Hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức ở Việt Nam hiện nay
(LLCT) - Hoàn thiện pháp luật về công tác cán bộ, công chức nói chung và hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức ở Việt Nam nói riêng là yêu cầu tất yếu khách quan, là yếu tố rất quan trọng để xây dựng thành công nền công vụ liên thông, thống nhất, chuyên nghiệp, trách nhiệm, năng động và thực tài, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân, phục vụ công cuộc xây dựng và phát triển đất nước hiện nay. Bài viết phân tích, luận giải các nội dung của pháp luật về tuyển dụng công chức và đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật tuyển dụng công chức, đáp ứng yêu cầu xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, người đứng đầu các cấp đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng.
TS TRẦN VĂN QUÝ
Viện Nhà nước và Pháp luật,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
1. Mở đầu
Ở Việt Nam, công chức đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì trật tự, kỷ cương và bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của tổ chức, công dân theo quy định của pháp luật. Công chức “là công bộc của dân”(1), có trách nhiệm xây dựng mối liên hệ chặt chẽ với nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, tôn trọng, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của Nhân dân.
Luật số 52/2019/QH14 ngày 25-11-2019 sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức, quy định về công chức như sau: “Công chức là công dân Việt Nam, được tuyển dụng, bổ nhiệm vào ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm trong cơ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện; trong cơ quan, đơn vị thuộc Quân đội nhân dân mà không phải là sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng; trong cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân mà không phải là sĩ quan, hạ sĩ quan phục vụ theo chế độ chuyên nghiệp, công nhân công an, trong biên chế và hưởng lương từ ngân sách nhà nước” (Khoản 2, Điều 4).
Như vậy, ở Việt Nam, công chức là khái niệm rất rộng bao hàm cả những người làm việc trong các cơ quan của Đảng, các tổ chức chính trị - xã hội, các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đồng thời, công chức Việt Nam bao gồm cả công chức ở trung ương, cấp tỉnh, cấp huyện và cấp xã. Mỗi một công chức ở ngạch, chức vụ, chức danh tương ứng với vị trí việc làm có những nét đặc thù riêng, tuy nhiên, các quy định của pháp luật về công chức ở Việt Nam lại đều có những điểm chung nhất định.
Tuyển dụng công chức là khâu đầu tiên trong quy trình quản lý đội ngũ công chức trong hệ thống công vụ. Sau khi được tuyển dụng, công chức sẽ được tổ chức bố trí phân công công việc, tiến hành tập sự, học việc, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, kỹ năng làm việc, điều động, biệt phái, luân chuyển đến các công việc, vị trí phù hợp cũng như được bố trí thi nâng ngạch, chuyển ngạch khi công chức có đủ điều kiện và có thể bổ nhiệm giữ các vị trí lãnh đạo trong cơ quan, tổ chức; được đánh giá, khen thưởng, kỷ luật, nghỉ hưu theo quy định của pháp luật về công vụ, công chức.
Từ những phân tích trên, có thể khái quát tuyển dụng công chức ở Việt Nam là công việc do cơ quan, đơn vị, tổ chức có thẩm quyền tiến hành theo những trình tự, thủ tục đã được quy định trong pháp luật về tuyển dụng công chức nhằm mục đích lựa chọn những cá nhân có nguyện vọng trở thành công chức, đáp ứng được yêu cầu của chức danh công chức và vị trí việc làm để thực hiện các công việc của cơ quan, đơn vị, tổ chức đó.
2. Thực trạng công tác tuyển dụng công chức ở Việt Nam theo Luật Cán bộ, công chức năm 2008
Khái quát về pháp luật về tuyển dụng công chức ở Việt Nam hiện nay
Pháp luật về tuyển dụng công chức có ý nghĩa rất quan trọng trong việc lựa chọn những người ưu tú, thực sự xứng đáng và phù hợp với yêu cầu công việc. Bản chất của pháp luật tuyển dụng công chức được hiểu là những quy định về nội dung và hình thức lựa chọn và chấp nhận một người tự nguyện gia nhập vào công vụ sau khi đã xác nhận người đó có đủ tiêu chuẩn và điều kiện cho một vị trí công việc nhất định trong nền công vụ. Pháp luật tuyển dụng công chức mỗi giai đoạn, mỗi thời kỳ có những nét đặc thù nhưng luôn phải bảo đảm tính thống nhất, khách quan, minh bạch và bình đẳng, bởi nếu không có cơ sở pháp lý đó sẽ không thể xây dựng được đội ngũ công chức có đủ phẩm chất, năng lực và trình độ, đáp ứng yêu cầu phục vụ nhân dân và sự phát triển của đất nước.
Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Nghị định số 24/2010/NĐ-CP ngày 15/3/2010 và Nghị định 161/2018/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Nghị định 24 quy định về tuyển dụng, sử dụng và quản lý công chức. Theo đó, tuyển dụng công chức phải dựa vào yêu cầu công vụ, công việc, nhiệm vụ, vị trí việc làm và chỉ tiêu số lượng biên chế được cấp có thẩm quyền giao cho đơn vị sử dụng công chức. Cơ quan, tổ chức sử dụng công chức phải xác định, xây dựng bảng mô tả về vị trí việc làm, sau đó báo cáo cơ quan có thẩm quyền quản lý công chức, đề nghị phê duyệt, sau khi được phê duyệt, tổ chức đơn vị sử dụng công chức lấy làm căn cứ để tuyển dụng công chức. Vì vậy, cơ quan tổ chức sử dụng công chức phải tiến hành xây dựng kế hoạch tuyển dụng công chức và báo cáo với cơ quan quản lý công chức để thực hiện việc phê duyệt, tiến hành công tác tuyển dụng công chức theo quy định của pháp luật. Trong các văn bản trên cũng quy định rõ điều kiện đăng ký tuyển dụng, ưu tiên trong tuyển dụng công chức, thẩm quyền tuyển dụng công chức, hội đồng tuyển dụng công chức, hình thức tuyển dụng công chức (thi tuyển và xét tuyển). Tuy nhiên, việc tuyển dụng công chức còn có thể được tiến hành bằng hình thức tiếp nhận đối với các trường hợp đặc biệt, giúp các cơ quan quản lý tuyển dụng được những công chức phù hợp, đáp ứng yêu cầu của mình.
Thực trạng hoạt động tuyển dụng công chức ở Việt Nam
Thực tiễn cho thấy, việc tuyển dụng công chức ở Việt Nam được thực hiện ngày càng đồng bộ, bám sát các quy định của pháp luật, các quy định về phân công, phân cấp trong tuyển dụng công chức rõ ràng hơn, các cơ quan, tổ chức đã căn cứ vào yêu cầu nhiệm vụ, vị trí việc làm/tiêu chuẩn chức danh và chỉ tiêu biên chế, xây dựng kế hoạch tuyển dụng, báo cáo cơ quan quản lý công chức phê duyệt để làm căn cứ tuyển dụng trước mỗi kỳ tuyển dụng và tổ chức tuyển dụng theo đúng quy định của pháp luật. Hình thức, nội dung tuyển dụng công chức ngày càng chú trọng nhiều hơn về chuyên môn, nghiệp vụ, bảo đảm lựa chọn được những người có phẩm chất, trình độ, năng lực phù hợp với vị trí cần tuyển dụng. Công tác tuyển dụng về cơ bản bảo đảm các nguyên tắc công khai, minh bạch, đúng pháp luật, bảo đảm tính cạnh tranh, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong thi tuyển và có chính sách ưu tiên tuyển chọn người có tài năng, trẻ tuổi, người dân tộc thiểu số.
Tuy nhiên, bên cạnh những ưu điểm thì quy định pháp luật và quá trình tổ chức thực hiện tuyển dụng công chức vẫn còn không ít những hạn chế, vướng mắc: một số quy định của pháp luật về tuyển dụng công chức chưa thống nhất, chưa đầy đủ, hoặc còn chồng chéo, mâu thuẫn, chưa bao quát được các chủ trương, quan điểm của Đảng về xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp trong điều kiện mới, còn tình trạng mỗi cơ quan, đơn vị tuyển dụng công chức có những cách hiểu và cách làm khác nhau, chưa bảo đảm đúng yêu cầu trong tuyển dụng công chức, mà thường đặt ra các “tiêu chuẩn, điều kiện”, “quy định nội bộ” để định hướng, “ưu tiên” tuyển dụng con em trong ngành, những người có mối quan hệ thân thích,…
Cụ thể là: Luật Cán bộ, công chức năm 2008 quy định căn cứ tuyển dụng công chức là nhu cầu công việc, vị trí việc làm và chỉ tiêu biên chế được giao nhưng khó thực hiện triệt để trong thực tiễn.
