Thực tiễn

Hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào

13/06/2025 18:12

(LLCT) - Hoạt động buôn bán và vận chuyển trái phép ma túy qua tuyến biên giới Việt Nam - Lào diễn biến phức tạp. Trên cơ sở khảo sát thực tế, bài viết phân tích tình hình hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy xuyên biên, đưa ra một số đề xuất, khuyến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy. Bài viết là sản phẩm của Nhiệm vụ nghiên cứu khoa học cấp bộ “bảo đảm an ninh kinh tế vùng biên giới đất liền Việt Nam góp phần phát triển kinh tế - xã hội và củng cố an ninh, chính trị trong điều kiện hiện nay”, thuộc Chương trình trọng điểm cấp Bộ “Nghiên cứu tổng thể vùng biên giới đất liền ở Việt Nam góp phần phát triển kinh tế - xã hội và đảm bảo an ninh, chính trị trong điều kiện hiện nay” do Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam chủ trì.

ThS NGUYỄN THỊ HỒNG NGA
TS VÕ THỊ MINH LỆ

Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới

Việt Nam - Lào: Phối hợp, đồng hành trong phòng chống tội phạm và ...
Hội nghị song phương cấp Bộ trưởng giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ Công an Lào về hợp tác phòng chống tội phạm, giữ gìn trật tự an toàn xã hội và phòng chống ma túy_Ảnh:chinhphu.vn

1. Mở đầu

Với chiều dài hơn 2.300 km đi qua địa phận 10 tỉnh của Việt Nam và 10 tỉnh của Lào, tuyến biên giới Việt Nam - Lào nắm giữ vai trò chiến lược về kinh tế, giao lưu văn hóa và bảo đảm an ninh quốc phòng giữa hai quốc gia. Trong số các địa phương dọc theo tuyến biên giới, Quảng Bình và Quảng Trị có những điều kiện thuận lợi về vị trí địa lý và hạ tầng giao thông khi nằm trên trục Hành lang kinh tế Đông Tây, với ba cửa khẩu quốc tế là Lao Bảo, La Lay và Cha Lo. Đồng thời, các tuyến giao thông như Quốc lộ 9 - một phần của tuyến đường Xuyên Á AH16 (qua tỉnh Quảng Trị) và Quốc lộ 12A - con đường ngắn nhất kết nối Việt Nam với Lào (qua tỉnh Quảng Bình) đã tạo thuận lợi cho các hoạt động giao thương hàng hóa và xuất nhập cảnh, góp phần thúc đẩy hợp tác kinh tế giữa hai bên biên giới.

Tuy nhiên, biên giới Việt - Lào cũng là tuyến biên giới dài, địa hình hiểm trở, dân cư thưa thớt và đời sống còn nhiều khó khan, là điều kiện để tội phạm ma túy qua biên giới lợi dụng hoạt động mạnh, đặc biệt là ở khu vực biên giới hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị.

Trong nhiều năm qua, bất chấp những nỗ lực của chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng, Quảng Bình và Quảng Trị vẫn luôn là điểm nóng về tội phạm ma túy xuyên quốc gia với những phương thức, thủ đoạn tinh vi, đe dọa nghiêm trọng tới an ninh biên giới và an ninh chính trị của Việt Nam.

2. Nội dung

2.1. Tình hình tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào

Tình hình buôn bán và vận chuyển trái phép chất ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào diễn biến ngày càng phức tạp, đặc biệt ở hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Số lượng, quy mô và mức độ nghiêm trọng của các loại tội phạm ma túy ngày một gia tăng với chủng loại ma túy đa dạng và tính chất ngày càng manh động, liều lĩnh. Nguồn ma túy chủ yếu xuất phát từ Khu vực Tam giác Vàng, sau đó được vận chuyển vào sâu trong nội địa Lào trước khi được đưa tới Việt Nam tiêu thụ hoặc trung chuyển sang nước thứ ba.

Về địa bàn, các trọng điểm về buôn bán và vận chuyển ma túy gồm thị trấn Lao Bảo, xã Tân Thành, Tân Long và các xã Lìa (tỉnh Quảng Trị); khu vực Cửa khẩu Cha Lo, tuyến quốc lộ 12A qua địa phận tỉnh Quảng Bình. Ngoài tuyến quốc lộ chính, nhiều đường mòn, lối mở dọc biên giới ít được kiểm soát chặt chẽ cũng thường xuyên bị lợi dụng để vận chuyển ma túy.

