Nghiên cứu lý luận

Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội

22/01/2025 21:25

(LLCT) - Vấn đề quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội đã được đặt ra từ sớm trong lịch sử tư tưởng nhân loại. Với sự ra đời của chủ nghĩa Mác - Lênin, vấn đề này được giải quyết một cách khoa học và cách mạng triệt để hơn, nhất là về bản chất, biện pháp quản lý xã hội và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Đó là cơ sở lý luận quan trọng để chúng ta tiếp tục nghiên cứu, vận dụng và phát triển sáng tạo phù hợp với điều kiện của đất nước trong giai đoạn mới. Bài viết là sản phẩm của Đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia, mã số KX.02.34/21-25.

PGS, TS ĐOÀN TRIỆU LONG
Học viện Chính trị khu vực III

1. Chủ nghĩa Mác - Lênin nghiên cứu một cách toàn diện về mục tiêu, con đường, biện pháp, cơ chế, điều kiện và các lực lượng thực hiện quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, xã hội là tổng hòa những cá nhân con người hiện thực và những mối liên hệ giữa các cá nhân tạo thành cộng đồng xã hội. C.Mác viết: “Xã hội - cho dù nó có hình thức gì đi nữa - là cái gì? Là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người”(1) và “xã hội không phải gồm các cá nhân, mà xã hội biểu hiện tổng số những mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân đối với nhau”(2). Để các mối quan hệ xã hội nói riêng và xã hội nói chung phát triển lành mạnh, bền vững đòi hỏi có sự quản lý của các chủ thể liên quan.

Quản lý xã hội có thể được hiểu là sự tác động có ý thức, có mục đích của con người đến toàn bộ hoạt động, quá trình xã hội hoặc là từng khâu, từng mặt hoạt động, quá trình xã hội trên cơ sở nhận thức và vận dụng các quy luật khách quan, vốn có của xã hội nhằm tối ưu hóa hoạt động, quá trình xã hội vì sự tiến bộ, phát triển của con người, xã hội. Ph.Ăngghen cho rằng, đối với xã hội mới, việc quản lý, vận hành nền sản xuất cần có sự tham gia một cách tích cực của mọi thành viên xã hội. “Trước hết, việc quản lý công nghiệp và tất cả các ngành sản xuất nói chung sẽ không còn nằm trong tay của cá nhân riêng lẻ cạnh tranh với nhau nữa. Trái lại, tất cả các ngành sản xuất sẽ do toàn thể xã hội quản lý, tức là sẽ được tiến hành vì lợi ích chung, theo một kế hoạch chung và với sự tham gia của tất cả mọi thành viên trong xã hội”(3).

Đối tượng của quản lý xã hội là toàn bộ (hoặc là từng khâu, từng mặt) hoạt động, quá trình xã hội. Bản chất của quản lý xã hội là việc các chủ thể quản lý (một người, một nhóm người, một giai cấp, tầng lớp xã hội...) nhận thức và hành động theo các quy luật khách quan nhằm bảo đảm sự ổn định, phát triển, tiến bộ của con người và xã hội. Để làm được điều đó, các chủ thể quản lý xã hội phải nhận thức và giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa nhu cầu - lợi ích - mục đích với tư cách sợi dây kết nối cơ bản, điều kiện vận hành chủ yếu đời sống xã hội.

Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng có hai trình độ quản lý xã hội là quản lý xã hội tự phát và quản lý xã hội tự giác. Trình độ thứ nhất gắn liền với các hình thái kinh tế - xã hội cộng sản nguyên thủy, chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa. Trình độ thứ hai tương ứng với hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trình độ quản lý xã hội tự phát xuất hiện là do những xung đột lợi ích giữa các giai cấp, tầng lớp trong đời sống xã hội. Đối với các xã hội có giai cấp và nhà nước được xây dựng trên chế độ tư hữu thì quản lý xã hội nảy sinh chủ yếu do sự xuất hiện của mâu thuẫn đối kháng về lợi ích giữa các giai cấp cơ bản. Để duy trì trật tự hiện hành, giai cấp thống trị buộc phải quản lý xã hội, và dĩ nhiên theo cách thức và phương án của giai cấp mình. Ph.Ăngghen viết: “Tất cả những mối liên hệ phức tạp và muôn màu muôn vẻ ràng buộc con người phong kiến với “những bề trên tự nhiên” của mình, đều bị giai cấp tư sản thẳng tay phá vỡ, không để lại giữa người và người một mối quan hệ nào khác, ngoài lợi ích trần trụi và lối “tiền trao cháo múc” không tình không nghĩa”(4).

