Nhân vật - Sự kiện

Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước mãi mãi gắn liền với cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh

05/06/2025 14:33

(LLCT) - Khẳng định những cống hiến vĩ đại của Hồ Chí Minh đối với cách mạng Việt Nam, Đại hội IV của Đảng đã viết: “Thắng lợi to lớn của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước cũng như những trang sử chói lọi của cách mạng Việt Nam ngót nửa thế kỷ qua mãi mãi gắn liền với tên tuổi Chủ tịch Hồ Chí Minh…”(1). Bài viết khẳng định những cống hiến vĩ đại của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước mãi mãi là biểu tượng bất diệt của tinh thần yêu nước và khát vọng độc lập, tự do và là nguồn cổ vũ to lớn cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hôm nay

TS NGÔ XUÂN DƯƠNG
TS NGUYỄN THỊ LƯƠNG UYÊN

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Binh pháp Hồ Chí Minh về kết hợp đánh với đàm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh thăm Trung đoàn 921 ngày 9-11-1964_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, với âm mưu chống phá cách mạng Việt Nam, đế quốc Mỹ đã phá hoại Hiệp định, áp đặt chính sách thực dân mới ở miền Nam Việt Nam; đất nước Việt Nam bị chia cắt thành hai miền. Vận mệnh dân tộc đứng trước muôn vàn thử thách, cách mạng Việt Nam càng cần sự lãnh đạo bản lĩnh, sáng suốt và tầm nhìn chiến lược của Đảng, đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong bối cảnh mới đầy cam go và phức tạp đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh là người vạch đường chỉ lối cho sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, là biểu tượng quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và khơi dậy, kết hợp hiệu quả sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi hoàn toàn, thống nhất đất nước. Tư tưởng Hồ Chí Minh đã trở thành kim chỉ nam cho hành động, cổ vũ tinh thần bất khuất, hun đúc ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, đưa dân tộc Việt Nam tiến tới thắng lợi vẻ vang.

2. Nội dung:

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà chiến lược thiên tài với những dự báo chính xác về diễn biến và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Ngay sau khi Hiệp định Giơnevơ năm 1954 được ký kết, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sớm nhìn nhận rõ hiểm họa mới đối với cách mạng Việt Nam khi đế quốc Mỹ từng bước thế chân thực dân Pháp, trở thành kẻ thù trực tiếp của dân tộc ta. Người sớm cảnh báo thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp mới chỉ là khởi đầu, chiến tranh vẫn chưa kết thúc và nguy cơ đối đầu với Mỹ là điều khó tránh khỏi: “Không khéo chúng ta phải đánh nhau với Mỹ, và đó sẽ là một cuộc chiến vô cùng khốc liệt, kéo dài và đầy gian khổ”(2). Tình hình đã sớm diễn ra theo như dự báo của Người.

Để hiện thực hóa âm mưu biến miền Nam Việt Nam thành thuộc địa kiểu mới và một căn cứ quân sự chiến lược ở Đông Nam Á, Mỹ đã hậu thuẫn Ngô Đình Diệm thực hiện hàng loạt hành động đi ngược lại Hiệp định Giơnevơ. Ngày 17-7-1955, dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Mỹ, Diệm ngang nhiên tuyên bố từ chối tổ chức hiệp thương tổng tuyển cử để thống nhất đất nước.

Tiếp đó, vào ngày 23-10-1955, Diệm tiến hành một cuộc “trưng cầu dân ý” giả hiệu nhằm phế truất Bảo Đại, từ đó tự đưa mình lên làm Tổng thống chính quyền tay sai Mỹ. Những hành động này đánh dấu bước chuyển chính thức của đế quốc Mỹ trong việc thay thế vai trò của thực dân Pháp tại miền Nam Việt Nam, từng bước can thiệp sâu vào nội bộ nước ta và củng cố chế độ tay sai thân Mỹ.