Về phương thức và thủ đoạn hoạt động, nhiều đường dây buôn bán ma túy xuyên quốc gia đã được hình thành và mở rộng trên tuyến biên giới Việt - Lào, trong đó một số đường dây do người nước ngoài cầm đầu (người Lào, Thái Lan), cấu kết và móc nối với người Việt trong nước. Các đường dây ma túy được tổ chức chặt chẽ theo mô hình khép kín, đa tầng, đa cấp, các đối tượng được phân công nhiệm vụ rõ ràng từ khâu tàng trữ, vận chuyển, giao nhận cho tới khâu tiêu thụ, qua nhiều đối tượng trung gian và không biết trước nhau. Cách thức liên lạc giữa các mắt xích trong đường dây khó kiểm soát do đa phần đều sử dụng các ứng dụng mạng xã hội được mã hóa và có độ bảo mật cao.

Đáng chú ý, chủng loại ma túy cũng ngày càng phong phú từ ma túy tổng hợp, ma túy đá, heroin, thuốc lắc, ketamin, cần sa, nước vui… với nguồn cung dồi dào và giá thành ngày càng rẻ do sản xuất quy mô lớn từ bên kia biên giới. Ma túy được ngụy trang dưới nhiều hình thức như kẹo, hoặc ép thành viên nhỏ hình ngôi sao, hay xay mịn thành dạng bột đóng gói trong túi cà phê, bột trái cây,… Thủ đoạn cất giấu ma túy cũng rất tinh vi và kín đáo, theo đó ma túy được vào giấu trong linh kiện, vật phẩm, hàng hóa, hành lý dưới dạng ký gửi trên các phương tiện vận chuyển hành khách xuất nhập cảnh qua cửa khẩu (xe ô tô con, hay các loại xe du lịch, xe chạy tuyến cố định…), thậm chí cất giấu trong người, trong hàng hóa cồng kềnh, và các phương tiện có trọng lượng lớn khó bốc dỡ như các xe chở đá, chở trâu bò,...

Về đối tượng, các đối tượng phạm tội có thể là tội phạm chuyên nghiệp hoặc tội phạm do hoàn cảnh khó khăn, phải tìm cách mưu sinh. Đáng lo ngại là các đối tượng triệt để lợi dụng người dân địa phương làm trung gian vận chuyển ma túy từ Lào về Việt Nam. Đa số đều là người dân bản địa, thông thạo địa bàn, và người đồng bào dân tộc thiểu số trình độ còn hạn chế, điều kiện kinh tế khó khăn, các đối tượng hình sự nghiện hút, dễ manh động, dễ bị dụ dỗ, mua chuộc.

Đặc biệt, các vụ mua bán vận chuyển trái phép ma túy có tính chất ngày càng nghiêm trọng khi liên quan đến nhiều đối tượng là người nước ngoài, người ngoại tỉnh, người có tiền án, tiền sự, sẵn sàng sử dụng vũ khí nóng để chống trả lực lượng chức năng khi bị phát hiện, truy bắt. Điểm chung của các đường dây ma túy là sự ẩn danh của các đối tượng chủ mưu, cầm đầu. Những đối tượng này thường không trực tiếp tham gia vào quá trình vận chuyển, mà điều hành từ xa thông qua hệ thống liên lạc mật, sử dụng người trung gian để cắt đứt dấu vết.