Quy định tuyển dụng theo quy trình thi tuyển hoặc xét tuyển hiện nay còn chưa có độ “mở” cần thiết để có thể tuyển dụng được đúng người phù hợp với công việc, đặc biệt là trong công tác tuyển dụng, thu hút nhân tài, tạo cơ chế liên thông giữa nguồn nhân lực ở khu vực công và khu vực tư; cơ chế cạnh tranh theo vị trí việc làm để nâng cao chất lượng đội ngũ công chức.
Cách thức ra đề thi, nội dung và hình thức thi như hiện nay khó đánh giá được thực chất năng lực ứng viên. Quy trình thi tuyển, xét tuyển công chức được quy định như hiện nay rất khó thực hiện một cách hiệu quả trên thực tế, cần quy định rõ cách thức thực hiện và trách nhiệm của cơ quan chuyên trách, thống nhất thực hiện trên phạm vi cả nước.
Trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng công chức vẫn để xảy ra những sai phạm tại một số bộ, ngành, địa phương, gây ra những bức xúc trong xã hội.
Quá trình thực hiện cho thấy, các quy định hiện hành vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu về tuyển chọn và sử dụng nguồn nhân lực chất lượng cao của các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị. Các quy định về thu hút, trọng dụng nhân tài chủ yếu mới chỉ ưu tiên về tuyển dụng đầu vào mà chưa tạo cơ chế, môi trường, điều kiện làm việc để người tài có điều kiện phát huy tài năng, sở trường trong công tác(2).
Vì vậy, thời gian tới, pháp luật về tuyển dụng công chức ở Việt Nam cần cụ thể hóa, quán triệt sâu sắc chủ trương, quan điểm của Đảng, nhằm đáp ứng yêu cầu của quá trình toàn cầu hóa, hội nhập, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và gắn với nhiệm vụ trọng tâm của Văn kiện Đại hội XIII của Đảng và những yêu cầu của Tổng Bí thư Tô Lâm trong các bài viết, bài nói chuyện trên các diễn đàn, hội nghị quan trọng gần đây nhằm “khơi dậy mạnh mẽ tinh thần yêu nước, niềm tự hào, ý chí tự cường, lòng nhân ái, tinh thần đoàn kết, đồng thuận xã hội (…) xây dựng các cơ chế, chính sách phát huy tinh thần cống hiến vì đất nước của mọi người dân Việt Nam, phát huy tối đa nhân tố con người”. Đẩy mạnh “Phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, ưu tiên nguồn nhân lực cho công tác lãnh đạo, quản lý và các lĩnh vực then chốt trên cơ sở nâng cao, tạo bước chuyển biến căn bản, mạnh mẽ, toàn diện về chất lượng giáo dục, đào tạo gắn với tuyển dụng, sử dụng, đãi ngộ người tài,… khơi dậy khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc…”(3).
Bên cạnh đó, pháp luật về tuyển dụng công chức cần quán triệt quan điểm của Đảng tại Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 của Hội nghị Trung ương 7 khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược đầy đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ để định hướng việc tiếp tục đổi mới công tác tuyển dụng, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng và luân chuyển cán bộ: “Thống nhất việc kiểm định chất lượng đầu vào công chức để các địa phương, cơ quan, đơn vị lựa chọn, tuyển dụng theo yêu cầu, nhiệm vụ; đồng thời, nghiên cứu phân cấp kiểm định theo lĩnh vực đặc thù và theo vùng, khu vực”.
Có thể khẳng định rằng, các quy định của pháp luật hiện hành tạo hành lang pháp lý quan trọng cho công tác tuyển dụng công chức bảo đảm tính cụ thể, rõ ràng, minh bạch và khoa học. Tuy nhiên, trước yêu cầu của đất nước trong kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, đòi hỏi đội ngũ công chức có phải có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất, phong cách làm việc chuyên nghiệp, hiện đại, có khát vọng xây dựng đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Do vậy, cần phải thống nhất và hoàn thiện hơn về cơ sở pháp lý để tạo điều kiện cho công tác tuyển dụng công chức được thuận lợi.
3. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức
Để những chủ trương, quan điểm của Đảng được triển khai trong thực tiễn, phù hợp với tình hình mới hiện nay, cần cụ thể hóa các quy định của pháp luật, hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức theo các nội dung:
Một là, hoàn thiện pháp luật tuyển dụng công chức trên cơ sở giảm bớt số lượng văn bản quy phạm pháp luật, rà soát các văn bản quy phạm pháp luật như Luật Cán bộ, công chức; Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ;... và các nghị định, thông tư hướng dẫn. Quy định chi tiết hơn, cụ thể hơn trong một Luật cụ thể nào đó để giảm bớt số lượng văn bản hướng dẫn như nghị định, thông tư,... Đồng thời, bảo đảm tính đồng bộ, thống nhất giữa quy định của Luật Cán bộ, công chức với quy định trong hệ thống văn bản của Đảng và Nhà nước, loại bỏ những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập, thống nhất việc quy định hướng tới hình thành một văn bản cụ thể về tuyển dụng công chức để Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và người dân dễ quản lý, kiểm soát, theo dõi.
Hai là, hoàn thiện pháp luật tuyển dụng công chức theo hướng đội ngũ công chức đó có vai trò, sứ mệnh tận tụy phục vụ nhân dân, phụng sự đất nước, có khát vọng phát triển đất nước và bảo đảm mục tiêu xây dựng nhà nước kiến tạo phát triển, pháp luật về tuyển dụng công chức phải bắt kịp với xu thế phát triển và hội nhập sâu rộng với khu vực và thế giới, phù hợp với yêu cầu cải cách nền hành chính hiện đại, năng động, dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả theo nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chẳng hạn, xây dựng khung pháp lý về tuyển dụng công chức theo phương thức thi tuyển cạnh tranh kết hợp hài hòa với chính sách ưu tiên công chức cam kết về công tác tại vùng sâu, miền núi, hải đảo, chỉ có như vậy mới có thể lựa chọn được người có năng lực thực sự.
Ba là, hoàn thiện pháp luật về xây dựng ngân hàng đề thi tuyển dụng công chức, nghiên cứu quy định về xây dựng, thẩm định và ban hành ngân hàng đề thi tuyển dụng công chức, đề thi phải bảo đảm đánh giá được khả năng suy luận, phân tích, tổng hợp và nhất là các kỹ năng chuyên ngành cần có đối với ngạch, vị trí dự tuyển. Đề thi được ban hành theo hàng năm và có tính cập nhật về chủ trương, đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước và xu thế hội nhập bảo đảm tính thời sự, khoa học và thực tế. Đề thi phải được công khai và phù hợp với năng lực, trình độ, vị trí việc làm của công chức trung ương và công chức địa phương.
Bốn là, hoàn thiện pháp luật về hình thức tuyển dụng công chức và cơ quan độc lập trong thi tuyển công chức. Luật Cán bộ, công chức nên quy định duy nhất một hình thức, đó là thi tuyển cạnh tranh, thông qua kỳ thi tuyển quốc gia đối với công chức ở trung ương do một cơ quan độc lập tổ chức và kỳ thi tuyển công chức tại địa phương do chính quyền địa phương (UBND cấp tỉnh) tổ chức, bảo đảm nguyên tắc phân cấp, phân quyền trong tuyển dụng công chức. Dựa vào kết quả trúng tuyển, vị trí việc làm mà người thi tuyển đăng ký, Hội đồng thi tuyển công chức quốc gia hoặc Hội đồng thi tuyển công chức địa phương sẽ là đầu mối phân công công việc theo ngạch viên chức và vị trí việc làm.
Năm là, hoàn thiện pháp luật về chính sách thu hút, tạo nguồn công chức từ sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ tài năng. Hiện nay, Luật Cán bộ, công chức quy định hình thức xét tuyển đối với đối tượng là sinh viên tốt nghiệp xuất sắc, nhà khoa học trẻ tài năng, tuy nhiên nếu thực hiện nguyên tắc thi tuyển cạnh tranh thì không bảo đảm. Do vậy, bên cạnh việc thống nhất một hình thức tuyển dụng công chức là thi tuyển cạnh tranh thì không nên để hình thức xét tuyển đối với đối tượng này. Các quy định của pháp luật có thể hướng tới chính sách cộng điểm hoặc có chính sách ưu tiên khác khi họ tham gia thi tuyển cạnh tranh, nhằm thu hút nguồn nhân lực chất lượng cao và xóa bỏ hiện tượng chảy máu chất xám, tạo động lực để khuyến khích các đối tượng thi tuyển công chức là sinh viên phấn đấu, cố gắng trong quá trình học tập, nhưng cần cân nhắc sao cho phải bảo đảm tính công bằng trong tuyển dụng công chức.