Năm 1960, trong bản diễn văn nhân kỷ niệm 15 năm Quốc khánh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra một dự báo vô cùng quan trọng và sâu sắc. Người viết: “Toàn dân ta đoàn kết nhất trí, bền bỉ đấu tranh, thì chậm lắm là 15 năm nữa, Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất, đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà”(3).

Lời khẳng định ấy không chỉ là sự động viên tinh thần chiến đấu của toàn dân tộc mà còn thể hiện tầm nhìn chiến lược vượt thời đại của một vị lãnh tụ thiên tài. Trong bối cảnh miền Nam còn chìm trong ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, dự báo đó là sự kết tinh của niềm tin sắt đá vào sức mạnh đại đoàn kết và chính nghĩa cách mạng. Hồ Chí Minh hiểu rõ rằng, bằng ý chí kiên cường và tinh thần bất khuất, dân tộc Việt Nam nhất định sẽ giành được thắng lợi cuối cùng. Dự báo ấy không chỉ khẳng định bản lĩnh và trí tuệ Hồ Chí Minh, mà còn là nguồn cổ vũ lớn lao cho hành trình đấu tranh giành độc lập của toàn dân tộc.

Đúng như tiên liệu của Người, 15 năm sau, Đại thắng mùa Xuân 1975 lịch sử ghi dấu chiến thắng hoàn toàn của dân tộc Việt Nam. Đại thắng mùa Xuân 1975 đã kết thúc cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vẻ vang, non sông thu về một mối. Đồng bào Nam - Bắc từ đây thực sự sum họp trong độc lập, tự do.

Không chỉ thể hiện tầm nhìn xa trong việc dự báo về thời điểm đất nước sẽ thống nhất, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn có những tiên liệu chiến lược về các bước leo thang quân sự của đế quốc Mỹ trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam. Vào cuối năm 1967, trong bối cảnh chiến tranh đang diễn ra ác liệt, Người đã đưa ra nhận định chính xác: “Sớm muộn rồi đế quốc Mỹ cũng đưa B-52 ra đánh Hà Nội, rồi có thua nó mới chịu thua. Phải dự kiến mọi tình huống càng sớm càng tốt để có thời gian mà suy nghĩ, chuẩn bị”(4). Đây là một lời cảnh báo chiến lược, cho thấy Người luôn theo dõi sát sao diễn biến chiến tranh và nắm chắc quy luật hành động của đối phương. Người hiểu rõ rằng, để buộc Việt Nam khuất phục, Mỹ sẽ không ngần ngại sử dụng đến những vũ khí hiện đại nhất.

Thực tế đã chứng minh tầm nhìn đó là hoàn toàn đúng. Vào cuối tháng 12 năm 1972, Mỹ mở cuộc tập kích đường không chiến lược bằng máy bay B-52 vào Hà Nội, Hải Phòng trong chiến dịch mang tên “Linebacker II”. Tuy nhiên, nhờ sự chuẩn bị kỹ lưỡng về tư tưởng, chiến lược và lực lượng, quân và dân ta đã làm nên một chiến thắng oanh liệt - “Điện Biên Phủ trên không”.

Chiến dịch thất bại đã buộc Mỹ phải ký Hiệp định Paris năm 1973, rút quân khỏi Việt Nam. Lời dự báo của Chủ tịch Hồ Chí Minh thể hiện trí tuệ và tầm vóc của một lãnh tụ thiên tài, tầm nhìn chiến lược sâu rộng, là nguồn động viên, soi đường cho toàn quân, toàn dân trong cuộc kháng chiến trường kỳ, giành độc lập, tự do, thống nhất đất nước. Sự chính xác trong các dự báo của Người đã củng cố niềm tin, ý chí và quyết tâm của toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta trong suốt chặng đường kháng chiến gian khổ nhưng đầy vinh quang. Đó là minh chứng điển hình cho bản lĩnh, tư duy chiến lược và niềm tin vững chắc vào thắng lợi cuối cùng của dân tộc Việt Nam.

