Đào tạo - Bồi dưỡng

Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực khoa học, công nghệ ở Việt Nam hiện nay

20/05/2025 17:15

(LLCT) - Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị xác định khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là đột phá chiến lược để phát triển nhanh, bền vững đất nước. Trong đó, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của sự phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số trở nên cấp thiết. Bài viết đề xuất và luận giải một số giải pháp nhằm tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho nguồn nhân lực khoa học, công nghệ ở Việt Nam hiện nay để đáp ứng yêu cầu đó.

ThS LÊ SỸ TÙNG
Viện Hàn lâm Khoa học và Công nghệ Việt Nam

Ủy viên Bộ Chính trị, Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính tham quan xưởng sản xuất sản phẩm cơ khí công nghệ cao của Tập đoàn Công nghiệp - Viễn thông Quân đội (Viettel)_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Nguồn nhân lực khoa học công nghệ (KHCN) đóng vai trò then chốt trong sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, là lực lượng tiên phong trong việc sáng tạo, ứng dụng tiến bộ KHCN vào thực tiễn, góp phần nâng cao năng suất lao động, thúc đẩy đổi mới sáng tạo và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, KHCN càng trở thành động lực chính để Việt Nam hội nhập và phát triển bền vững. Nguồn nhân lực KHCN có vai trò quan trọng, nòng cốt của quá trình thúc đẩy hoạt động KHCN, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. Vì vậy, tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho lực lượng này để nâng cao bản lĩnh chính trị, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần trách nhiệm của họ trước yêu cầu nhiệm vụ mới là hết sức cần thiết.

Những năm gần đây, nhân lực KHCN của Việt Nam đã có bước phát triển mạnh về số lượng và chất lượng, đóng góp tích cực vào sự phát triển của đất nước. Theo thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ, “Hiện cả nước có 167.746 người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển. Trong đó, lượng người tham gia hoạt động nghiên cứu và phát triển trong khu vực nhà nước là 141.084 người (chiếm 84,1%), khu vực ngoài nhà nước: 23.183 người (13,8%), khu vực có vốn đầu tư nước ngoài: 3.479 người (2,1%). Đặc biệt, số lượng có trình độ tiến sĩ: 14.376 người, thạc sĩ: 51.128 người, đại học: 60.719 người…”(1).

Số cán bộ nghiên cứu tương đương toàn thời gian FTE (Full Time Equivalent) của Việt Nam có 72.991 người. Trung bình 7,6 người nghiên cứu FTE trên 1 vạn dân, đứng thứ tư, sau Xinhgapo (69,2 người), Malaixia (23,6 người) và Thái Lan (12,1 người)(2).

Đội ngũ cán bộ KHCN Việt Nam đã khẳng định được năng lực chuyên môn và phát huy vai trò quan trọng của mình đối với sự phát triển của đất nước. Đại hội XIII của Đảng đã nhận định: “Khoa học và công nghệ từng bước khẳng định vai trò động lực trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiềm lực khoa học và công nghệ của đất nước được tăng cường… Hiệu quả hoạt động khoa học và công nghệ được nâng lên, tạo chuyển biến tích cực cho hoạt động đổi mới và khởi nghiệp sáng tạo”(3).

Tuy nhiên, bên cạnh năng lực chuyên môn, đội ngũ này cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, tư tưởng kiên định để đối mặt với những thách thức như: nguy cơ phụ thuộc công nghệ nước ngoài, tác động từ các luồng thông tin đa chiều, hoặc nguy cơ chệch hướng nghiên cứu do ảnh hưởng của các quan điểm phiến diện.

Giáo dục chính trị, tư tưởng giúp nhân lực KHCN luôn gắn bó với lợi ích dân tộc, bảo vệ độc lập, tự chủ về khoa học, đồng thời phát huy tinh thần sáng tạo trong khuôn khổ định hướng XHCN. Trong khi đó, về trình độ lý luận chính trị: Tỷ lệ viên chức khoa học và công nghệ ở cả khối Trung ương và địa phương có trình độ lý luận chính trị cao cấp và cử nhân chiếm quá ít (khối Trung ương có 12,1% có trình độ lý luận chính trị cao cấp và cử nhân; khối địa phương có 7,50% có trình độ lý luận chính trị cao cấp và cử nhân). Do đó, việc tăng cường giáo dục chính trị cho đội ngũ này không chỉ là yêu cầu cấp thiết mà còn là giải pháp chiến lược để xây dựng một nền KHCN tiên tiến, tự chủ và vì mục tiêu phát triển đất nước.

Giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN là một nhiệm vụ quan trọng của công tác tư tưởng của cấp ủy đảng các cấp, nhằm nâng cao nhận thức, bồi dưỡng lập trường tư tưởng và đạo đức cách mạng cho đối tượng này, bảo đảm hoạt động theo đúng đường lối của Đảng và pháp luật của Nhà nước. Mục tiêu là để củng cố niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng, thể hiện ở việc bảo đảm kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối đổi mới của Đảng; nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội: thông qua việc gắn nghiên cứu khoa học với thực tiễn phát triển đất nước, phục vụ nhân dân; đấu tranh phòng, chống các quan điểm sai trái, phản bác các tư tưởng thực dụng, xa rời mục tiêu XHCN, xuyên tạc quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,… nội dung giáo dục chủ yếu là: chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về KHCN; giáo dục đạo đức nghề nghiệp; bồi dưỡng tinh thần yêu nước và tự cường dân tộc,...

2. Một số giải pháp tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu khoa học, công nghệ trong bối cảnh mới hiện nay

Trong bối cảnh mới hiện nay, để tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN ở nước ta, cần thực hiện hệ thống giải pháp toàn diện, khả thi. Dưới đây là một số giải pháp chủ yếu.

Một là, nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền và đoàn thể chính trị - xã hội các cấp về tầm quan trọng của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN

Trước hết là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các cấp ủy đảng, lãnh đạo các đơn vị trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Nhận thức, tư duy và hành động của người đứng đầu có vai trò quan trọng. Do đó, nâng cao tính mẫu mực, vai trò nêu gương, tinh thần trách nhiệm của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng của mỗi cơ quan, đơn vị khoa học có ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của công tác này. Trách nhiệm cấp ủy đảng có vai trò quan trọng nhất, có ý nghĩa quyết định hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng. Sự mẫu mực của cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo quản lý, được biểu hiện ở sự tham gia nghiêm túc các hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng; gương mẫu trong rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức, lối sống của người cán bộ, đảng viên; có suy nghĩ và hành động chuẩn mực, đúng đắn, nêu gương trước tập thể đơn vị.

Thứ hai là, nâng cao vai trò, trách nhiệm của các chủ thể lãnh đạo, quản lý trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Chủ thể lãnh đạo, quản lý công tác giáo dục phải luôn xác định giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN trong bối cảnh mới hiện nay có vai trò đặc biệt quan trọng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị và chuyên môn của cơ quan, đơn vị. Do đó, đòi hỏi các chủ thể lãnh đạo, quản lý phải dành nhiều thời gian, công sức cho công tác này, luôn quan tâm, bảo đảm đúng định hướng, đúng quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, vì mục tiêu nâng cao phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng của nhân lực KHCN, hoàn thành tốt các nhiệm vụ chính trị được giao. Phân công rõ trách nhiệm, đồng thời có cơ chế phối hợp hoạt động của các chủ thể tiến hành hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng. Phân định rõ trách nhiệm của từng chủ thể để mỗi chủ thể thực thi bổn phận của mình một cách tự giác, tích cực, đồng thời tiết kiệm thời gian, công sức. Để phân định rõ trách nhiệm trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN, cần rà soát lại nội dung công việc, trách nhiệm của từng cơ quan, đơn vị, trách nhiệm phối hợp của các đơn vị trong triển khai hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng... trên cơ sở đó, tăng cường kiểm tra, đánh giá hoạt động này một cách thường xuyên, kịp thời và có hiệu quả thiết thực.