Sáu là, hoàn thiện pháp luật về về tiêu chuẩn, điều kiện công chức cấp xã với công chức cấp tỉnh, huyện. Hiện nay, pháp luật quy định tiêu chuẩn, điều kiện công chức cấp xã đã ngang bằng với công chức cấp tỉnh, huyện, ví dụ: phải có bằng đại học, có chứng chỉ tin học, ngoại ngữ,... do vậy, các quy định của pháp luật về tuyển dụng công chức ở địa phương phải có tính liên thông, bảo đảm sau khi tuyển dụng công chức thì quá trình sử dụng công chức, dù công chức ở vị trí cấp xã có thể điều chuyển trở thành công chức cấp huyện, tỉnh và ngược lại. Đồng thời, cần bổ sung quy định về ngạch công chức cấp xã tương đương với công chức cấp huyện, tỉnh để công chức cấp xã đều được giữ ngạch chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp, thực tế công chức xã chỉ có ngạch chuyên viên, cán sự và nhân viên.
Bảy là, hoàn thiện các quy định pháp luật về kinh phí tổ chức Hội đồng thi tuyển cạnh tranh trong tuyển dụng công chức. Nhà nước cần dành nguồn kinh phí thỏa đáng phục vụ cho công tác tuyển dụng công chức, coi đây là một nội dung của nguồn kinh phí phục vụ chính sách phát triển kinh tế - xã hội của đất nước để có nguồn kinh phí hợp lý cho tuyển dụng công chức. Bỏ quy định thu lệ phí tuyển dụng công chức như hiện nay, tạo điều kiện cho những thí sinh có hoàn cảnh khó khăn đều có cơ hội tiếp cận với kỳ thi tuyển dụng công chức.
Tám là, hoàn thiện quy định pháp luật về thời gian tuyển dụng công chức. Cần quy định thống nhất về thời gian tổ chức thi tuyển công chức ở trung ương và địa phương phù hợp, thống nhất với thời gian tốt nghiệp của các thí sinh là sinh viên các trường đại học. Có như vậy, công tác tuyển dụng công chức mới khách quan, minh bạch, khoa học và đạt hiệu quả cao, thu hút được lực lượng lao động có trình độ và chất lượng trong xã hội vào làm việc tại khu vực công, không bị gián đoạn giữa thời gian học tập với thời gian thi tuyển công chức.
Chín là, hoàn thiện pháp luật về kiểm soát (thanh tra, kiểm tra, giám sát) và xử lý những vi phạm trong công tác tuyển dụng công chức, đảm bảo nguyên tắc kiểm soát quyền lực nhà nước, tránh sự lạm quyền, lộng quyền trong tuyển dụng công chức. Tuân thủ sự lãnh đạo trực tiếp, toàn diện của Đảng đối với công tác cán bộ nói chung và tuyển dụng công chức nói riêng; ban hành các văn bản phối hợp giữa cơ quan đảng và các cơ quan nhà nước ở trung ương, địa phương trong tuyển dụng công chức. Đồng thời, pháp luật về tuyển dụng công chức phải bảo đảm cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng về công tác cán bộ. Thực tế, trong quá trình tổ chức thực hiện chính sách, pháp luật về tuyển dụng công chức vẫn còn có những sai phạm tại một số bộ, ngành, địa phương, chưa thực sự tuyển dụng được người đáp ứng được các yêu cầu của vị trí việc làm,… gây ra những bức xúc trong dư luận xã hội trong thời gian vừa qua, do vậy, để bảo đảm chất lượng công chức và hạn chế những tiêu cực trong tuyển dụng công chức cần phải có cơ quan tuyển dụng độc lập, thống nhất trên phạm vi cả nước với sự kiểm soát chặt chẽ trong tuyển dụng công chức.
