Quốc tế

Quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở Lào hiện nay

14/06/2025 21:30

(LLCT) - Qua hơn 30 năm thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa V của Đảng Nhân dân cách mạng Lào (năm 1994) về vấn đề văn hóa, nền văn hóa, công tác quản lý nhà nước về văn hóa ở nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào đã có nhiều biến đổi tích cực, cơ chế quản lý các di sản văn hóa ngày càng phù hợp với đặc điểm, tình hình của đất nước và xu hướng phát triển của thời đại. Hệ thống pháp luật về quản lý di sản văn hóa được ban hành và từng bước được thực thi có hiệu quả. Bài viết phân tích những kết quả đạt được trong công tác quản lý nhà nước về di sản văn hóa ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, những vấn đề cần tiếp tục hoàn thiện trong thời gian tới.

SOUKSAVANH PATHCHAI
NCS Viện Triết học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Khám phá di sản văn hoá thế giới tại Lào
Cố đô Luang Prabang ở Lào đã được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1995, là nơi có nhiều di tích và kiến trúc cổ kế thừa nét đẹp của nhiều nền văn hóa khác nhau như Lào, Khmer, Trung Quốc và Pháp_Ảnh: IT

1. Mở đầu

Di sản văn hóa bao gồm cảnh quan thiên nhiên, di tích lịch sử, các cổ vật, hiện vật và sản phẩm sáng tạo, phong tục tập quán, là di sản của các thế hệ tiền nhân để lại. Những di sản đó mang giá trị văn hóa lớn, gắn liền với phong tục, tập quán, lối sống. Chính vì vậy, các di sản văn hóa không chỉ là những tài sản vô giá của quốc gia - dân tộc, mà còn là tài sản chung của nhân loại.

Trong nền văn hóa Lào, di sản văn hóa có vị trí hết sức quan trọng, qua di sản văn hóa, mọi người có thể hiểu biết về lịch sử dựng nước, giữ nước, những nét độc đáo, những giá trị tinh hoa của dân tộc. Ý thức rõ vai trò quan trọng của công tác bảo tồn và phát triển văn hóa, trong quá trình lãnh đạo đất nước, đặc biệt là trong giai đoạn đổi mới và mở cửa, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và Nhà nước Lào đã có những chính sách giữ gìn, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc, góp phần phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao đời sống nhân dân.

2. Nội dung

2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước Lào về quản lý di sản

Lào là một trong những quốc gia đa dân tộc, dân số hơn 7 triệu người, có tới 50 dân tộc, được xếp vào 4 nhóm ngữ hệ tộc người với phong tục tập quán riêng biệt. Vì thế, cũng hình thành những màu sắc văn hóa đa dạng, không chỉ về tôn giáo, tín ngưỡng mà cả về các đặc trưng lễ hội, đời sống xã hội, tạo ra nguồn di sản văn hóa độc đáo, phản ánh tư duy, lối sống đặc trưng của người dân Lào.

Di sản văn hóa là tài sản quý giá của nhân dân các bộ tộc Lào và là một bộ phận của di sản văn hóa nhân loại, việc quản lý di sản văn hóa có ý nghĩa quan trọng ở cả tầm vi mô và vĩ mô. Xét ở vi mô, những định hướng đúng đắn về quản lý di sản văn hóa sẽ giúp cho các hoạt động văn hóa ở các địa phương, các vùng miền trở nên thuận lợi hơn; tránh sự lúng túng, tùy tiện trong việc thực thi các chính sách của Đảng và Nhà nước Lào. Xét ở vĩ mô, quản lý di sản văn hóa có vai trò định hướng lâu dài cho sự phát triển kinh tế - văn hóa dân tộc. Vì vậy, quản lý di sản văn hóa vẫn luôn được Đảng, Nhà nước Lào quan tâm trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước.

Công tác quản lý di sản văn hóa ở Lào là sự kế thừa, tiếp thu những kinh nghiệm từ lịch sử dân tộc. Từ rất sớm trong lịch sử xây dựng và phát triển đất nước, người dân Lào đã có ý thức quản lý di sản văn hóa theo tư duy, lối sống và phong tục tập quán xã hội đương thời. Hoạt động quản lý di sản văn hóa ở nước Lào khởi đầu từ hình thức phong tục tập quán, biểu hiện trong đời sống xã hội của mỗi dân tộc ở một số phong tục tiêu biểu như: Hít sịp soong (tục tổ chức 12 ngày lễ trong năm theo những triết lý nhân quả của Phật giáo), Khoong sịp si (14 điều quy định lệ làng của nhà vua đối với đất đai và con dân), Pạ phê ny sịp hạ (15 điều quy định trong mối quan hệ giữa làng, gia đình và cá nhân). Những phong tục, tập quán này đã được phổ biển và thực hiện khá rộng rãi, được truyền từ đời này sang đời khác, nhưng chưa được thể chế hóa thành các văn bản hành chính trong việc tổ chức, quản lý di sản văn hóa, chỉ có một số nguyên tắc truyền thống theo ảnh hưởng của Phật giáo được thể chế hóa và xuất hiện trong tổ chức hành chính và chính quyền thời vương quốc Lào Lan Xang.