2.2. Đánh giá kết quả hợp tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào

Công tác hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào, đặc biệt tại hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị đã được triển khai một cách bài bản, đồng bộ, hiệu quả, thể hiện vai trò nòng cốt và sự phối hợp nhịp nhàng của chính quyền địa phương, các lực lượng Bộ đội Biên phòng, Hải quan và Công an của Việt Nam cũng như lực lượng chức năng của Lào trong đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, bảo vệ an ninh biên giới quốc gia. Cụ thể:

(1) Thể chế hóa và tổ chức thực thi có hiệu quả các quy chế phối hợp liên ngành giữa các lực lượng chức năng trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy tại khu vực biên giới, nhất là ở những khu vực nhạy cảm như Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo, Lao Bảo và La Lay. Ở cấp trung ương, công tác phối hợp được các lực lượng chức năng thực hiện nghiêm túc theo Quy chế số 3929/QC-BĐBP-TCHQ ngày 4-9-2019 về công tác phối hợp giữa Bộ Tư lệnh Bộ đội biên phòng và Tổng cục Hải quan; Quy chế phối hợp số 231/QCPH/TCCS-TCHQ ngày 25-4-2017 giữa Tổng cục Hải quan và Tổng cục Cảnh sát. Ở cấp địa phương, chính quyền địa phương và lực lượng chức năng hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị đã triển khai và thực hiện tốt Kế hoạch về phối hợp hoạt động giữa Bộ chỉ huy Bộ đội biên phòng với Cục Hải quan tỉnh (Kế hoạch số 2945/KHPH-BCHĐBP-HQQT ngày 22-10-2019 của tỉnh Quảng Trị và Kế hoạch số 1145/KHPH-BCHĐBP-HQQT ngày 12-11-2019 của tỉnh Quảng Bình); Quy chế phối hợp số 3564/QCPH/CA-HQ ngày 3-8-2018 giữa Công an tỉnh và Cục Hải quan tỉnh Quảng Trị, Quyết định số 233/QD-UBND ngày 24-9-2023 của UBND tỉnh Quảng Trị về việc ban hành kế hoạch phòng ngừa, kiểm soát, đấu tranh ngăn chặn tội phạm và tệ nạn ma túy, làm trong sạch địa bàn khu vực biên giới đất liền tỉnh Quảng Trị… Các văn bản này đã cụ thể hóa vai trò, nhiệm vụ, quy trình phối hợp và chế độ thông tin, báo cáo của từng lực lượng, góp phần nâng cao hiệu quả kiểm soát, phát hiện từ sớm, từ xa và hiệu quả xử lý nghiệp vụ.

(2) Phối hợp nghiệp vụ sâu rộng giữa các lực lượng chức năng trong phát hiện, điều tra và xử lý nhiều vụ án ma túy, bảo đảm các vụ việc được xử lý kịp thời, đúng chức năng, thẩm quyền của từng bên, và đúng quy định của pháp luật. Lực lượng trinh sát của Công an, Bộ đội biên phòng và Hải quan thường xuyên phối hợp: i) Xây dựng hồ sơ nghiệp vụ; rà soát, quản lý các đối tượng nghi vấn là tội phạm ma túy chuyên nghiệp; sử dụng lực lượng mật để nắm tình hình địa bàn, các âm mưu, phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm, tổ chức và đường dây ma túy; ii) Đi sâu điều tra xác minh, xây dựng và tổ chức kế hoạch bắt giữ, xử lý các vụ việc, xác lập chuyên án, vụ án đấu tranh đối với hoạt động mua bán và vận chuyển trái phép chất ma túy có trọng tâm, trọng điểm; iii) Phối hợp tuần tra, kiểm soát địa bàn, chốt chặn, ngăn chặn hoạt động của tội phạm từ sớm, từ xa, từ bên kia biên giới.

Kết quả là từ năm 2020 đến tháng 3-2025, trên tuyến biên giới đất liền, lực lượng Bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Bình đã phối hợp với các đơn vị liên quan đã phát hiện, bắt giữ và xử lý 77 vụ buôn lậu hàng hóa và ma túy với 86 đối tượng và 1 tổ chức vi phạm. Trong đó, tiến hành khởi tố hình sự 43 vụ ma túy với 51 đối tượng, tang vật thu giữ bao gồm 443.091 viên ma túy tổng hợp; 19.969 kg ma túy tổng hợp các loại và 38,03 kg cần sa khô(1). Trên địa bàn tỉnh Quảng Trị, hợp tác liên ngành giữa Bộ đội biên phòng tỉnh với các cơ quan hải quan và công an đã bắt giữ 246 vụ vận chuyển trái phép chất ma túy với 381 đối tượng phạm tội. Tang vật thu giữ bao gồm 34,6 kg Ketamine, 291 kg ma túy đá, 46,44 kg heroin, 1.883.724 viên ma túy tổng hợp; 811,4 kg cần sa; 3,9 kg nước vui; khởi tố 179 vụ với 235 đối tượng, bàn giao cho cơ quan công an tỉnh điều tra xử lý theo thẩm quyền(2). Những con số này cho thấy tính hiệu quả trong phối hợp liên ngành nhằm đấu tranh với tội phạm ma túy ở khu vực biên giới.