Thứ ba là, quan tâm xây dựng tổ chức bộ máy làm công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Đảng ủy, lãnh đạo các đơn vị khoa học cần nhận thức sâu sắc vị trí, vai trò của hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Từ đó lựa chọn con người, kiện toàn tổ chức bộ máy, lực lượng báo cáo viên, giảng viên… để bảo đảm cho công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Việc phân công, phối hợp giữa các đơn vị và các tổ chức chính trị - xã hội trong mỗi đơn vị nghiên cứu thông suốt, phát huy vai trò của mỗi cá nhân và tổ chức để phối hợp hoạt động trong công tác chính trị, tư tưởng.

Hiện nay ở nước ta, đời sống xã hội đã và đang đa dạng hóa và không ngừng phát triển. Cuộc sống vật chất, tinh thần của đại bộ phận nhân dân đã được cải thiện, nâng lên; các nhu cầu về vật chất, tinh thần có sự phát triển phong phú hơn, đa dạng. Bên cạnh các chính sách chung của Nhà nước, thì chế độ đãi ngộ cho cán bộ làm công tác chính trị, tư tưởng cũng cần được đổi mới, bảo đảm đời sống vật chất, tinh thần, quyền lợi chính trị trong các học viện, viện nghiên cứu, nhất là những người có nhiều công lao, có kiến thức và kinh nghiệm trong giáo dục chính trị, tư tưởng. Giải quyết các quan hệ lợi ích thông qua công tác tổ chức, công tác cán bộ, công tác thi đua khen thưởng, vận dụng các chính sách, quy định phù hợp, bảo đảm công khai, minh bạch, công bằng, có tác dụng động viên, khuyến khích tính tích cực.

Thứ tư là, phát huy vai trò tham mưu, chỉ đạo và tổ chức thực hiện của cơ quan tuyên giáo về công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Cơ quan tuyên giáo có trách nhiệm tham mưu, giúp việc trực tiếp cho đảng ủy và lãnh đạo các cơ quan nghiên cứu khoa học thực hiện công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN trong đơn vị. Ban Tuyên giáo phải chủ động tham mưu, xây dựng kế hoạch giáo dục chính trị, tư tưởng trong toàn nhiệm kỳ, hằng năm, 6 tháng, hằng quý, hằng tháng. Ban Tuyên giáo chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ lý luận chính trị cho nhân lực KHCN của đơn vị, bảo đảm phổ cập trình độ lý luận chính trị cho từng cấp cán bộ. Đổi mới phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với yêu cầu, điều kiện và đặc thù của đối tượng học tập là nhân lực KHCN trên cơ sở bảo đảm yêu cầu chung của hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng. Cơ quan tuyên giáo cần nắm bắt tình hình tư tưởng, tham mưu, đề xuất các giải pháp giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN chất lượng và hiệu quả.

Thứ năm là, xây dựng mạng lưới giảng viên, báo cáo viên có chất lượng và hiệu quả, đáp ứng yêu cầu của công tác giáo dục chính trị, tư tưởng trong điều kiện mới. Trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng, vai trò của các giảng viên, báo cáo viên rất quan trọng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng, hiệu quả của hoạt động giáo dục. Trong các lớp học về lý luận chính trị các trình độ cao cấp, trung cấp, sơ cấp, phổ cập cho nhân lực KHCN cần phải lựa chọn các giảng viên có uy tín của các học viện, trường đại học để thực hiện chương trình giáo dục lý luận chính trị cơ bản trong mỗi đơn vị KHCN. Xây dựng được mối quan hệ phối hợp lâu dài với những giảng viên giảng dạy lý luận chính trị có uy tín cao, có phương pháp giảng dạy phù hợp với nhân lực KHCN là yếu tố quan trọng góp phần vào chất lượng giáo dục chính trị, tư tưởng cho đội ngũ này.