Trình độ quản lý xã hội tự giác tương ứng với quá trình hình thành, phát triển của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Quản lý xã hội toàn diện trên cơ sở sự tham gia một cách tự giác của khối đông đảo quần chúng nhân dân lao động với sự phục tùng một cách tự giác và có kỷ luật một cách lý tưởng. V.I.Lênin cho rằng: “Nhưng một sự thống nhất ý chí hết sức chặt chẽ có thể được đảm bảo bằng cách nào? Bằng cách làm cho ý chí của hàng nghìn người phục tùng ý chí của một người. Sự phục tùng đó có thể giống việc chỉ huy nhẹ nhàng của một viên nhạc trưởng, nếu như những người tham gia công việc chung đều tự giác và có kỷ luật một cách lý tưởng. Và sự phục tùng đó có thể được thực hiện bằng những hình thức độc tài gay gắt, nếu không có một kỷ luật và một sự tự giác lý tưởng”(5).

Với sự tiếp cận đó, quản lý xã hội theo quan điểm mác xít được biểu hiện ở những đặc trưng cơ bản:

Một là, quản lý xã hội là một tất yếu, gắn liền với trình độ phát triển của xã hội loài người. Bởi vì, bản chất xã hội là tổng hòa những con người cùng các mối liên hệ của họ. Bản chất con người, trong tính hiện thực của nó là tổng hòa những quan hệ xã hội. Cá nhân con người là tế bào của xã hội, chịu sự tác động, chi phối bởi các quan hệ xã hội. Trong đó, quan hệ sản xuất vật chất là cơ bản.

Bởi lẽ, con người muốn tồn tại thì phải có ăn, mặc, ở, đi lại... Muốn thỏa mãn những nhu cầu ấy, con người buộc phải sản xuất vật chất. Trong sản xuất vật chất sẽ thực hiện hai quan hệ song trùng là với tự nhiên và với những cá nhân khác, từ đó hình thành nên những quan hệ xã hội, sự phong phú trong đời sống kinh tế, chính trị, tinh thần.

C.Mác và Ph.Ăngghen cho rằng: “sự sản xuất ra đời sống - ra đời sống của bản thân mình bằng lao động, cũng như ra đời sống của người khác bằng việc sinh con đẻ cái - biểu hiện ngay ra là một quan hệ song trùng: một mặt là quan hệ tự nhiên, mặt khác là quan hệ xã hội, quan hệ xã hội với ý nghĩa đó là sự hợp tác của nhiều cá nhân, không kể là trong những điều kiện nào, theo cách nào và nhằm mục đích gì (…) và vì vậy người ta luôn luôn phải nghiên cứu và viết “lịch sử loài người” gắn liền với lịch sử của công nghiệp và của trao đổi”(6).

Hai là, trong xã hội có giai cấp và nhà nước, quản lý xã hội là hoạt động mang tính giai cấp, chủ yếu biểu hiện qua việc thực hiện chức năng của nhà nước. Đặc trưng của quản lý xã hội có giai cấp gắn liền với quyền lực của nhà nước, quyền lực áp đặt ý chí của giai cấp thống trị về kinh tế nhằm duy trì trật tự hiện hành. “Vì nhà nước nảy sinh ra từ nhu cầu phải kiềm chế những sự đối lập giai cấp; vì nhà nước đồng thời cũng nảy sinh ra giữa cuộc xung đột của các giai cấp ấy, cho nên theo lệ thường, nhà nước là nhà nước của giai cấp có thế lực nhất, của cái giai cấp thống trị về mặt kinh tế và nhờ có nhà nước mà cũng trở thành giai cấp thống trị về mặt chính trị và do đó có thêm được những phương tiện mới để đàn áp và bóc lột giai cấp bị áp bức”(7).