Mười là, hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức phải bảo đảm nguyên tắc bình đẳng giới, thực tiễn quy định của pháp luật hiện nay không có chế tài đối với các cơ quan, đơn vị, tổ chức không thực hiện đầy đủ các quy định về bình đẳng giới trong tuyển dụng công chức, mà quy định đó thường mang tính định hướng, khuyến khích nhiều hơn là những ràng buộc, những quy định bắt buộc phải thực hiện. Chính vì vậy, vẫn còn một số cơ quan, đơn vị, tổ chức trong thông báo tuyển dụng nêu rõ ưu tiên tuyển dụng nam hoặc ưu tiên nữ ở một số vị trí tuyển dụng công chức. Điều này dẫn đến giới tính trở thành rào cản trong việc trở thành công chức. Đồng thời, cần phải có các quy định của pháp luật trong tuyển dụng công chức để tận dụng hiệu quả cơ hội thuận lợi từ cơ cấu dân số vàng và phải có những quy định mang tính tiên đoán trước để thích ứng với xu thế già hóa dân số.
Mười một là, pháp luật tuyển dụng, sử dụng công chức cần phải thống nhất và phải bám sát với Quy định số 205-QĐ/TW về việc kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức, chạy quyền, Luật Phòng, chống tham nhũng về những quy định liên quan xung đột lợi ích, đặc biệt là các quy định trong tuyển dụng công chức là người thân thích và các thành viên trong gia đình của người có chức vụ quyền hạn, nhằm phòng, chống lãng phí, tham nhũng trong công tác tuyển dụng công chức hướng tới việc xây dựng và thực hiện quy chế tuyển dụng, công chức công khai, minh bạch, dân chủ.
4. Kết luận
Đất nước ta đang bước vào kỷ nguyên mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc với nhiều thời cơ và thách thức đan xen, đòi hỏi phải xây dựng chế độ công vụ, công chức phù hợp nhằm tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiến tạo phát triển, liêm chính, hành động.
Công chức là một vấn đề quan trọng trong hoạt động của bộ máy nhà nước, đặc biệt là trong điều kiện quốc tế hóa lực lượng sản xuất. Khi mà các chính sách xã hội đã tương đối phù hợp với thực tiễn thì điều kiện quyết định thành công hay thất bại là do công tác cán bộ - phát triển nguồn nhân lực. Thực hiện tốt công tác phát triển nguồn nhân lực là khâu then chốt, quyết định sự phát triển bền vững của xã hội.
Thực trạng pháp luật tuyển dụng công chức hiện nay cho thấy còn nhiều điều bất cập, vướng mắc gây ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị trong quá trình phục vụ nhân dân. Việc thiếu tinh thần trách nhiệm, yếu kém về năng lực, chuyên môn, kỹ năng hành chính… của đội ngũ công chức làm cho bộ máy hành chính nhà nước hoạt động trì trệ, kém hiệu quả, tình trạng quan liêu, tham nhũng, sách nhiễu nhân dân vẫn tồn tại trong một bộ phận công chức làm ảnh hưởng đến lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước.
Vì vậy, trong bối cảnh cải cách nền hành chính nhà nước hiện nay, việc tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tuyển dụng công chức sẽ góp phần quan trọng vào việc xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoạt động hiệu lực, hiệu quả, phù hợp với thực tiễn Việt Nam sẽ phát huy tối đa các nguồn lực của đất nước phục vụ yêu cầu xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
_________________
Ngày nhận bài: 9-11-2024; Ngày bình duyệt: 10-11-2024; Ngày duyệt đăng: 13-11-2024.
Email tác giả: tvquy1002@gmail.com
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.47.
(2) Xem Hoàng Mai: Hoàn thiện quy định pháp luật về tuyển dụng công chức bảo đảm tính thống nhất, khách quan, minh bạch, https://www.quanlynhanuoc.vn, ngày 12-12-2019.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.204.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
2. Quốc hội: Luật Cán bộ, công chức năm 2008 và Luật Sửa đổi, bổ sung Luật Cán bộ, công chức và Luật Viên chức năm 2019.
3. Bộ Nội vụ: Báo cáo số 4201/BC-BNV ngày 26-8-2018 về Tổng kết thi hành Luật Cán bộ, công chức từ năm 2010 đến năm 2017.
4. Bộ Nội vụ: Báo cáo gửi đại biểu Quốc hội tại Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV.
5. Ban Chấp hành Trung ương khóa XII: Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.
7. Nguyễn Thị Hồng Hải: Một số vấn đề về đổi mới tuyển dụng công chức ở Việt Nam. Tạp chí Tổ chức nhà nước, tháng 02-2017.