Hồ Chí Minh - Người hoạch định đường lối và nhiệm vụ đấu tranh chống Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước. Tháng 7-1954, tại Hội nghị Trung ương 6, sau khi phân tích âm mưu của Mỹ nhằm hỗ trợ Pháp trong chiến tranh Đông Dương để từ đó “hất cẳng Pháp” và trực tiếp nắm quyền chiếm đóng Đông Dương, thực hiện chủ nghĩa thực dân mới, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Mỹ không những là kẻ thù của nhân dân thế giới, mà Mỹ đang biến thành kẻ thù chính và trực tiếp của nhân dân Việt, Miên, Lào”(5). Do đó, cần tập trung mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ.

Theo Người, trong bối cảnh tình hình đã có nhiều thay đổi, nhiệm vụ cách mạng cũng cần được điều chỉnh cho phù hợp, từ đó chính sách và khẩu hiệu hành động cũng phải được đổi mới để đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Người nhấn mạnh, mục tiêu trước sau như một của cách mạng Việt Nam là giành lấy hòa bình, độc lập, thống nhất và dân chủ cho đất nước.

Đồng thời, Người khẳng định rằng, nguyên tắc đấu tranh cần được giữ vững kiên định, song sách lược hành động phải luôn linh hoạt, mềm dẻo theo từng thời điểm. Mọi hoạt động cách mạng cần được tổ chức chặt chẽ, phối hợp đồng bộ giữa các mặt công tác, giữa từng bộ phận cụ thể với toàn cục chiến lược, nhằm đạt hiệu quả cao nhất trong đấu tranh.

Năm 1956, trong bài “Củng cố và phát triển sự thống nhất tư tưởng của các Đảng mácxít - Lêninnít” đăng trên báo Sự Thật (Liên Xô), Hồ Chí Minh tiếp tục chỉ rõ: “Dân tộc Việt Nam chẳng hạn phải vạch rõ những phương pháp và những biện pháp riêng của mình trong cuộc đấu tranh chống những âm mưu của bọn đế quốc Mỹ và của chính quyền miền Nam Việt Nam hòng vĩnh viễn chia cắt đất nước chúng tôi và cả trong cuộc đấu tranh để dần dần quá độ lên chủ nghĩa xã hội”(6). Các phương hướng, biện pháp đó cần phải căn cứ vào tình hình quốc tế và những đặc điểm riêng của Việt Nam để dẫn dắt cách mạng đến thành công.

Tại Hội nghị Trung ương 15 (mở rộng) diễn ra vào tháng 01- 1959, Đảng ta xác định rõ con đường phát triển cách mạng Việt Nam với hai nhiệm vụ chiến lược: tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam. Mặc dù hai nhiệm vụ này mang tính chất khác nhau, song lại có mối quan hệ chặt chẽ, tác động qua lại sâu sắc, bổ trợ cho nhau trong tiến trình cách mạng chung. Cả hai được triển khai đồng thời, vừa độc lập trong nội dung, vừa thống nhất trong mục tiêu. Từ đó tạo nên sức mạnh tổng hợp nhằm giữ vững nền hòa bình, thúc đẩy sự nghiệp thống nhất đất nước, và mở rộng tiền đề để đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội một cách vững chắc(7).

Chiến lược đó được Hồ Chí Minh nhấn mạnh tại Đại hội III của Đảng (9-1960) là đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội, làm cho miền Bắc được ngày càng vững mạnh về mọi mặt thì càng có lợi cho cách mạng giải phóng miền Nam, cho sự phát triển của cách mạng trong cả nước, cho việc giữ gìn và củng cố hòa bình ở Đông Dương, Đông - Nam Á và thế giới.

