Năng lực chuyển đổi số của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội hiện nay
(LLCT) - Chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các trường đại học nói chung và các trường quân đội nói riêng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong bối cảnh hiện nay. Nâng cao năng lực chuyển đổi số của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội là vấn đề cấp thiết, là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Bài viết phân tích lý luận về năng lực chuyển đổi số của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội, từ đó đề xuất giải pháp phát triển năng lực này trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
BÙI DUY HÙNG
Học viện Kỹ thuật quân sự, Bộ Quốc phòng

1. Mở đầu
Hiện nay, chuyển đổi số là xu hướng tất yếu, khách quan, là vấn đề sống còn, có ý nghĩa quyết định đến sự phát triển của mọi quốc gia, dân tộc. Đảng và Nhà nước ta đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách đẩy mạnh chuyển đổi số trên tất cả các lĩnh vực, trong đó quốc phòng là lĩnh vực được quan tâm đầu tư và phát triển. Thực hiện chủ trương, định hướng chiến lược của Đảng và Nhà nước về chuyển đổi số, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tập trung lãnh đạo, chỉ đạo toàn quân quyết liệt quán triệt, nâng cao nhận thức, xây dựng, củng cố hạ tầng kỹ thuật, đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ và chuyển đổi số trong thực hiện nhiệm vụ quân sự, quốc phòng; đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực.
Giảng viên khoa học xã hội và nhân văn (KHXH&NV) ở các nhà trường quân đội là lực lượng được đào tạo cơ bản, chuyên sâu về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, có vai trò quan trọng góp phần xây dựng Quân đội cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Trong kỷ nguyên mới, vai trò của đội ngũ giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội ngày càng được nâng cao đáp ứng yêu cầu mới về phẩm chất, trình độ, năng lực, nhất là năng lực chuyển đổi số. Đây là vấn đề cốt lõi, quyết định đến thắng lợi của công cuộc chuyển đổi số quốc gia, cũng như trong quân đội. Do đó, năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV là điều kiện để thực hiện tốt nhiệm vụ giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận trong môi trường chuyển đổi số.
2. Nội dung
2.1. Lý luận về năng lực chuyển đổi số của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội
Năng lực là phạm trù được luận bàn trong nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Theo Từ điển tiếng Việt, năng lực là: “1- Khả năng, điều kiện chủ quan hoặc tự nhiên sẵn có để thực hiện một hoạt động nào đó; 2- Phẩm chất tâm lý và sinh lý tạo cho con người khả năng hoàn thành một loại hoạt động nào đó với chất lượng cao”(1). Như vậy, năng lực có thể hiểu là tổng hòa các yếu tố tri thức, kỹ năng và thái độ của chủ thể tạo thành sức mạnh chủ quan, được chủ thể huy động vào thực hiện một hoạt động thực tiễn nhất định với mục đích, yêu cầu, nhiệm vụ, điều kiện cụ thể.
Bàn về chuyển đổi số, các nhà nghiên cứu đã có những cách tiếp cận đa chiều. Theo Bộ Thông tin và Truyền thông, chuyển đổi số là “bước phát triển tiếp theo của tin học hóa, có được nhờ sự tiến bộ vượt bậc của những công nghệ mới mang tính đột phá, nhất là công nghệ số”; là “quá trình thay đổi tổng thể và toàn diện của cá nhân, tổ chức về cách sống, cách làm việc và phương thức sản xuất dựa trên công nghệ số”(2). Như vậy, chuyển đổi số là quá trình sử dụng công nghệ số để thay đổi căn bản phương pháp, cách thức hoạt động của chủ thể nhằm nâng cao hiệu quả, chất lượng, tăng cường giá trị, đổi mới sáng tạo, tạo ra mô hình, phương thức quản lý, điều hành mới. Chuyển đổi số không đơn thuần là việc áp dụng công nghệ số mà còn bao hàm sự thay đổi trong tư duy, văn hóa tổ chức, cách thức vận hành để tận dụng tối đa tiềm năng mà công nghệ số mang lại, tạo ra giá trị mới. Cần phân biệt giữa số hóa và chuyển đổi số, bởi điều này có ý nghĩa quan trọng trong xác định nhận thức, hình thành, phát triển phẩm chất, năng lực của cá nhân đáp ứng các mục tiêu, yêu cầu cụ thể. Theo đó, số hóa là mắt xích quan trọng, bước đầu tiên trong quá trình chuyển đổi số, là quá trình biến đổi các giá trị, thông tin thực sang giá trị, thông tin số, là quá trình ứng dụng công nghệ thông tin vào vận hành, giúp việc xử lý thông tin trở nên dễ dàng, nâng cao hiệu suất, hiệu quả trong công việc.