(3) Phối kết hợp hiệu quả giữa các lực lượng chức năng trong xây dựng cơ chế thu thập và chia sẻ thông tin liên ngành về phương thức, thủ đoạn mới của tội phạm ma túy. Phương thức phối hợp trao đổi thông tin tình hình giữa các đơn vị chủ yếu được thực hiện thông qua hình thức “đa kênh”, từ sử dụng văn bản, điện thoại, fax hoặc email cho tới các ứng dụng chia sẻ thông tin trực tuyến như Zalo, WhatsApp hay Telegram… Nhờ đó, những “điểm mù thông tin” thường xuất hiện trong đấu tranh triệt phá các ổ nhóm, đường dây ma túy được thu hẹp, tạo điều kiện xác định các trọng điểm kiểm tra, kiểm soát tại các khu vực cửa khẩu như ở Cửa khẩu Cha Lo, Lao Bảo, hay La Lay.

(4) Phối hợp hiệu quả giữa chính quyền địa phương và các lực lượng chức năng trong tuyên truyền và vận động quần chúng nhân dân tham gia đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy tại khu vực biên giới. Nhiều mô hình điểm về phòng, chống tội phạm ma túy đã được triển khai, giúp người dân nắm được các phương thức, thủ đoạn hoạt động của tội phạm, hành vi vi phạm pháp luật, nâng cao ý thức cảnh giác, tích cực tham gia tố giác tội phạm, hỗ trợ bộ đội biên phòng, hải quan và công an địa phương thực hiện tốt nhiệm vụ đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy, giữ gìn an ninh trật tự trên khu vực biên giới. Mô hình “Thôn, bản không có tội phạm và tệ nạn ma túy” do UBND xã Trường Sơn (huyện Quảng Ninh, tỉnh Quảng Bình) phối hợp với Đồn biên phòng Làng Mô (Quảng Bình) nhấn mạnh tầm quan trọng của người dân trong việc chủ động phòng ngừa và kịp thời ngăn chặn tội phạm và tệ nạn ma túy xâm nhập vào các thôn, bản trên địa bàn biên giới. Trong mô hình này, lực lượng chức năng không chỉ tuyên truyền, nâng cao nhận thức của người dân vùng biên về tác hại của ma túy, dấu hiệu tội phạm ma túy và phát triển sinh kế cho người dân mà còn huy động sự tham gia tích cực của cộng đồng trong tố giác và phát hiện tội phạm ma túy, góp phần ổn định an ninh khu vực.

(5) Hợp tác quốc tế: Công tác hợp tác quốc tế trong đấu tranh phòng chống ma túy xuyên quốc gia trên tuyến biên giới Việt - Lào được duy trì thường xuyên, đặc biệt là tại tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị. Hoạt động hợp tác giữa lực lượng chức năng của Lào và Việt Nam chủ yếu xoay quanh các nội dung như hợp tác trao đổi thông tin, hợp tác tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, đấu tranh và ngăn chặn tội phạm vận chuyển ma túy xuyên biên giới. Bộ chỉ huy bộ đội biên phòng, Hải quan, Công an tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị hàng năm đều thực hiện các buổi hội đàm, giao ban định kỳ và trao đổi công tác đột xuất với phía Lào. Ngoài ra, lực lượng phòng chống ma túy và tội phạm của biên phòng, công an và hải quan tỉnh cũng đã chủ động phối hợp với các lực lượng chức năng của Lào tiến hành tuần tra, kiểm tra, kiểm soát, phát hiện, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi mua bán, vận chuyển ma túy trái phép từ Lào vào Việt Nam. Thông qua hội đàm thường niên và giao ban đối ngoại, bộ đội biên phòng tỉnh Quảng Trị và phía bạn Lào đã trao đổi cung cấp cho nhau 349 nguồn tin liên quan đến hoạt động tội phạm ma túy trên địa bàn hai bên biên giới, góp phần nâng cao hiệu quả đấu tranh và dự báo tình hình(3).