Như vậy, khi đề cập đến vấn đề nhà nước, hay quản lý xã hội trong xã hội có nhà nước thì phải nói đến bản chất nhà nước như là một tổ chức thực hiện quyền lực chính trị một cách đặc biệt để duy trì trật tự có mâu thuẫn giai cấp không thể điều hòa và đàn áp sự phản kháng của các giai cấp khác. Quản lý xã hội trong xã hội có giai cấp và nhà nước là việc thực hiện chức năng xã hội của nhà nước, trong mối quan hệ với chức năng chính trị của nhà nước. Chức năng xã hội của nhà nước là việc quản lý những hoạt động chung vì sự tồn tại của xã hội, chăm lo công việc chung của toàn xã hội và trong giới hạn có thể được nó phải thỏa mãn một số nhu cầu của cộng đồng dân cư trong xã hội.

Việc thực hiện chức năng xã hội là công việc của mọi nhà nước, nhưng tùy vào những điều kiện cụ thể của lịch sử, bản chất giai cấp của nhà nước mà tính ưu tiên trong thực hiện chức năng tổ chức, quản lý đời sống xã hội là khác nhau. Việc thực hiện chức năng xã hội có mối liên hệ mật thiết với nhau, thống nhất biện chứng với thực hiện chức năng giai cấp của một nhà nước. Ph.Ăngghen viết: “ở khắp nơi, chức năng xã hội là cơ sở của sự thống trị chính trị; và sự thống trị chính trị cũng chỉ kéo dài chừng nào nó còn thực hiện chức năng xã hội đó của nó”(8).

Ba là, quản lý xã hội trong thời kỳ quá độ lên CNXH gắn liền với hoạt động của nhà nước vô sản nhằm thay đổi toàn diện về chất đời sống xã hội, trong đó trọng tâm là quản lý và tổ chức nền kinh tế. V.I.Lênin đã tổng kết tính quy luật kinh tế trong thời kỳ quá độ, nhấn mạnh vai trò của nhà nước chuyên chính vô sản trong việc duy trì quyền thống trị chính trị của giai cấp vô sản, nhất là việc tổ chức, quản lý xã hội, xây dựng chủ nghĩa cộng sản. Tính quy luật đó, vừa phản ánh bản chất của thời kỳ quá độ lên CNXH, vừa phản ánh vai trò, vị trí của nhà nước XHCN trong việc quản lý nền kinh tế. Bởi vì, “Người ta không thể giải quyết nhiệm vụ đó bằng cách đánh đổ một giai cấp nào đó. Người ta chỉ có thể giải quyết nhiệm vụ đó bằng cách cải tạo lại toàn bộ nền kinh tế xã hội, bằng cách chuyển từ nền kinh tế hàng hóa nhỏ, cá nhân, riêng lẻ, sang nền kinh tế tập thể lớn. Bước quá độ này tất nhiên là rất dài. Dùng những biện pháp lập pháp hay hành chính hấp tấp và không thận trọng, thì chỉ làm cho bước quá độ đó kéo dài thêm và chỉ thêm khó khăn cho nó mà thôi”(9).

Rõ ràng, một trong những nhiệm vụ quan trọng của nhà nước thời kỳ quá độ lên CNXH là việc thực hiện nhiệm vụ của giai cấp vô sản trong xây dựng xã hội mới. Nhiệm vụ quản lý xã hội trong giai đoạn này là tổ chức nền kinh tế của CNXH nhằm bảo đảm thực hiện tốt vai trò lịch sử của giai cấp vô sản, đó là tạo ra một năng suất lao động cao hơn nhằm duy trì địa vị chính trị, địa vị kinh tế của giai cấp vô sản.

Quản lý xã hội của nhà nước XHCN thể hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế. Theo V.I.Lênin, việc quản lý nền kinh tế XHCN thể hiện ở việc tổ chức xây dựng nền kinh tế mới trên cơ sở sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất; phát triển lực lượng sản xuất, thúc đẩy tăng năng suất lao động. Bởi vì, “Xét đến cùng thì năng suất lao động là cái quan trọng nhất, chủ yếu nhất cho thắng lợi của chế độ xã hội mới. Chủ nghĩa tư bản đã tạo ra một năng suất lao động chưa từng thấy dưới chế độ nông nô. Chủ nghĩa tư bản có thể bị đánh bại hẳn, và sẽ bị đánh bại hẳn, vì chủ nghĩa xã hội tạo ra một năng suất lao động mới, cao hơn nhiều. Đó là sự nghiệp rất khó khăn và rất lâu dài, nhưng sự nghiệp đó đã bắt đầu”(10).