Trên cơ sở tiếp cận đó, năng lực chuyển đổi số có thể hiểu là khả năng của một tổ chức, cá nhân hoặc hệ thống trong việc áp dụng, khai thác và tận dụng các công nghệ số để cải thiện hiệu quả hoạt động, đổi mới quy trình, tối ưu hóa tài nguyên và tạo ra giá trị mới. Trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, việc chuyển đổi số trong giáo dục là mục tiêu quan trọng của quốc gia, nhất là yêu cầu về năng lực chuyển đổi số của các chủ thể.
Giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội là đội ngũ sĩ quan chính trị được đào tạo cơ bản, chuyên sâu về sư phạm theo các chuyên ngành KHXH&NV, có đủ điều kiện, tiêu chuẩn về phẩm chất, trình độ, năng lực đảm nhiệm giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận ở các nhà trường quân đội. Cùng với đó, KHXH&NV là một trong những ngành khoa học được Đảng, Nhà nước và Quân đội quan tâm, chú trọng, đẩy mạnh quá trình chuyển đổi số trong toàn quân. Do đó, năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội có vai trò to lớn, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính trị trung tâm của người giảng viên, đồng thời đóng góp tích cực vào công cuộc chuyển đổi số quốc gia và của Quân đội.
Năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội là tổng hòa các yếu tố tri thức, kỹ năng và thái độ tạo thành sức mạnh chủ quan của giảng viên được huy động vào khai thác, ứng dụng công nghệ số để cải thiện chất lượng, hiệu quả giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận gắn với quá trình đào tạo ở các nhà trường quân đội trong điều kiện lịch sử cụ thể.
Về cấu trúc, năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội bao gồm hệ thống tri thức khoa học chuyên ngành, liên ngành và tri thức về chuyển đổi số; kỹ năng chuyển đổi số trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận; thái độ, trách nhiệm trong chuyển đổi số. Các yếu tố này có mối quan hệ thống nhất, biện chứng với nhau:
Một là, tri thức khoa học chuyên ngành, liên ngành và tri thức chuyển đổi số. Đó là tri thức lý luận chính trị, tri thức khoa học xã hội và nhân văn bao gồm những hiểu biết sâu sắc về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lịch sử Đảng, tâm lý học quân sự, công tác đảng, công tác chính trị trong lực lượng vũ trang và khoa học nghệ thuật quân sự, sư phạm quân sự,... Đồng thời, có hiểu biết, tri thức về chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo quân đội, từ đó tạo được nhận thức đúng đắn, chuyển đổi về tư duy, chuyển đổi về các mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số; những hiểu biết về các công cụ, nền tảng công nghệ số.
Hai là, kỹ năng vận dụng tri thức, kinh nghiệm trong ứng dụng công nghệ số vào quá trình giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Trong giảng dạy, đó là kỹ năng sử dụng thành thạo công nghệ số trong phát triển chương trình, biên soạn tài liệu; giảng dạy và đánh giá. Trong nghiên cứu khoa học, đó là kỹ năng khai thác cơ sở dữ liệu số trong lựa chọn, xác định vấn đề nghiên cứu; kỹ năng thu thập và xử lý thông tin số dựa trên các phần mềm phân tích dữ liệu; kỹ năng ứng dụng công nghệ số vào báo cáo, trình bày kết quả nghiên cứu, số hóa công trình nghiên cứu trên nền tảng số. Trong đấu tranh tư tưởng, lý luận, đó là kỹ năng nhận diện các quan điểm sai trái, thù địch; kỹ năng phân tích và phản biện trên không gian mạng; xây dựng nội dung tuyên truyền số.
Ba là, thái độ tích cực, tinh thần trách nhiệm trong thực hiện các nhiệm vụ, bản lĩnh chính trị của người giảng viên. Giảng viên phải có thái độ tích cực học hỏi, thích ứng với các công nghệ mới trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận, đồng thời thể hiện được tinh thần đổi mới sáng tạo trong ứng dụng công nghệ số để nâng cao chất lượng chuyên môn. Giảng viên có trách nhiệm cam kết mang lại giá trị tri thức cao nhất cho học viên thông qua các phương pháp, cách thức giảng dạy hiện đại, phù hợp; trách nhiệm trong nghiên cứu khoa học bảo đảm tính chính xác, khách quan, khoa học; trách nhiệm trong kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, phản bác các luận điệu sai trái, thù địch. Đặc biệt, trong bối cảnh internet và mạng xã hội bùng nổ thì việc giữ vững bản lĩnh, kiên định về lập trường chính trị, không phai nhạt tư tưởng, đạo đức cách mạng của giảng viên phải được đặt lên hàng đầu, nhất là tinh thần sẵn sàng đối mặt với những thách thức về tư tưởng trên không gian số.