Hiện nay ở tầm vĩ mô, việc nghiên cứu, quán triệt nghị quyết của Đảng ngày càng phổ biến hình thức hội nghị trực tuyến với nhiều tiện lợi. Nhưng không vì thế mà không sử dụng và phát huy vai trò của đội ngũ giảng viên, báo cáo viên tham gia công tác giáo dục chính trị, tư tưởng. Thông thường, các nội dung được giảng giải tại hội nghị trực tuyến mang tính chung cho tất cả mọi đối tượng, nên thường không có mối liên hệ trực tiếp đến công việc của mỗi cơ quan, đơn vị. Bởi vậy cần xây dựng lực lượng báo cáo viên có khả năng quán triệt những điểm quan trọng của nghị quyết liên quan đến nội dung hoạt động chuyên môn của cán bộ nghiên cứu khoa học và công nghệ..

Hai là, đổi mới nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho phù hợp và có hiệu quả

Thứ nhất, cần lựa chọn các nội dung cần tập trung, nhấn mạnh trong giáo dục chính trị tư tưởng, phù hợp với đặc điểm của nhân lực KHCN. Nội dung các chương trình giáo dục chính trị, tư tưởng được xây dựng chung cho tất cả các đối tượng là cán bộ, đảng viên, hội viên các tổ chức chính trị - xã hội và tuyên truyền rộng rãi trong nhân dân. Tuy nhiên, với mỗi nhóm đối tượng, việc xây dựng nội dung cần quan tâm đến những đặc điểm xã hội học để hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng có hiệu quả cao nhất. Nguyên tắc chung là đưa nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng sát với nhu cầu nhận thức và phù hợp với “khuôn mẫu tư duy” của đối tượng được giáo dục chính trị, tư tưởng. Đặc điểm chung nhất của đội ngũ nhân lực KHCN là những người có trình độ học vấn, chuyên môn cao. Trong điều kiện phát triển rất nhanh chóng của các khoa học liên ngành hiện nay, nhân lực KHCN cần có thêm những kiến thức của các lĩnh vực liên quan, cần thiết cho lĩnh vực nghiên cứu của mình... nhân lực KHCN thường có phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu khoa học phù hợp với chuyên môn đã lựa chọn. Phương pháp tư duy logic, khoa học là ưu thế của cán bộ nghiên cứu khoa học. Đó là tư duy ở trình độ cao trong của quá trình nhận thức, được thực hiện thông qua một hệ thống các thao tác tư duy nhất định với sự giúp đỡ của một hệ thống “công cụ” tư duy khoa học (như các ngôn ngữ và hình thức của tư duy khoa học). Nhân lực KHCN “nhào nặn” các tri thức tiền đề, phán đoán, suy luận, thực nghiệm để xây dựng thành những tri thức khoa học mới, nhận thức chính xác, đầy đủ, sâu sắc, chân thực hơn thực tế khách quan. Do vậy, khả năng phát hiện vấn đề và nhìn nhận thấy mối quan hệ biện chứng của các vấn đề nghiên cứu là kỹ năng riêng có của nhân lực KHCN. Đó cũng là một lợi thế trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN cần tận dụng.

Thứ hai, cần cập nhật những nội dung mới, cung cấp tình hình thời sự trong nước và quốc tế thường xuyên, giúp nâng cao nhận thức, củng cố niềm tin và định hướng tư tưởng cho nhân lực KHCN. Xác định nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với mục tiêu, yêu cầu đào tạo, nhiệm vụ chính trị nhân lực KHCN, đồng thời thường xuyên cập nhật, cung cấp tình hình thời sự chính trị trong nước và quốc tế, giúp cho nhân lực KHCN thấy rõ hơn bối cảnh và nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của mình. Một thực tế là không ít nhân lực KHCN thường miệt mài với công việc nghiên cứu, ít tiếp xúc với môi trường xã hội, không theo dõi kịp thời tình hình thời sự trong nước và quốc tế. Giáo dục chính trị, tư tưởng gắn với cung cấp có định hướng tình hình thời sự trong nước và quốc tế, giúp nhân lực KHCN cập nhật được thông tin, thấy rõ hơn bối cảnh quốc tế, trong nước đang diễn ra, tác động đến công việc nghiên cứu khoa học của mình, qua đó xác định rõ quyết tâm và trách nhiệm thực hiện.