Đặc biệt, hai bên cũng tích cực trao đổi thông tin liên lạc thông qua Văn phòng Liên lạc qua Biên giới (BLO) - sáng kiến của Văn phòng Liên Hợp Quốc về Ma túy và Tội phạm (UNODC). Văn phòng BLO của tỉnh Quảng Bình được đặt tại Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo và Văn phòng BLO của tỉnh Quảng Trị được đặt tại Cửa khẩu Quốc tế Lao Bảo. Những cơ chế này đóng vai trò là cầu nối chia sẻ thông tin đối biên giữa tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị với các tỉnh Khăm Muồn, Savannakhet và Salavan của Lào góp phần hỗ trợ cho các chiến dịch truy quét tội phạm ma túy một cách nhanh chóng và hiệu quả.

Mặc dù đạt được những kết quả đáng ghi nhận, song công tác hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào, nhất là ở hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị vẫn còn tồn tại một số hạn chế, cụ thể:

(1) Các cơ chế phối hợp liên ngành giữa hải quan, biên phòng, công an tỉnh còn chưa đồng bộ và chặt chẽ. Nguyên nhân một phần là do khác biệt về chức năng, địa bàn hoạt động, một phần là do sự chồng chéo trong quy định về vai trò, nhiệm vụ của các bên. Cụ thể, Bộ đội biên phòng phụ trách kiểm soát biên giới, các đường mòn, lối mở; Hải quan chịu trách nhiệm kiểm soát hàng hóa, phương tiện xuất nhập khẩu tại cửa khẩu; và Công an tỉnh giữ vai trò chủ trì trong điều tra, xử lý tội phạm. Quy định về chức năng, nhiệm vụ như vậy dẫn tới sự thiếu vắng các cơ chế phối hợp tác nghiệp trực tiếp và liên tục. Trong nhiều trường hợp, mặc dù lực lượng hải quan và biên phòng có phát hiện dấu hiệu vận chuyển trái phép chất ma túy, nhưng không có thẩm quyền điều tra và khởi tố, nên phải chuyển giao cho đơn vị khác, gây mất thời gian và làm gián đoạn chuỗi xử lý(4). Ngoài ra, công tác phối hợp nắm tình hình, tổ chức lực lượng tuần tra, kiểm soát của các lực lượng mặc dù đã được triển khai đồng bộ, thường xuyên; song hiệu quả phát hiện, bắt giữ, và xử lý tội phạm lại chưa cao. Những chuyên án ma túy lớn có sự phối hợp tham gia của các lực lượng chức năng chưa nhiều, công tác phối hợp chủ yếu được triển khai theo từng chiến dịch phát động thay vì duy trì thường xuyên, đồng bộ.

(2) Việc chia sẻ, trao đổi thông tin liên ngành về tội phạm ma túy và các đường dây ma túy đôi khi cũng chưa thông suốt, kịp thời dẫn tới những khó khăn trong đánh giá, nhận định tình hình, triển khai các biện pháp nghiệp vụ, bắt giữ đối tượng vi phạm, và xử lý triệt để vụ việc. Nguyên nhân dẫn tới tình trạng này là do: Sự thiếu đồng bộ về hệ thống dữ liệu giữa Bộ đội biên phòng, Hải quan và Công an, mỗi lực lượng lại xây dựng và vận hành một hệ thống dữ liệu nghiệp vụ riêng; tâm lý bảo mật thông tin. Cán bộ nghiệp vụ của một lực lượng thường hạn chế chia sẻ thông tin đầy đủ cho các lực lượng khác do lo ngại tiết lộ bí mật nghiệp vụ hoặc rủi ro rò rỉ thông tin.