Các yếu tố cấu thành năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội vừa có tính thống nhất, vừa có tính riêng biệt tạo thành một chỉnh thể sức mạnh chủ quan của người giảng viên, góp phần xây dựng năng lực toàn diện, giúp người giảng viên khai thác, ứng dụng hiệu quả công nghệ số vào nâng cao chất lượng giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận trong điều kiện lịch sử - cụ thể hiện nay.
2.2. Giải pháp phát triển năng lực chuyển đổi số của giảng viên khoa học xã hội và nhân văn ở các nhà trường quân đội
Để tạo bước đột phá chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo quân sự, việc thực hiện đồng bộ các giải pháp phát triển năng lực chuyển đổi số đối với giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội có ý nghĩa cấp thiết, cụ thể:
Một là, nâng cao nhận thức của các chủ thể về phát triển năng lực chuyển đổi số của giảng viên
Cấp ủy, chỉ huy các cấp ở các nhà trường quân đội là chủ thể lãnh đạo, chỉ đạo phát triển năng lực chuyển đổi số của giảng viên. Do đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp phải nâng cao nhận thức về nội dung, yêu cầu chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo, tầm quan trọng của năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV. Theo đó, cấp ủy, chỉ huy các cấp lãnh đạo, chỉ đạo, quán triệt thực hiện nghiêm công tác giáo dục, tuyên truyền nhằm tạo chuyển đổi về nhận thức một cách toàn diện đối với toàn thể quân nhân trong đơn vị, trên cơ sở đó thống nhất giữa nhận thức và hành động trong chuyển đổi số. Nhận thức đúng đắn về vị trí, vai trò của giảng viên KHXH&NV là một trong những chủ thể trung tâm của chuyển đổi số, mối quan hệ giữa giảng viên KHXH&NV và công nghệ số, mối quan hệ giữa thể chế, chính sách và công nghệ số, từ đó đưa các nội dung chuyển đổi số, năng lực chuyển đổi số của giảng viên vào chiến lược phát triển, nghị quyết lãnh đạo của đảng ủy nhà trường.
Cơ quan chức năng ở các nhà trường quân đội là chủ thể có trách nhiệm tham mưu, đề xuất với đảng ủy, ban giám đốc (ban giám hiệu) về chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, từ đó xây dựng hướng dẫn, kế hoạch triển khai cụ thể, sát thực nhằm phát triển năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV gắn với mục tiêu, yêu cầu giáo dục, đào tạo của nhà trường. Xây dựng bộ tiêu chí đánh giá năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV; kịp thời đề xuất biểu dương, khen thưởng, nhân rộng điển hình tiên tiến trong khai thác, áp dụng công nghệ số vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận.
Giảng viên KHXH&NV cần phát huy tính tích cực, tự giác trong tích lũy, trau dồi tri thức, rèn luyện kỹ năng, xây dựng thái độ, trách nhiệm tích cực, đúng đắn đối với công cuộc chuyển đổi số trong giáo dục, đào tạo ở các nhà trường quân đội.
Năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chất lượng giáo dục, nghiên cứu khoa học, và đấu tranh tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển mình mạnh mẽ của dân tộc.
Hai là, nâng cao trình độ kiến thức toàn diện, bồi dưỡng kỹ năng, xây dựng thái độ đúng đắn cho giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội về chuyển đổi số
Đây là giải pháp quan trọng góp phần nâng cao từng yếu tố cấu thành năng lực chuyển đổi số của giảng viên. Cấp ủy, chỉ huy các cấp, cơ quan tham mưu đề xuất tổ chức các lớp đào tạo chuyên sâu, nâng cao trình độ tri thức khoa học chuyên ngành và liên ngành trong kỷ nguyên mới; xây dựng các chương trình tập huấn tích hợp giữa KHXH&NV và công nghệ số, nội dung cơ bản, cốt lõi về chuyển đổi số, cách thức, phương pháp khai thác, ứng dụng công nghệ số vào giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng kỹ năng chuyển đổi số trong giảng dạy như kỹ năng thiết kế bài giảng tương tác, giáo án trực tuyến (E-learning), phương pháp, cách thức giảng dạy trực tuyến, dạy học kết hợp, số hóa nội dung, tài liệu, hệ thống quản lý học tập (LMS) với việc phát huy vai trò của người học, lấy người học là trung tâm của chuyển đổi số. Xây dựng, tổ chức các lớp học tập huấn, bồi dưỡng kỹ năng chuyển đổi số trong nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận bao gồm hướng dẫn sử dụng thư viện số, xuất bản các nghiên cứu khoa học trên nền tảng số, bài giảng điện tử về bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, Quân đội. Xây dựng thái độ tích cực của giảng viên về công tác chuyển đổi số giáo dục, đào tạo trong quân đội, vai trò năng lực chuyển đổi số, từ đó thúc đẩy nhận thức và hành động, tri thức và kỹ năng chuyển đổi số của giảng viên.