Năm 1920, nền kinh tế Nga lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng. Đại hội X của Đảng Cộng sản Bônsêvích Nga (họp từ ngày 8-3 đến ngày 16-3-1921) đã chủ trương thay Chính sách cộng sản thời chiến bằng Chính sách kinh tế mới (NEP). Chính sách kinh tế mới của V.I.Lênin đã mở đường cho tư tưởng về phát triển nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ. Nhà nước của giai cấp vô sản cần thừa nhận nền kinh tế có sự trao đổi, mua bán cùng tồn tại với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa. V.I.Lênin cho rằng chính quyền Xôviết và nền chuyên chính vô sản thừa nhận trong một chừng mực nào đó, quyền tự do buôn bán và nền kinh tế cá thể song song với nền kinh tế xã hội chủ nghĩa(11).

Mặt khác, quản lý xã hội trong giai đoạn này thể hiện ở chỗ nhà nước XHCN là công cụ để khắc phục những khuyết tật, tiêu cực của nền kinh tế thị trường. Công việc của nhà nước là thực hiện nghiêm chế độ kiểm kê, kiểm soát, ngăn chặn những hành vi buôn lậu, gian lận, trốn thuế của một số giai tầng khác trên thị trường. V.I.Lênin chỉ rõ: “Giai cấp tiểu tư sản chống lại bất cứ sự can thiệp kiểm kê và kiểm soát nào của nhà nước dù là chủ nghĩa tư bản nhà nước hay chủ nghĩa xã hội nhà nước”(12). Nhà nước XHCN có vai trò và trách nhiệm quản lý nhà nước về kinh tế, với đầy đủ phương tiện để cho phép những quan hệ đó - những quan hệ hiện đang có ích và cần thiết trong hoàn cảnh sản xuất nhỏ - phát triển có chừng mực nhất định và có thể kiểm soát chúng.

Bốn là, quản lý xã hội trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản chỉ là một bước quá độ để tiến lên hình thức quản lý xã hội cao hơn về chất - tự quản cộng sản chủ nghĩa. Qua nghiên cứu sự phát triển của lịch sử xã hội loài người, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin đã phát hiện tính quy luật trong quá trình phát triển biện chứng của quản lý xã hội. Đó là sự phát triển từ hình thức tự quản sơ khai trong thời kỳ xã hội chưa phân chia giai cấp, đến xã hội có giai cấp thông qua vai trò quản lý của nhà nước. Sự phát triển của nền sản xuất vật chất, hoạt động chính trị xã hội, sự phát triển của khoa học đã tạo ra những tiền đề vật chất khách quan cho sự phát triển đến hình thức cao của quản lý xã hội.

Tự quản cộng sản chủ nghĩa với tư cách là hình thức cao nhất của quản lý xã hội trong hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là kết quả của sự phát triển từ quản lý xã hội thông qua vai trò của nhà nước chuyên chính vô sản, gắn liền với sự tự tiêu vong của nhà nước XHCN. C.Mác viết: “trong xã hội cộng sản, trong đó không ai bị hạn chế trong một phạm vi hoạt động độc chuyên, mà mỗi người đều có thể tự hoàn thiện mình trong bất kỳ lĩnh vực nào thích, thì xã hội điều tiết toàn bộ nền sản xuất, thành thử tôi có khả năng hôm nay làm việc này, ngày mai làm việc khác, buổi sáng đi săn, quá trưa đi đánh cá, buổi chiều chăn nuôi, sau bữa cơm thì làm việc phê phán, tùy theo sở thích của tôi mà chẳng bao giờ trở thành người đi săn, người đánh cá, người chăn nuôi hoặc nhà phê phán cả”(13). Hình thức quá độ chính trị của nhà nước chuyên chính vô sản sẽ là bước trung gian quá độ, là giai đoạn chuyển tiếp, là phòng chờ cho quá trình quản lý xã hội ở giai đoạn phát triển cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.