Vì vậy, tiến hành cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà. Người nêu rõ phương châm: “xây dựng miền Bắc, chiếu cố miền Nam” và nhấn mạnh vai trò trực tiếp của miền Nam trong việc “đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai để giải phóng miền Nam”(8).

Đầu năm 1965, đế quốc Mỹ leo thang chiến tranh, ồ ạt đưa quân viễn chinh vào miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, hòng làm lung lay ý chí quyết tâm kháng chiến của nhân dân Việt Nam. Trước tình hình đó, Hồ Chí Minh tại Kỳ họp thứ hai Quốc hội khóa III đã nêu cao quyết tâm: “dù Mỹ đưa thêm mấy chục vạn binh sĩ Mỹ và cố lôi kéo thêm quân đội các nước chư hầu vào cuộc chiến tranh tội ác này, thì quân và dân ta cũng quyết đánh thắng chúng”(9). Người khẳng định lập trường nhất quán bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của nước Việt Nam, nhấn mạnh: “Lúc này, chống Mỹ, cứu nước là nhiệm vụ thiêng liêng nhất của mọi người Việt Nam yêu nước”(10).

Việc Hồ Chí Minh và Đảng nêu cao quyết tâm kiên quyết đánh và thắng Mỹ đã trở thành sự kiện lớn của thế giới. Trong bối cảnh thế giới vừa trải qua cuộc chiến tranh Thế chiến thứ hai, đang hưởng hòa bình sau, nhiều lực lượng quốc tế lo ngại Việt Nam khó giành thắng lợi trước Mỹ - cường quốc về kinh tế, quân sự hùng mạnh và sở hữu bom nguyên tử. Trên thực tế, xét tương quan lực lượng, Việt Nam ở thế bất lợi.

Hiểu rõ đối thủ và am tường tình hình quốc tế, Hồ Chí Minh ý thức sâu sắc những khó khăn khi quyết đối đầu với Mỹ. Tuy nhiên, Người tin tưởng vào tinh thần yêu nước, truyền thống đánh giặc của dân tộc, vào chính nghĩa, vào sự đồng tình và hỗ trợ của bạn bè quốc tế, cũng như khả năng sử dụng tổng hợp sức mạnh của cách mạng Việt Nam để biết cách đánh và thắng Mỹ. Người khẳng định: “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn”(11).

Nhờ đường lối đấu tranh cách mạng đúng đắn, quân và dân ta đã liên tiếp giành thắng lợi, đập tan các chiến lược chiến tranh của đế quốc Mỹ, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước; kết hợp giữa xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc với giải phóng miền Nam và gắn kết cuộc đấu tranh cách mạng của Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới. Việc kiên định đường lối độc lập, tự chủ, sáng tạo đã thể hiện tầm nhìn chiến lược, tư duy lãnh đạo và tài thao lược kiệt xuất của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Hồ Chí Minh - Người quy tụ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, nêu cao quyết tâm đánh thắng Mỹ. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Việt Nam phải đối đầu với một kẻ thù có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh nhất thế giới, với trang bị chiến tranh hiện đại. Để giành thắng lợi, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, Hồ Chí Minh nhấn mạnh rằng: Không thể ngồi yên chờ vận may, càng không thể ỷ lại vào sự giúp đỡ từ bên ngoài. Người khẳng định: “Một dân tộc không tự lực cánh sinh mà cứ ngồi chờ dân tộc khác giúp đỡ thì không xứng đáng được độc lập”(12). Từ đó, Người đặc biệt coi trọng việc xây dựng thực lực cách mạng, tập hợp, đoàn kết mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam yêu nước, tạo thành sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược.