Thứ ba, triển khai nhanh, kịp thời các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về khoa học, công nghệ đến nhân lực KHCN. Một trong các nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN là nghiên cứu, quán triệt và tổ chức thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng các cấp. Đặc biệt chú trọng quán triệt kỹ các nghị quyết của Đảng về KHCN thể hiện quan điểm, đường lối, giải pháp phát triển KHCN của Đảng. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, nhất là trong công cuộc đổi mới đất nước trước bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, Đảng ta đã ngay từ đầu không ngừng hoàn thiện đường lối phát triển KHCN. Đại hội XIII của Đảng ta đã đưa ra quan điểm, định hướng chính sách mới về đổi mới KHCN trong điều kiện cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang phát triển mạnh mẽ. Trong đó chỉ rõ, phải “Tạo đột phá trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, thu hút và trọng dụng nhân tài. Thúc đẩy nghiên cứu, chuyển giao, ứng dụng mạnh mẽ thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội,...”(4). Sau Đại hội, các nghị quyết, chỉ thị về đổi mới chính sách KHCN đã được ban hành, tạo cơ sở và động lực quan trọng để triển khai các chiến lược phát triển KHCN theo đúng tinh thần mà Đảng đã đề ra.

Gần đây nhất, là Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia, mở ra cơ hội cho lĩnh vực KHCN của đất nước phát triển mạnh mẽ và hiệu quả. Vì vậy, quán triệt đầy đủ các quan điểm, chính sách của Đảng và Nhà nước về KHCN cho nhân lực KHCN vừa là nội dung vừa là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng hiện nay.

Thứ tư, tăng cường cung cấp thông tin, tri thức, phương pháp bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch cho đội ngũ cán bộ nghiên cứu KHCN. Ngày 22-10-2018, Bộ Chính trị khóa XII đã ban hành Nghị quyết số 35-NQ/TW về “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới”. Nghị quyết đã được triển khai đồng bộ, toàn diện, quyết liệt, đi vào chiều sâu trong toàn Đảng và hệ thống chính trị. Đến Đại hội XIII, Đảng tiếp tục nhấn mạnh nhiệm vụ: “Tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, kiên quyết và thường xuyên đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch, cơ hội chính trị; đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ”(5). Quán triệt tinh thần đó, cuộc đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái thù địch đã được triển khai rộng khắp trong Đảng và xã hội, góp phần khẳng định nền tảng tư tưởng của Đảng, hạn chế tác động tiêu cực của các tư tưởng sai trái, thù địch trong xã hội. Vì vậy, nội dung giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN không né tránh mà cần phải trang bị tri thức, cung cấp thông tin, chỉ rõ thực trạng, nguyên nhân và phương thức đấu tranh không chỉ với các quan điểm sai trái, thù địch mà còn với các biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”, sự suy thoái về đạo đức, lối sống của một bộ phận trong đội ngũ cán bộ, đảng viên.

Giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN trước hết là giáo dục nhận thức, làm cho mỗi cán bộ, đảng viên, cán bộ nghiên cứu khoa học thấy rõ bản chất khoa học và cách mạng của đường lối đổi mới, thấy rõ trách nhiệm bảo vệ nền tảng tư tưởng, bởi “một cuộc cách mạng không biết tự bảo vệ mình là tự sát”... Bởi vậy, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cần chú trọng phát huy tiềm năng tri thức, trí tuệ của đội ngũ này trong việc bảo vệ nền tảng tư tưởng, chống lại các thế lực thù địch, nhất là các bài nghiên cứu về chính trị học, về khoa học xã hội tham gia đấu tranh phản bác lại các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trong tình hình mới.