Ba là, xây dựng môi trường chuyển đổi số tích cực ở các nhà trường quân đội
Môi trường chuyển đổi số tích cực đóng vai trò nền tảng trong phát triển năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV. Môi trường này cần đáp ứng yêu cầu về nền tảng cơ sở số, thể chế, chính sách khuyến khích giảng viên KHXH&NV hoàn thiện năng lực chuyển đổi số và văn hóa số trong hoạt động giảng dạy, nghiên cứu và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Về nền tảng cơ sở số, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần nâng cao, đầu tư công tác đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực số, nhất là đội ngũ giảng viên KHXH&NV bảo đảm đáp ứng tiêu chí về năng lực chuyển đổi số và hệ thống cơ sở công nghệ thông tin, phần mềm hỗ trợ dạy - học, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận. Về thể chế, chính sách, cấp ủy, chỉ huy các cấp cần quan tâm tạo điều kiện thuận lợi để giảng viên KHXH&NV tham gia nâng cao trình độ, năng lực chuyển đổi số; có cơ chế khen thưởng, biểu dương kịp thời, khuyến khích tư duy đổi mới sáng tạo trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học và đấu tranh tư tưởng, lý luận. Về văn hóa số, các chủ thể ở các nhà trường quân đội cần xây dựng, phát triển văn hóa làm việc số, chuyển đổi nhận thức, chuyển đổi mối quan hệ từ môi trường truyền thống sang môi trường số.
Bốn là, phát huy tính tích cực, chủ động đổi mới sáng tạo của giảng viên KHXH&NV trong phát triển năng lực chuyển đổi số
Năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội được tạo nên từ nhiều yếu tố, trong đó nhân tố chủ quan có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả, chất lượng phát triển năng lực chuyển đổi số. Trước hết, giảng viên KHXH&NV phải nâng cao nhận thức, trách nhiệm trong tự đào tạo, tự bồi dưỡng năng lực chuyển đổi số của bản thân thông qua tích lũy tri thức, phát triển kỹ năng, xây dựng thái độ tích cực, đúng đắn về chuyển đổi số. Thứ hai, xây dựng đức tính kiên trì, bền bỉ, niềm tin trong phát triển năng lực chuyển đổi số. Trong đó, ham học hỏi, cầu tiến bộ, vươn tới cái mới trong giảng dạy, nghiên cứu khoa học, đấu tranh tư tưởng, lý luận. Thứ ba, giảng viên KHXH&NV thể hiện sự gương mẫu, tiên phong trong phát huy tư duy đổi mới sáng tạo nhằm phát triển năng lực chuyển đổi số của bản thân.
3. Kết luận
Năng lực chuyển đổi số của giảng viên KHXH&NV ở các nhà trường quân đội không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là động lực mạnh mẽ thúc đẩy chất lượng giáo dục, nghiên cứu khoa học, và đấu tranh tư tưởng, lý luận trong bối cảnh chuyển mình mạnh mẽ của dân tộc. Trong kỷ nguyên số, khi công nghệ đóng vai trò quyết định trong mọi lĩnh vực, việc phát triển năng lực chuyển đổi số của giảng viên là yếu tố then chốt để các nhà trường quân đội đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ đào tạo đội ngũ cán bộ quân đội vững vàng về chính trị, giỏi về chuyên môn và làm chủ công nghệ. Chuyển đổi số quốc gia mang đến nhiều cơ hội và thách thức, đòi hỏi sự chủ động, sáng tạo và đổi mới không ngừng từ đội ngũ giảng viên KHXH&NV. Việc xây dựng và phát triển năng lực chuyển đổi số không chỉ là yêu cầu bắt buộc, mà còn là trách nhiệm cao cả trong truyền tải tri thức, hình thành bản lĩnh chính trị và góp phần giữ vững trận địa tư tưởng, lý luận của Đảng.
Ngày nhận bài: 17-01-2025; Ngày bình duyệt: 21-01-2025; Ngày duyệt đăng: 28-02-2025
Email tác giả: buiduyhunghvktqs@gmail.com
(1) Hoàng Phê: Từ điển tiếng Việt, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, 2018, tr.565.
(2) Bộ Thông tin và Truyền thông: Cẩm nang chuyển đổi số, Nxb Thông tin Truyền thông, Hà Nội, 2021, tr.21.