Trên cơ sở đường lối đúng đắn, Hồ Chí Minh đã đề ra phương thức tập hợp quần chúng sáng tạo, phù hợp với tình hình thực tế mỗi miền. Tại miền Bắc, tháng 9-1955, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam được thành lập, tập hợp các giai cấp, tầng lớp nhân dân trên nền tảng liên minh công - nông - trí thức, nhằm xây dựng và bảo vệ miền Bắc xã hội chủ nghĩa, đồng thời chi viện mạnh mẽ cho tiền tuyến miền Nam. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đoàn kết trong Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, nhân dân ta đã giành được thắng lợi trong công cuộc khôi phục kinh tế, cải tạo xã hội chủ nghĩa và trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc”(13).

Tại miền Nam, để phát huy sức mạnh yêu nước rộng rãi, thực hiện chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, tháng 12-1960, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam được thành lập. Mặt trận quy tụ tất cả các tầng lớp, các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, đảng phái, đoàn thể, nhân sĩ yêu nước, không phân biệt xu hướng chính trị, cùng chung mục tiêu đấu tranh đánh đổ ách thống trị của đế quốc Mỹ và tay sai, thực hiện hòa bình, dân chủ, tiến tới thống nhất đất nước. Mặt trận không chỉ đại diện chân chính cho nhân dân miền Nam, mà còn tổ chức, lãnh đạo các vùng giải phóng giành thắng lợi to lớn trên các mặt quân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội.

Khi nhận thấy Mỹ chuẩn bị đổ quân ồ ạt vào miền Nam, Hồ Chí Minh chủ động triệu tập Hội nghị chính trị đặc biệt (3-1964) tại Hà Nội, nhằm phát huy cao độ tinh thần yêu nước, ý chí chống Mỹ của toàn dân tộc. Hội nghị quy tụ hơn 300 đại biểu tiêu biểu cho các ngành, các giới, anh hùng, chiến sĩ thi đua, trí thức, nhân sĩ yêu nước, thể hiện sự đoàn kết, quyết tâm sắt đá chung quanh Đảng và Hồ Chí Minh. Hội nghị được ví như “Hội nghị Diên Hồng” trong thời đại mới.

Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển phong trào đấu tranh ở đô thị miền Nam, tháng 4-1968, dưới sự chỉ đạo của Hồ Chí Minh và Đảng, Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam được thành lập tại Sài Gòn. Liên minh có nhiệm vụ mở rộng khối đại đoàn kết ở đô thị, kêu gọi đấu tranh vì độc lập, dân chủ, hòa bình, tiến tới thống nhất đất nước. Hồ Chí Minh khẳng định, sự ra đời và những hoạt động tích cực của Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam “là một thắng lợi rực rỡ của lòng yêu nước và sức mạnh toàn dân đoàn kết chống Mỹ, cứu nước”(14).

Sự phối hợp chặt chẽ giữa ba tổ chức: Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, Mặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam Việt Nam và Liên minh các lực lượng dân tộc, dân chủ và hòa bình Việt Nam đã tạo nên sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, góp phần đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

Bộ Quốc phòng Mỹ sau này cũng phải thừa nhận: Nhờ chiến lược đoàn kết rộng rãi, Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã nắm được các ngọn cờ dân tộc và chống thực dân, trong khi Mỹ và chính quyền Sài Gòn chỉ còn duy nhất ngọn cờ chống cộng sản.

Chân lý thời đại “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”. Khi đế quốc Mỹ đẩy mạnh chiến tranh xâm lược, tiến hành “Chiến tranh cục bộ” ở miền Nam và mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc, tình hình đất nước trở nên vô cùng cam go và ác liệt. Trước nguy cơ đó, ngày 17-7-1966, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc chống Mỹ, cứu nước. Trong lời kêu gọi thiêng liêng ấy, Người khẳng định: “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(15). Đây không chỉ là lời hiệu triệu toàn dân tộc đứng lên chiến đấu mà còn là tuyên ngôn thời đại mang tầm vóc quốc tế.