Thứ năm, coi trọng giáo dục đạo đức cách mạng, đạo đức nghề nghiệp, tinh thần cống hiến. Xây dựng đạo đức trong Đảng là một trong 5 nội dung cơ bản trong xây dựng Đảng, bao gồm xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh về “chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ”. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Đạo đức cách mạng không phải từ trên trời sa xuống. Nó do đấu tranh, rèn luyện bền bỉ hằng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong”(6). Người cách mạng mà không có đạo đức thì không làm nổi việc gì. Trong điều kiện đạo đức xã hội đang chịu tác động rất mạnh từ mặt trái của cơ chế kinh tế thị trường ở nước ta, tình trạng suy thoái về đạo đức, lối sống càng trở nên nghiêm trọng, do đó cần tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống trong Đảng và xã hội. Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho nhân lực KHCN ở Việt Nam trở thành một nội dung không thể thiếu trong công tác giáo dục chính trị, tư tưởng hiện nay. Trong đó, việc tổ chức học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, coi đây là nội dung thường xuyên, lâu dài trong mỗi cơ quan, đơn vị nghiên cứu khoa học gắn liền với nhiệm vụ xây dựng Đảng. Nội dung giáo dục các chuẩn mực đạo đức cách mạng gắn liền với giáo dục đạo đức nghề nghiệp trong hoạt động nghiên cứu khoa học; quán triệt mục tiêu, quan điểm nghiên cứu khoa học phục vụ cho sự nghiệp phát triển của đất nước, hạnh phúc cho nhân dân, cường thịnh của dân tộc Việt Nam.

Ba là, đổi mới phương thức giáo dục chính trị, tư tưởng phù hợp với xu thế phát triển của thời đại công nghệ thông tin và chuyển đổi số

Trước hết, cần đổi mới và đa dạng hóa các phương pháp, hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN nhằm đem lại hiệu quả cao và thiết thực. Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN cần được thực hiện đa dạng, phong phú với nhiều hình thức khác nhau. Chú trọng đến hoạt động giáo dục thông qua tổ chức các hội nghị học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng các cấp. Đây là hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng tập trung, có nội dung quan trọng, cung cấp cho người học những quan điểm, đường lối của Đảng trong các nghị quyết, chỉ thị..., được tiến hành trong toàn Đảng và tuyên truyền rộng rãi trong xã hội. Đổi mới hình thức tổ chức các lớp học, khóa học về lý luận chính trị, như bồi dưỡng nhận thức về Đảng, bồi dưỡng đảng viên mới; bồi dưỡng cấp ủy viên..., theo quy định chung trong toàn Đảng sao cho phù hợp với đặc điểm đối tượng là nhân lực KHCN để mang lại hiệu quả thiết thực. Việc tổ chức các lớp học về lý luận chính trị sao cho nhiều nhân lực KHCN có thể vừa học, vừa làm, qua đó được phổ cập và nâng cao trình độ lý luận chính trị.

Tổ chức các lớp bồi dưỡng chuyên đề về chính trị, tư tưởng, đó là các lớp bồi dưỡng chuyên sâu về tư tưởng lý luận, thời sự chính sách, quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, đối ngoại, dân tộc, tôn giáo,... Các lớp bồi dưỡng chuyên đề với các nội dung nêu trên không được coi là hoạt động bổ trợ mà là giáo dục tri thức, kinh nghiệm, kỹ năng công tác chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN.

Thường xuyên tổ chức các hội nghị thông báo thời sự chính trị định kỳ với sự tham gia của đội ngũ báo cáo viên có chất lượng. Có thể kết hợp hoạt động này thông qua sinh hoạt định kỳ của các tổ chức đảng, đoàn thể… Đồng thời, phát huy ưu thế của các phương tiện thông tin đại chúng, các trang mạng xã hội của các tổ chức đảng, đoàn thể, giúp các cán bộ nghiên cứu khoa học cập nhật thông tin, nâng cao nhận thức, nắm bắt kịp thời tình hình thời sự chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước và tình hình thời sự quốc tế…

Thứ hai là, hiện đại hóa và ứng dụng các phương tiện mới, tiên tiến trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Để thực hiện điều này, cần đẩy mạnh chuyển đổi số, công nghệ số, số hóa, sử dụng các thành tựu KHCN vào việc đổi mới phương tiện, cơ sở vật chất trong giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN.