Quản lý xã hội trong chủ nghĩa cộng sản là một sự kiểm soát và thống trị một cách có ý thức đối với các quy luật, tính quy luật vận động, biến đổi và phát triển của lịch sử. Sự kiểm soát và thống trị một cách có ý thức này hoàn toàn trái ngược, đối lập với các hình thức quản lý xã hội nảy sinh một cách tự nhiên do những xung đột về lợi ích giữa các giai cấp cơ bản trong xã hội có giai cấp, do mặt trái của cách mạng công nghiệp, tính chất vô chính phủ của nền kinh tế thị trường tự do,... “Sự phụ thuộc toàn diện, hình thức hình thành một cách tự nhiên ấy của sự hợp tác có tính lịch sử - thế giới của các cá nhân, sẽ được cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa biến thành sự kiểm soát và sự thống trị có ý thức đối với những lực lượng nảy sinh ra từ tác động lẫn nhau giữa những con người và cho đến nay vẫn chi phối và thống trị con người với tư cách là những lực lượng hoàn toàn xa lạ với con người”(14).

Quản lý xã hội trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng sản là bước phát triển trung gian để tiến lên nấc thang cao hơn của quản lý xã hội một cách tự do, tự giác và “Chỉ có sự tổ chức tự giác nền sản xuất xã hội - trong đó người sản xuất và phân phối theo kế hoạch mới nâng được con người lên trên giới động vật về mặt xã hội, cũng như bản thân sự sản xuất đã nâng cao con người lên trên giới động vật về mặt sinh học. Sự phát triển lịch sử làm cho một sự tổ chức như thế trở nên ngày càng cần thiết và cũng ngày càng có thể thực hiện được. Tổ chức đó sẽ mở đầu một thời kỳ lịch sử mới, trong đó bản thân con người - và cùng với con người, là tất cả các ngành hoạt động của con người, kể cả khoa học tự nhiên nói riêng - sẽ có được những tiến bộ đến mức hoàn toàn làm lu mờ tất cả những cái từ trước tới nay”(15).

2. Mục tiêu của quản lý xã hội theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin là hướng đến tiến bộ và công bằng xã hội. Tiến bộ xã hội là một xu thế tất yếu; là sự thay đổi về chất của các chế độ xã hội khác nhau trong lịch sử, mà ở đó các quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, trên cơ sở đó xây dựng một kiến trúc thượng tầng tương ứng. Tiến bộ xã hội là sự phát triển về chất của các hình thái kinh tế - xã hội. Trong đó, sự phát triển của lực lượng sản xuất là nguồn gốc của tiến bộ xã hội. Quan hệ sản xuất là đặc trưng của tiến bộ xã hội. Kiến trúc thượng tầng là sản phẩm và đồng thời chi phối quá trình tiến bộ xã hội. C.Mác viết: “mỗi giai đoạn của lịch sử đều gặp một kết quả vật chất nhất định, một tổng số nhất định những lực lượng sản xuất, một quan hệ - được tạo ra trong quá trình lịch sử - của những cá nhân với tự nhiên và với những người khác, quan hệ mà mỗi thế hệ nhận được của những tiền bối của mình, một khối lớn những lực lượng sản xuất, những tư bản và những điều kiện, tức là những thứ một mặt bị thế hệ mới làm biến đổi đi, song mặt khác lại quy định cho thế hệ mới những điều kiện sinh hoạt của chính thế hệ mới và làm cho thế hệ mới có một sự phát triển nhất định, một tính chất riêng biệt”(16).

Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất bao giờ cũng là nguồn gốc cho sự phát triển của xã hội. “Trình độ phát triển của lực lượng sản xuất của một dân tộc biểu lộ ra rõ nhất ở trình độ phát triển của sự phân công lao động. Bất cứ sức sản xuất mới nào, trong chừng mực không phải chỉ là sự mở đầu đơn thuần về số lượng những lực lượng sản xuất mà người ta đã biết cho đến lúc đó (ví dụ như sự khai phá đất đai mới), cũng đều mang lại kết quả là sự phát triển nữa của phân công lao động”(17). Trong đó, sự phát triển của công cụ lao động, theo V.I.Lênin là tiêu chí tối cao của tiến bộ xã hội. Công cụ lao động là yếu tố động nhất, thường xuyên được cải tiến. Trình độ của công cụ lao động quy định trình độ của lực lượng sản xuất, khả năng chinh phục tự nhiên của con người.