Khẩu hiệu bất hủ này nhanh chóng trở thành ngọn cờ tập hợp và cổ vũ toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phát huy cao độ tinh thần yêu nước và ý chí tự lực, tự cường. Tuyên ngôn đó đã lay động hàng triệu trái tim người dân Việt Nam, hun đúc khát vọng độc lập, thống nhất, và tiếp thêm nghị lực cho cuộc chiến đấu chính nghĩa. Dưới ngọn cờ “độc lập, tự do”, nhân dân ta đã vượt qua mọi hy sinh, gian khổ, chiến đấu kiên cường trên cả hai miền đất nước.

Không những vậy, lời kêu gọi ấy còn vang vọng ra thế giới, góp phần thúc đẩy làn sóng phản chiến tại Mỹ và nhiều nước khác. Nhiều phong trào quốc tế đã bày tỏ sự ủng hộ với Việt Nam và lên án cuộc chiến tranh phi nghĩa do Mỹ tiến hành. Tư tưởng “Không có gì quý hơn độc lập, tự do” đã trở thành biểu tượng của ý chí bất khuất, lòng yêu nước nồng nàn và bản lĩnh kiên cường của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, nó thể hiện niềm tin mãnh liệt vào thắng lợi cuối cùng của chính nghĩa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã làm nên những chiến công lừng lẫy, đưa cuộc kháng chiến chống Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn. Giá trị của Lời kêu gọi năm 1966 vẫn luôn trường tồn như một chân lý sống động, tiếp tục cổ vũ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc hiện nay.

Hồ Chí Minh luôn kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược. Trong tiến trình lãnh đạo cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ xâm lược, Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh việc phát huy cao độ nội lực dân tộc - tinh thần đoàn kết, ý chí tự lực, tự cường, quyết tâm độc lập, tự chủ - coi đó là nhân tố quyết định thắng lợi. Đồng thời, Người luôn chủ trương tranh thủ tối đa sự đồng tình, ủng hộ và giúp đỡ của các lực lượng tiến bộ trên thế giới, nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp, kết hợp giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại để đánh bại kẻ thù xâm lược. Người khẳng định: “Chủ trương dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ tích cực của các nước xã hội chủ nghĩa anh em và của nhân dân yêu chuộng hòa bình và công lý trên toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ nước Mỹ”(16). Tư tưởng này không chỉ là nguyên tắc chỉ đạo xuyên suốt trong cuộc kháng chiến mà còn phản ánh tầm nhìn chiến lược sắc bén của Hồ Chí Minh về sức mạnh liên kết quốc tế trong bối cảnh thế giới phân cực sau Chiến tranh Thế giới thứ hai.

Nhờ am hiểu sâu sắc các nền văn hóa, đặc điểm tâm lý, lịch sử đấu tranh của các dân tộc, Hồ Chí Minh đã khéo léo khai thác những điểm tương đồng trong giá trị quan niệm giữa dân tộc Việt Nam và nhân dân các nước khác. Người đã khơi dậy và khích lệ sự đồng cảm, đồng tình ủng hộ mạnh mẽ của nhân dân thế giới đối với cuộc kháng chiến chính nghĩa của nhân dân Việt Nam. Người chỉ rõ: “Trong cuộc chiến đấu chính nghĩa của mình, nhân dân Việt Nam được sự đồng tình ủng hộ của nhân dân các nước xã hội chủ nghĩa, nhân dân các nước Á, Phi, Mỹ Latinh và nhân dân toàn thế giới, kể cả nhân dân tiến bộ Mỹ”(17). Trên tinh thần chính nghĩa và sự chân thành, Hồ Chí Minh đã vận động thành công một phong trào quốc tế rộng lớn phản đối cuộc chiến tranh xâm lược của Mỹ ở Việt Nam.

