước và quốc tế; đội ngũ doanh nhân ngày càng lớn mạnh, từng bước nâng cao trách nhiệm đối với người lao động, cộng đồng, xã hội; đạo đức, văn hóa kinh doanh ngày càng được chú trọng.

Phương thức quản lý của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân ngày càng phù hợp hơn với cơ chế thị trường. Vai trò lãnh đạo của Đảng, hoạt động giám sát, phản biện, bảo vệ quyền lợi hợp pháp cho người lao động và người sử dụng lao động của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp đối với khu vực kinh tế tư nhân được nâng lên. Các hiệp hội ngành, nghề thực hiện ngày càng tốt hơn vai trò cầu nối giữa cộng đồng doanh nhân, doanh nghiệp với các cấp quản lý nhà nước; giúp doanh nghiệp nắm bắt kịp thới các chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thúc đẩy sản xuất kinh doanh, ứng dụng khoa học - công nghệ và phát triển thị trường.

_________________

Ngày nhận bài: 7-11-2024; Ngày bình duyệt: 10-11-2024; Ngày duyệt đăng: 12-11-2024.

Email tác giả: nbthu2810ajc@gmail.com

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.58.

(1), (2), (3), (4), (5), (6) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.58, 53, 333, 374, 437, 438.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1991, t.51, tr. 542-543.

(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Sđd, tr.622 - 623.

(9) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần II, Sđd, tr.149.

(10) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần II, Sđd, tr. 26.

(11) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.107 - 108.

(12) Kinh tế tư nhân: Thực trạng và tiềm năng phát triển, Tạp chí Con số & Sự kiện, https://consosukien.vn/kinh-te-tu-nhan-thuc-trang-va-tiem-nang-phat-trien.htm