Cần đẩy mạnh, đổi mới, đa dạng hóa phương thức tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng. Với sự phát triển manh mẽ của KHCN, các phương tiện chuyển tải thông tin, tổ chức hội nghị trực tuyến đã trở nên phổ biến trong hoạt động giáo dục nói chung, giáo dục chính trị, tư tưởng nói riêng. Do đó cần huy động sự tham gia của các học viện, trường đại học, viện nghiên cứu tích cực xây dựng hệ thống các phòng họp thông minh, được trang bị hiện đại, thuận tiện cho hoạt động học tập, hội họp đồng bộ. Cần sử dụng hệ thống mạng thông tin nội bộ để truyền tải các tài liệu tuyên truyền, tài liệu học tập trước cho cán bộ, học viên, trước khi lên lớp nghe giới thiệu và thảo luận.

Thứ ba là, phối kết hợp đồng bộ và hiệu quả giữa các phương pháp, hình thức, phương tiện trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN. Cần phối kết hợp một cách đồng bộ và có hiệu quả giữa các hình thức giáo dục chính trị, tư tưởng với các phương pháp hiện đại, hiệu quả cùng phương tiện hiện đại trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng. Cần ứng dụng mạnh mẽ công nghệ thông tin, qua đó phổ biến, giáo dục về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cho nhân lực KHCN. Kịp thời định hướng tư tưởng, cập nhật thông tin, phản ảnh đầy đủ, chính xác những vấn đề bức xúc liên quan đến công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị mà nhân lực KHCN quan tâm.

Xuất phát từ đặc thù của đối tượng giáo dục chính trị, tư là những cán bộ đã trưởng thành, có trình độ học vấn cao, chuyên môn sâu và phương pháp tư duy khoa học. Cho nên trong hoạt động giáo dục chính trị, tư tưởng có thể và cần phải chú trọng đổi mới phương pháp thuyết trình trên lớp, chú trọng sử dụng phương pháp dạy học “nêu vấn đề”, tăng cường trao đổi, thảo luận trên lớp hoặc thảo luận tổ. Dựa trên khung chương trình giáo dục lý luận chính trị, xây dựng hệ thống các chủ đề thảo luận trên lớp, thảo luận tổ, gắn với thực tiễn công việc của nhân lực KHCN. Đội ngũ giảng viên lên lớp cần nghiên cứu kỹ đặc điểm của đối tượng học tập trên lớp, dẫn dắt nội dung từ những vấn đề thời sự cụ thể đang được dư luận quan tâm đến quán triệt các nguyên lý lý luận, quan điểm của Đảng trong xử lý vấn đề, tạo tình huống có vấn đề trong trao đổi, thảo luận trên lớp.

3. Kết luận

Giáo dục chính trị, tư tưởng cho nhân lực KHCN là nhiệm vụ quan trọng, góp phần nâng cao nhận thức, bồi dưỡng lý tưởng cách mạng và đạo đức nghề nghiệp. Để đạt hiệu quả, cần phát huy vai trò của các chủ thể, không ngừng cập nhật, đổi mới nội dung, đa dạng hóa phương pháp, hình thức, phương tiện giáo dục, kết hợp lý luận với thực tiễn, tăng cường ứng dụng công nghệ số và phát huy vai trò nêu gương của lãnh đạo. Đồng thời, cần xây dựng cơ chế đánh giá, động viên kịp thời để khích lệ tinh thần tự giác học tập, rèn luyện của người học. Với những giải pháp đồng bộ, công tác giáo dục chính trị, tư tưởng sẽ góp phần xây dựng nhân lực KHCN Việt Nam vừa “hồng” vừa “chuyên”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới của đất nước.

_________________

Ngày nhận bài: 07-5-2025; Ngày bình duyệt: 13-5-2025; Ngày duyệt đăng: 17-5-2025.

Email tác giả: lstung@vast.vn

(1) Quỳnh Nga: Nhân lực khoa học và công nghệ: Đổi mới lượng và chất, Báo Công Thương điện tử, ngày 21-3-2018, https://congthuong.vn.

(2) Phạm Quang Chính - Phạm Thị Thanh Bình: Phát triển nhân lực khoa học công nghệ Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 03-4-2025.

(3), (4), (5) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 63-64, 115, 183.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.612.