Cuộc kháng chiến của nhân dân Việt Nam đã nhận được sự hỗ trợ to lớn cả về vật chất và tinh thần từ Liên Xô, Trung Quốc và các nước trong phe xã hội chủ nghĩa. Sự viện trợ này bao gồm các trang thiết bị quân sự, chuyên gia kỹ thuật, cố vấn quân sự, cũng như sự hậu thuẫn mạnh mẽ trên các diễn đàn quốc tế. Tuy nhiên, Hồ Chí Minh không bao giờ để đất nước bị phụ thuộc hoàn toàn vào viện trợ nước ngoài. Người luôn chủ trương “tự lực cánh sinh” và duy trì lập trường độc lập, tự chủ trong mọi tình huống.

Đặc biệt, trong bối cảnh quan hệ Liên Xô - Trung Quốc rạn nứt trong những năm 1960, Hồ Chí Minh đã thể hiện bản lĩnh chính trị vững vàng, không để Việt Nam bị cuốn vào cuộc tranh chấp này. Người kiên định nguyên tắc: “Trong cuộc đấu tranh để thống nhất Tổ quốc, Đảng Lao động Việt Nam không bao giờ lại tự tách mình khỏi các đảng anh em”(18). Chủ nghĩa yêu nước chân chính của Hồ Chí Minh luôn gắn bó chặt chẽ với chủ nghĩa quốc tế vô sản, nhấn mạnh sự thống nhất giữa lợi ích dân tộc và phong trào cách mạng thế giới.

Chính lập trường trước sau như một đó đã củng cố niềm tin của các nước bạn bè quốc tế đối với Việt Nam. Hồ Chí Minh không chỉ kêu gọi sự ủng hộ bằng lý lẽ chính nghĩa mà còn chạm đến tình cảm sâu sắc của nhân dân thế giới. Thủ tướng Cuba Fidel Castro khẳng định, vì Việt Nam, Cu Ba sẵn sàng hiến cả máu của mình, thể hiện sự đồng lòng và liên minh chiến đấu son sắt giữa các lực lượng cách mạng.

Một trong những thành công chiến lược khác của Hồ Chí Minh là xây dựng và củng cố mối quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương - Việt Nam, Lào và Campuchia. Trong thư gửi Hội nghị nhân dân Đông Dương năm 1965, Người nhấn mạnh: “Nhân dân ba nước anh em vốn đã luôn luôn cùng nhau sát cánh chống kẻ thù chung là chủ nghĩa thực dân, đế quốc, thì khi đứng trước nguy cơ một cuộc chiến tranh mở rộng do Mỹ gây nên, nhân dân ba nước phải đoàn kết chặt chẽ cùng chống đế quốc Mỹ, thì nhất định sẽ giành được thắng lợi”(19). Quan điểm của Hồ Chí Minh đã trở thành nền tảng tư tưởng cho sự hình thành và phát triển liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào - Campuchia trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

Trên trường quốc tế, Hồ Chí Minh cũng hết sức chú trọng việc xây dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia yêu chuộng hòa bình, công lý. Người nhiều lần nhấn mạnh vai trò của phong trào quốc tế vì hòa bình, vì sự tiến bộ nhân loại. Trong bài báo “Lại chuyện bom A và bom H” đăng trên Báo Nhân Dân ngày 16-3-1955, Người viết: “Thế là lực lượng đoàn kết của nhân dân yêu chuộng hòa bình mạnh hơn tất cả các thứ vũ khí và trước lực lượng to lớn ấy thì đế quốc Mỹ dù là hung ác cũng phải e dè”(20). Đó là lời khẳng định niềm tin vững chắc vào sức mạnh quần chúng nhân dân trên thế giới trong việc đánh bại chủ nghĩa đế quốc, bảo vệ hòa bình toàn cầu.

Không những vậy, trong tuyên bố tại Hội những người Ấn Độ nghiên cứu các vấn đề quốc tế ngày 7-2-1958, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Đối với tất cả các nước trên thế giới, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa thiết tha mong muốn duy trì tình hữu nghị và thành thật hợp tác trên cơ sở bình đẳng và tương trợ để xây dựng hòa bình thế giới lâu dài”(21). Quan điểm ngoại giao này thể hiện tinh thần cởi mở, chủ động và tôn trọng lẫn nhau, tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam tranh thủ thêm bạn bè và cô lập kẻ thù trên mặt trận ngoại giao quốc tế.