(3) Nguồn lực để triển khai công tác phòng, chống tội phạm ma túy còn hạn chế. Hoạt động phòng, chống tội phạm ma túy, đặc biệt là vận chuyển trái phép ma túy xuyên biên giới đòi hỏi nguồn kinh phí lớn để đầu tư vào trang thiết bị, đào tạo nhân lực và triển khai các biện pháp phối hợp kiểm soát. Tuy nhiên, nguồn kinh phí hiện nay còn tương đối hạn hẹp, thiếu kinh phí đầu tư nâng cấp hạ tầng, trang thiết bị và đào tạo nguồn lực. Trang thiết bị của các lực lượng phòng chống ma túy còn lạc hậu, chưa đáp ứng kịp thời với nhu cầu thực hiện nhiệm vụ, nhất là trước tình hình các đối tượng phạm tội hoạt động ngày càng tinh vi, sử dụng nhiều thiết bị liên lạc, theo dõi công nghệ cao. Tại Cửa khẩu Quốc tế La Lay, hiện chỉ có một máy soi chiếu hành lý của lực lượng Hải quan cửa khẩu quốc tế La Lay, Bộ đội biên phòng muốn kiểm tra hành lý, tư trang cá nhân của hành khách, hàng hóa theo xe, đều phải phụ thuộc hoàn toàn vào máy soi của lực lượng hải quan. Ngoài máy soi chiếu hành lý, Hải quan Cửa khẩu Quốc tế La Lay cũng được trang bị 2 máy phát hiện ma túy (loại test nhanh) và 2 chó nghiệp vụ; tuy nhiên vẫn còn thiếu các thiết bị soi chiếu container hiện đại, hệ thống camera giám sát chưa đồng bộ, gây khó khăn trong việc phát hiện hàng hóa cấm. Đề án hải quan số, hải quan thông minh đang được triển khai song vẫn chưa theo kịp tiến độ đề ra, một số công nghệ mới và dữ liệu lớn vẫn chưa được áp dụng rộng rãi để hỗ trợ cho công tác phối hợp kiểm tra, kiểm soát giữa các đơn vị(5).

(4) Hợp tác liên ngành với lực lượng chức năng của Lào còn tồn tại nhiều bất cập, xuất phát từ các nguyên nhân: i) Thiếu vắng cơ chế phối hợp điều tra chung giữa Việt Nam với Lào hay giữa tỉnh Quảng Bình, Quảng Trị với ba tỉnh đối biên. Do cơ chế phối hợp chưa hoàn thiện, nhiều chiến dịch điều tra ma túy có tính chất xuyên quốc gia song chỉ dừng lại ở biên giới Việt Nam. Sự khác biệt về hệ thống pháp luật và chủ quyền giữa Lào với Việt Nam dẫn tới lực lượng Việt Nam không thể tự do truy đuổi tội phạm qua địa phận Lào mà phải thông qua đề nghị hợp tác chính thức, vừa mất nhiều thời gian vừa cản trở việc triệt phá tận gốc các ổ nhóm, mạng lưới ma túy lớn; ii) Lực lượng phòng chống ma túy của Lào trên tuyến biên giới tiếp giáp với tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị còn mỏng, năng lực nghiệp vụ hạn chế và trang thiết bị phục vụ công tác phối hợp phòng, chống và điều tra tội phạm ma túy còn thiếu thốn; iii) Cơ chế họp giao ban, hội đàm giữa các tỉnh biên giới (Quảng Trị họp với Savannakhet, Salavan và Quảng Bình với Khăm Muồn) tần suất còn chưa cao, nội dung chủ yếu tập trung trao đổi chung chung; iv) Vai trò của các BLO mới chủ yếu dừng ở nhiệm vụ làm đầu mối liên lạc, chia sẻ thông tin; chưa thực hiện phối hợp điều tra, truy bắt tội phạm; v) Công tác chia sẻ dữ liệu tội phạm, tình báo ma túy giữa Lào và Việt Nam chưa được thực hiện thường xuyên ở cấp cơ sở do rào cản ngôn ngữ và hạ tầng thông tin.