Theo C.Mác, tiến bộ xã hội phải gắn với thực hiện công bằng xã hội. Tuy nhiên, không có công bằng chung cho mọi chế độ xã hội. Mỗi chế độ xã hội có điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, các giai cấp gắn liền với điều kiện kinh tế đó có địa vị khác nhau, nên quan niệm về công bằng xã hội cũng khác nhau và mang tính giai cấp rõ rệt. Ngay cả trong giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản, do mới thoát thai từ xã hội tư bản, chủ nghĩa cộng sản chưa phát triển trên cơ sở của chính mình, nên không tránh khỏi sự ảnh hưởng của xã hội tư bản. Vì vậy, công bằng xã hội ít nhiều vẫn có những bất công nhất định. Khi lực lượng sản xuất chưa phát triển đến trình độ cao, con người chưa phát triển toàn diện, còn phụ thuộc vào phân công lao động xã hội, thì chưa thể thực hiện đầy đủ nguyên tắc công bằng xã hội. Đòi hỏi thực hiện công bằng xã hội ở mức quá cao so với trình độ phát triển của kinh tế là ảo tưởng, không thực tế, và điều đó sẽ cản trở sự phát triển của xã hội. Chính vì vậy, trong chủ nghĩa xã hội (giai đoạn đầu của chủ nghĩa cộng sản) phân phối dựa theo lao động. Chỉ khi lên chủ nghĩa cộng sản với một trình độ phát triển cao của lực lượng sản xuất, xã hội và con người, thì công bằng xã hội mới được thực hiện đầy đủ với sự phân phối theo nhu cầu.

Với cách tiếp cận đó, thực hiện tiến bộ xã hội và công xã hội trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin cần được hiểu:

Một là, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là xu thế phát triển tất yếu, phản ánh tính quy luật của sự vận động xã hội. Trên cơ sở phân tích cấu trúc của các hình thái kinh tế - xã hội, C.Mác coi “sự phát triển của những hình thái kinh tế - xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên”(18). Tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là một tất yếu của lịch sử, là quá trình phát triển xã hội từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Xét ở góc độ giá trị, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là một quy luật của lịch sử, nó là sự thống nhất giữa nhu cầu và khả năng của con người, là sự giải quyết mối quan hệ giữa tồn tại và bản chất, phản ánh khát vọng vươn tới tự do, hạnh phúc của con người. C.Mác từng khẳng định: “Chủ nghĩa cộng sản là hình thức tất yếu và là nguyên tắc kiên quyết của tương lai sắp tới”(19).

Hai là, sự phát triển của lịch sử xã hội không phải là một đường thẳng tắp, mà bao hàm những bước quanh co, phức tạp và thụt lùi tạm thời. V.I.Lênin khẳng định: “Lịch sử thế giới tiến lên một cách đều đặn, bằng phẳng, không có - đôi khi - những bước nhảy lùi lớn, thì là không biện chứng, không khoa học, không đúng về mặt lý luận”(20). Tuy nhiên, xu hướng chung của xã hội vẫn là hướng đến tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Vì vậy, trong quá trình cải tạo xã hội không thể không phát huy vai trò chủ thể của con người trong việc nhận thức và hành động theo quy luật khách quan nhằm bảo đảm cho tiến trình phát triển xã hội diễn ra đúng quy luật, hạn chế tối đa sự xuất hiện và tác động của những biểu hiện tiêu cực, lạc hậu.

Ba là, giai cấp, đấu tranh giai cấp và lực lượng xã hội tiến bộ là một trong những động lực cơ bản trong thúc đẩy tiến bộ xã hội và công bằng xã hội qua việc nhận thức và vận dụng đúng đắn các quy luật khách quan. Thời kỳ phong kiến suy tàn, giai cấp tư sản đã từng đóng vai trò tích cực trong lịch sử thể hiện ở việc xóa bỏ tính cát cứ của nền kinh tế phong kiến, tạo ra một lực lượng sản xuất đồ sộ, xóa bỏ nền chuyên chính hành chính và nền chuyên chính tinh thần của giai cấp phong kiến. Đến lượt mình, giai cấp tư sản trong chế độ tư bản chủ nghĩa trở thành giai cấp áp bức bóc lột mới.