Với đế quốc Mỹ, Hồ Chí Minh luôn kiên định lập trường đấu tranh không khoan nhượng. Người yêu cầu đế quốc Mỹ phải chấm dứt ngay hành động xâm lược, rút quân đội khỏi miền Nam Việt Nam, tôn trọng quyền tự quyết của nhân dân Việt Nam, tuân thủ các điều khoản đã ký kết trong Hiệp định Gơnevơ năm 1954. Đồng thời, Hồ Chí Minh cũng thể hiện thái độ khoan hòa, nhân văn đối với nhân dân Mỹ. Người nhiều lần phân biệt rõ giữa nhân dân Mỹ yêu chuộng hòa bình và nhà cầm quyền hiếu chiến. Người khẳng định: “Chúng tôi không có xích mích gì với nhân dân Mỹ. Chúng tôi muốn sống hòa bình và hữu nghị với nhân dân Mỹ”(22).

Chính nhờ sự kiên định trong chính nghĩa, sự khéo léo trong ngoại giao và sức mạnh nội tại của dân tộc, Việt Nam đã nhận được sự đồng tình mạnh mẽ từ nhân dân tiến bộ trên toàn thế giới. Hàng loạt phong trào phản chiến bùng nổ tại Mỹ, Pháp, Nhật Bản và nhiều nước khác đã gây sức ép buộc chính quyền Mỹ phải xuống thang chiến tranh, tạo nên những điều kiện thuận lợi quyết định cho thắng lợi của Việt Nam. Sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tạo ra sức mạnh tổng hợp to lớn. Nhờ sức mạnh ấy, quân và dân ta đã tạo ra thời cơ lịch sử, mở cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân 1975, đập tan chế độ tay sai, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, thu non sông về một mối, đưa cả nước bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội.

3. Kết luận

Chủ tịch Hồ Chí Minh là lãnh tụ tối cao, là biểu tượng cao cả của trí tuệ, khí phách, lương tâm của dân tộc và thời đại. Tư tưởng, đạo đức và phong cách của Người đã thắp sáng con đường cách mạng, truyền cảm hứng và sức mạnh cho toàn dân tộc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Dưới ngọn cờ tư tưởng Hồ Chí Minh, nhân dân ta đã đoàn kết một lòng, vượt qua muôn vàn gian khổ để giành độc lập, thống nhất đất nước. Người không chỉ là vị lãnh tụ kiệt xuất của dân tộc mà còn là biểu tượng tập hợp sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong sự nghiệp đấu tranh vì độc lập, tự do và thống nhất Tổ quốc, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại.

_________________

Ngày nhận bài: 9-5-2025; Ngày bình duyệt: 22-5-2025; Ngày duyệt đăng: 4-6-2025.

Email tác giả: ngoxuanduonghvct@gmail.com

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.37, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr.460

(2) Võ Nguyên Giáp: Những chặng đường lịch sử, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001, tr.62.

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 299

(4), (11), (14), (16), (17), (15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr. 612, 618, 558, 396, 5, 495.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.8, Sđd,tr.549.

(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Sđd, tr.401.

(7) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 20, Sđd, tr.62.

(8) ĐCSVN: Văn kiện Đảng Toàn tập, t. 21, Sđd, tr.917.

(9), (10), (22) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.14, Sđd, tr.531, 533, 148.

(12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.7, Sđd,tr.445.

(13) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Sđd, tr.452.

(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.12, tr.595

(18) ĐCSVN: Một số văn kiện của Đảng về chống Mỹ, cứu nước, Nxb. Sự thật, Hà Nội, 1985, t.1, tr.64.

(20) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr.372.

(21) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.269.