(5) Những yếu tố khách quan khác cản trở công tác hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào: i) Địa hình rừng núi hiểm trở, thời tiết khắc nghiệt, đường biên giới dài và nhiều đường mòn, lối mở qua lại biên giới dẫn tới khó khăn trong công tác kiểm soát biên giới; ii) Đời sống người dân trên khu vực biên giới còn khó khăn, một bộ phận không có công ăn việc làm, thu nhập không ổn định; trong khi đó, việc canh tác một số cây nông sản như chuối, hoa màu… sinh kế chủ yếu của người dân lại chưa hiệu quả. Ngoài ra, người dân sống dọc biên giới ở Quảng Trị đa phần là đồng bào dân tộc thiểu số (người dân tộc Chứt và Bru - Vân Kiều) có trình độ hạn chế, nhiều phong tục tập quán còn lạc hậu và dễ bị các loại tội phạm lợi dụng lôi kéo, mua chuộc để tiếp tay hoạt động; iii) Tình hình tội phạm ma túy hoạt động ở Lào ngày càng phức tạp, nhất là tại tỉnh Savannahkhet và Salavan. Nếu như trước đây, các tỉnh nội địa của Lào chỉ là địa bàn tập kết, trung chuyển ma túy, thì thời gian gần đây, một số đối tượng đã đưa máy móc, phương tiện, núp bóng dưới danh nghĩa các công ty, doanh nghiệp để trực tiếp sản xuất ma túy. Vì vậy, giá thành các loại ma túy tại Lào rất rẻ, nếu đưa về Việt Nam tiêu thụ thì lợi nhuận thu được rất lớn.

2.3. Một số kiến nghị, giải pháp

Để nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy trên tuyến biên giới Việt - Lào, nhất là hai tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị trong thời gian tới, cần triển khai đồng bộ một số giải pháp và kiến nghị chính sách sau:

(1) Hoàn thiện thể chế và cơ chế phối hợp liên ngành, cụ thể: Rà soát và sửa đổi các quy định pháp lý, tránh chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa lực lượng công an, hải quan và bộ đội biên phòng; trong đó, phân định rõ thẩm quyền điều tra, xử lý nghiệp vụ trong các tình huống phát hiện ma túy tại cửa khẩu, đường mòn… Ban hành quy chế phối hợp trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy giữa các lực lượng chức năng một cách thường xuyên, thay vì chỉ theo từng chiến dịch như hiện nay. Quy chế này cần quy định rõ đầu mối chủ trì trong từng giai đoạn phát hiện, truy bắt, điều tra ban đầu, chuyển giao và mở rộng điều tra.

(2) Tăng cường chia sẻ thông tin nghiệp vụ và xây dựng hệ thống dữ liệu liên thông giữa các ban, ngành: Nghiên cứu phát triển một nền tảng số liên ngành có sự kết nối giữa công an, hải quan, bộ đội biên phòng tại cấp tỉnh và trung ương để cập nhật dữ liệu về đối tượng, phương thức, đường dây vận chuyển và các dấu hiệu tội phạm ma túy. Tổ chức các cuộc họp nghiệp vụ định kỳ để trao đổi thông tin, thống nhất nhận định tình hình và cảnh báo sớm các điểm nóng, phương thức vận chuyển mới. Tăng cường đào tạo cán bộ về bảo mật, phân quyền truy cập thông tin để khắc phục tâm lý e ngại chia sẻ thông tin và đảm bảo an toàn dữ liệu trong nội bộ.

(3) Tăng cường đầu tư trang thiết bị, công nghệ và nguồn lực: Ưu tiên ngân sách đầu tư cho trang thiết bị tại các cửa khẩu như máy soi container, hệ thống camera giám sát hiện đại, thiết bị kiểm tra ma túy nhanh, máy quét tự động và drone giám sát cho các lực lượng tại cửa khẩu. Thúc đẩy triển khai nhanh và đồng bộ Đề án hải quan số, hải quan thông minh tại các cửa khẩu trọng điểm trên tuyến biên giới Việt - Lào, hỗ trợ có hiệu quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm ma túy nhất là tội phạm sử dụng công nghệ cao.