Giai cấp công nhân trở thành một giai cấp tiến bộ, đại biểu cho phương thức sản xuất mới cùng với các tầng lớp nhân dân lao động thực hiện cuộc cách mạng giải phóng giai cấp, giải phóng con người. “Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản. Nhưng giai cấp tư sản không những đã rèn những vũ khí sẽ giết mình; nó còn tạo ra những người sử dụng vũ khí ấy chống lại nó, đó là những công nhân hiện đại, những người vô sản”(21).

Bốn là, tiến bộ xã hội và công bằng xã hội là một quá trình biện chứng bao giờ cũng bắt đầu từ những nguyên nhân kinh tế và việc giải quyết mối quan hệ giai cấp trong xã hội có giai cấp và nhà nước. Nguyên nhân kinh tế và nguyên nhân chính trị - xã hội là hai điều kiện cơ bản, động lực cơ bản thúc đẩy tiến bộ xã hội và công bằng xã hội.

Quan điểm duy vật lịch sử khẳng định rằng muốn nghiên cứu sự vật và hiện tượng trong đời sống xã hội, cũng như quy luật phát triển của nó bao giờ cũng bắt đầu từ những nguyên nhân kinh tế. “Cơ sở kinh tế thay đổi thì toàn bộ cái kiến trúc thượng tầng đồ sộ cũng bị đảo lộn ít nhiều nhanh chóng”(22). Sự đảo lộn trong cơ sở kinh tế là nguồn gốc cho sự đảo lộn của toàn bộ kiến trúc thượng tầng tương ứng. Trong xã hội có giai cấp và nhà nước, đồng thời với những nguyên nhân kinh tế, quan hệ giai cấp có tác động mạnh mẽ đến tiến bộ xã hội và công bằng xã hội. Phụ thuộc vào tính chất tiến bộ của giai cấp là trung tâm của thời đại, biểu hiện ở quan hệ chính trị của giai cấp đó. C.Mác cho rằng: “sự tác động qua lại giữa hai lực lượng không giống nhau: một bên là của sự vận động kinh tế, còn bên kia là của lực lượng chính trị mới đang vươn tới tính độc lập càng lớn càng tốt và một khi nó bắt đầu hoạt động thì nó cũng có sự vận động riêng của nó. Sự vận động kinh tế nói chung và nhìn tổng thể sẽ tiện mở đường cho mình, nhưng nó cũng sẽ chịu sự tác động ngược lại của sự vận động chính trị mà chính nó tạo ra và có tính độc lập tương đối”(23).

Như vậy, trong quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội có mối quan hệ thống nhất biện chứng. Quản lý xã hội phải hướng đến thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội. Ngược lại, tiến bộ và công bằng xã hội tạo điều kiện để quản lý xã hội hiệu quả. Trong xã hội có giai cấp, quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội mang bản chất của giai cấp cầm quyền. Chỉ khi lên CNXH, chủ nghĩa cộng sản thì quản lý xã hội và tiến bộ, công bằng xã hội mới có điều kiện bảo đảm thực hiện đầy đủ.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 12-2023

Ngày nhận bài: 14-12-2023; Ngày bình duyệt: 18-12-2023; Ngày duyệt đăng: 20-12-2023.

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.27, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 1996, tr.657.

(2) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.46, phần I, Sđd, 1998, tr.355.

(3), (4), (21) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.4, Sđd, 1995, tr.467, 600, 605.

(5), (12) V.I.Lênin: Toàn tập, t.36, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.245, 363.

(6), (16) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Sđd, 1995, tr.42, 54-55.

(7) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.21, Sđd, 1995, tr. 255.

(8), (15) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.20, Sđd, 2002, tr.253, 477.

(9), (10) V.I.Lênin: Toàn tập, t.39, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.316, 25.

(11) Xem V.I.Lênin: Toàn tập, t.43, Sđd, tr.174-175.

(13), (14), (17) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.3, Sđd, 1995, tr.47, 53, 30.

(18) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.23, Sđd, 2002, tr.21.

(19) C.Mác và Ph.Ăngghen: t.42, Toàn tập, Sđd, 2000, 183.

(20) V.I.Lênin: Toàn tập, t.30, Sđd, 2006, tr.8.

(22) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.13, Sđd, 2000, tr.15.

(23) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.37, Sđd, 1995, tr.677-678.