(4) Tăng cường hợp tác với các lực lượng chức năng của Lào: Thúc đẩy xây dựng cơ chế phối hợp điều tra chung giữa lực lượng chức năng cấp tỉnh giữa tỉnh Quảng Bình - tỉnh Khăm Muộn, giữa tỉnh Quảng Trị - tỉnh Savannakhet và tỉnh Salavan. Thiết lập đầu mối điều phối điều tra song phương có khả năng truy đuổi, điều tra xuyên biên giới. Tăng cường hiệu quả và chất lượng của các hội đàm, giao ban cấp tỉnh và cấp đồn, đưa ra kế hoạch hành động cụ thể sau từng phiên họp. Mở rộng vai trò của Văn phòng BLO, vừa chia sẻ thông tin vừa tham gia điều phối điều tra, phân tích rủi ro và truy vết đường dây. Hỗ trợ lực lượng chức năng Lào về trang thiết bị, đào tạo nghiệp vụ, và thiết lập hệ thống chia sẻ dữ liệu song phương.

(5) Hỗ trợ cộng đồng và khắc phục những khó khăn do điều kiện khách quan: Xây dựng các chương trình phát triển kinh tế bền vững cho người dân vùng biên, đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số, góp phần hạn chế tình trạng người dân do hoàn cảnh khó khăn bị lợi dụng tiếp tay cho tội phạm ma túy; ii) Khuyến khích và nhân rộng các mô hình thôn, bản an toàn không có ma túy; iii) Tăng cường tuyên truyền giáo dục pháp luật về phòng chống ma túy bằng cả tiếng dân tộc cho đồng bào người Chứt - Vân Kiều.

3. Kết luận

Trong bối cảnh tội phạm ma túy xuyên quốc gia ngày càng hoạt động tinh vi, liều lĩnh và manh động, tuyến biên giới Việt - Lào, đặc biệt là tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị là những địa bàn trọng điểm cần được kiểm soát chặt chẽ. Trong thời gian qua, hợp tác giữa các lực lượng chức năng trong nước và giữa lực lượng chức năng của Việt Nam với Lào đã đạt được nhiều kết quả tích cực, góp phần giữ vững an ninh biên giới và bảo đảm an ninh chính trị quốc gia. Tuy nhiên, cơ chế phối hợp liên ngành còn thiếu đồng bộ, năng lực thực thi chưa tương xứng với yêu cầu thực tiễn và hoạt động hợp tác với Lào trong đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy xuyên biên giới vẫn còn nhiều bất cập. Do đó, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế về phối hợp liên ngành, tăng cường chia sẻ thông tin, đầu tư trang thiết bị và nâng cao năng lực phối hợp điều tra, khắc phục những khó khăn về sinh kế và từ những điều kiện khách quan khác. Đây là những yếu tố then chốt góp phần nâng cao hiệu quả hợp tác đấu tranh phòng, chống tội phạm ma túy tại tỉnh Quảng Bình và Quảng Trị nói riêng cũng như trên toàn tuyến biên giới Việt - Lào nói chung trong thời gian tới.

_________________

Ngày nhận bài: 15-5-2025; Ngày bình duyệt: 22-5-2025; Ngày duyệt đăng: 12-6-2025.

(1) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Bình: Báo cáo kết quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm; chống buôn lậu, gian lận thương mại ở khu vực biên giới đất liền từ tháng 1-2020 đến tháng 3-2025. Báo cáo tại buổi làm việc với Đoàn khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới ngày 02-4-2025.

(2), (3) Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh Quảng Trị: Báo cáo đánh giá thực trạng hoạt động tội phạm ma túy; buôn lậu, buôn bán hàng giả, thực phẩm không an toàn và các loại tội phạm kinh tế xuyên biên giới trên khu vực biên giới đất liền tỉnh Quảng Trị. Báo cáo tại buổi làm việc với Đoàn khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới ngày 31-3-2025.

(4) Hải quan Cửa khẩu Quốc tế Cha Lo: Thực tiễn đấu tranh và phòng ngừa các loại tội phạm xuyên biên giới tại Hải quan cửa khẩu quốc tế Cha Lo. Báo cáo tại buổi làm việc với Đoàn khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới ngày 04-4-2025.

(5) Hải quan Cửa khẩu Quốc tế La Lay: Thực tiễn đấu tranh và phòng ngừa các loại tội phạm xuyên biên giới tại Hải quan cửa khẩu quốc tế La Lay. Báo cáo tại buổi làm việc với Đoàn khảo sát của Viện Kinh tế Việt Nam và Thế giới ngày 01-4-2025.