Sau khi Đảng Nhân dân Cách mạng Lào được thành lập, hệ thống giá trị văn hóa được khẳng định là một trong những nhân tố quan trọng, tạo nên sức mạnh về chính trị, quân sự và kinh tế - xã hội. Trong Văn kiện các Đại hội II (năm 1972), Đại hội III (năm 1982), Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đều nhấn mạnh vai trò của di sản văn hóa đối với phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng con người mới.

Năm 1986, khi nêu vấn đề phương hướng, nhiệm vụ xây dựng và phát triển văn hóa Lào thời kỳ quá độ, Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đề ra chủ trương, chính sách quản lý di sản văn hóa: “kế thừa và phát huy di sản văn hóa quý báu của dân tộc và các bộ tộc, xóa bỏ những phong tục tập quán lạc hậu, đặc biệt là phải kiên quyết xóa bỏ những tư tưởng và văn hóa của giai cấp phong kiến và chủ nghĩa thực dân cũ và mới”(1). Chủ trương này tiếp tục được khẳng định tại Đại hội V của Đảng (năm 1991) và được Nhà nước đưa vào nội dung chính trong Đề án chính sách văn hóa quốc gia, trong đó nêu rõ, Nhà nước “khuyến khích các cơ quan Trung ương, đoàn thể, cộng đồng, cá nhân cùng toàn thể nhân dân Lào hoạt động trong lĩnh vực văn hóa có sự phối hợp chặt chẽ. Phát huy sức mạnh quần chúng và cá nhân trong việc bảo vệ và gìn giữ, phát triển các di sản văn hóa, để văn hóa ngày càng có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả nước”(2).

Việc ban hành Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào năm 1992 đã tạo nền tảng để xây dựng, triển khai hệ thống chính sách, pháp luật về quản lý di sản văn hóa, thể hiện vai trò các chủ thể tổ chức hoạt động quản lý di sản văn hóa, nâng cao quyền tổ chức và điều hành hệ thống sáng tạo văn hóa theo hướng đa dạng hóa chủ thể hoạt động và quản lý, nhằm thu hút đông đảo lực lượng xã hội tham gia quản lý, tổ chức và điều hành hoạt động văn hóa.

Đại hội VI, VII, VIII của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã tiếp tục khẳng định quan điểm nhất quán về định hướng quản lý di sản văn hóa. Tuy nhiên, Đảng cũng chỉ rõ, hệ thống chính sách về quản lý văn hóa còn chưa đầy đủ, nhất quán; việc thống kê, nghiên cứu về các giá trị di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của đất nước còn chưa được tiến hành đầy đủ. Bên cạnh đó, trong quá trình phát triển, một số hiện tượng xã hội tiêu cực nảy sinh, ảnh hưởng đến giá trị di sản văn hóa mà chưa có biện pháp xử lý kịp thời và hiệu quả. Do đó, chỉ đạo Nhà nước Lào kịp thời nghiên cứu, ban hành cơ sở pháp lý về quản lý di sản văn hóa để đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước.

Luật Di sản quốc gia năm 2005 là sự thể chế hóa những chủ trương của Đảng về việc quản lý di sản lịch sử - văn hóa, tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý di sản văn hóa. Luật Di sản quốc gia Lào gồm 79 điều, trong đó có 17 điều (từ điều 26 đến điều 45) quy định về hoạt động quản lý di sản văn hóa. Các vấn đề về hoạt động quản lý di sản văn hóa như sửa chữa, phục hồi và tôn tạo di sản; nghiên cứu, triển lãm, quảng bá; quy định về việc khai thác, bảo vệ và bảo tồn di sản văn hóa - lịch sử quốc gia,... được quy định cụ thể. Điều 26 về quản lý di sản văn hóa quy định: Chính phủ chịu trách nhiệm quản lý chung toàn bộ di sản văn hóa - di tích lịch sử quốc gia. Các cơ quan của Nhà nước phải phân cấp quản lý theo cấp bộ và địa phương; Chính phủ bảo vệ sở hữu trí tuệ, quyền tác giả đối với những di sản lịch sử - văn hóa của dân tộc(3). Những quy định chính sách, pháp luật này phản ánh sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của Đảng và Nhà nước Lào về việc quản lý di sản văn hóa, đồng thời thể hiện bước phát triển về nhận thức của Đảng về việc bảo vệ và giữ gìn các giá trị di sản văn hóa truyền thống.

Văn kiện Đại hội X của Đảng (năm 2015) chỉ rõ: “Phát triển văn hóa phải hướng đến chất lượng và kịp thời đại, đáp ứng được yêu cầu, nguyện vọng của quần chúng; bảo vệ, giữ gìn và nâng cao giá trị văn hóa truyền thống, các di sản văn hóa dân tộc; phát động nhiều phong trào văn hóa ở cả thành thị và nông thôn nhằm xây dựng đời sống văn hóa của đất nước, khuyến khích sáng tạo văn hóa, nâng cao chất lượng và đa dạng các sản phẩm văn hóa, phù hợp với yêu cầu ngày càng cao trong nước và quốc tế, phát triển văn hóa du lịch để thu hút sự quan tâm của du khách quốc tế”(4). Như vậy, vấn đề quản lý di sản văn hóa đã trở thành một nhiệm vụ trọng tâm trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng giao lưu và hội nhập quốc tế của Lào.

Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, Nhà nước CHDCND Lào đã ban hành Hiến pháp năm 2016, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp quyền, nhất là hệ thống quản lý theo hướng đa chủ thể, đa ngành. Điều 23, Hiến pháp năm 2016 quy định về việc quản lý văn hóa, trong đó khẳng định, quản lý di sản văn hóa cùng với việc bảo vệ đặc trưng di sản văn hóa là những nội dung rất quan trọng. Hiến pháp nêu rõ: “Chính phủ khuyến khích các hoạt động văn hóa, văn học - nghệ thuật; việc sáng tạo, quản lý và bảo vệ những di sản văn hóa - lịch sử - thiên nhiên; khôi phục, tôn tạo cổ vật và những nơi tôn nghiêm”(5).

Như vậy, những năm qua, Đảng và Nhà nước Lào đã dành sự quan tâm và ưu tiên trong việc định hướng, chỉ đạo quản lý di sản văn hóa. Để công tác quản lý di sản văn hóa đạt hiệu quả, đòi hỏi phải có sự đồng bộ về đường lối, chính sách, giữa việc ban hành và thi hành pháp luật, giữa cơ cấu tổ chức với năng lực quản lý và trình độ chuyên môn.

2.2. Thực trạng quản lý di sản văn hóa ở Lào hiện nay

Theo Luật Di sản quốc gia, di sản văn hóa của Lào tồn tại dưới hai hình thức: Di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể. Theo đó, di sản văn hóa vật thể là sản phẩm vật chất có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, bao gồm danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử văn hóa, bảo vật quốc gia, hiện vật được lưu truyền lại, có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học. Di sản văn hóa phi vật thể là sản phẩm tinh thần có giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học, được lưu giữ bằng trí nhớ, chữ viết, được lưu truyền bằng phương thức truyền miệng, truyền nghề, diễn xướng và các hình thức khác (tiếng nói, chữ viết, tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học, văn học truyền miệng, diễn xướng dân gian, lối sống, nếp sống, lễ hội, bí quyết về nghề thủ công truyền thống, văn hóa ẩm thực, trang phục truyền thống, nghi thức dân gian...)

Hiện nay, Lào có 1.452 di tích, trong đó các di tích văn hóa cấp quốc gia được Nhà nước công nhận bao gồm: 122 di tích lịch sử cách mạng; 157 di tích kiến trúc nghệ thuật; 470 danh lam thắng cảnh; xây dựng 59 bảo tàng từ cấp trung ương đến địa phương(6). Gắn với di tích là các sinh hoạt văn hóa dân gian truyền thống đặc sắc; nhiều di tích, lễ hội có tầm ảnh hưởng lớn về văn hóa - lịch sử, là cơ sở để nghiên cứu, đánh giá sự phát triển văn hóa - xã hội, là tài sản vô giá, gắn kết cộng đồng dân tộc, là cơ sở để sáng tạo những giá trị mới và giao lưu văn hóa.

Công tác quản lý di sản văn hóa dân tộc ở Lào trong những năm gần đây đã đạt được một số kết quả sau:

Công tác bảo tồn di sản văn hóa được tiến hành bài bản, đạt được nhiều kết quả nổi bật. Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch đã đệ trình hồ sơ và được tổ chức UNESCO công nhận di sản văn hóa thế giới, gồm: Cố đô Luong Prabang thuộc tỉnh Luong Prabang (năm 1995), Đền Wat Phu ở tỉnh Champasak (năm 2001), Cánh đồng chum tỉnh Xieng Khuang (năm 2019), đồng thời tiếp tục hoàn thiện hồ sơ về Cánh đồng Chum và đệ trình UNESCO công nhận là Di sản thế giới. Các bộ, ngành đã phối hợp với chính quyền địa phương tiến hành tu bổ hệ thống đền chùa, di tích lịch sử - văn hóa, đồng thời phối hợp với ngành du lịch trong việc quản lý di tích, cổ vật có giá trị, kết hợp với việc khảo sát, nghiên cứu những cổ vật được khai quật để có kế hoạch bảo tồn và trưng bày tại các bảo tàng. Ngoài ra, Nhà nước và các cơ quan ở địa phương cùng tiến hành khôi phục các lễ hội, bao gồm cả lễ hội theo tín ngưỡng dân gian và lễ hội Phật giáo, tổ chức các ngày lễ kỷ niệm truyền thống ở cấp quốc gia và địa phương.

Để thực hiện các dự án liên quan đến di sản văn hóa, Chính phủ Lào đã đầu tư kinh phí, vận động sự đóng góp từ các thành phần kinh tế và nhân dân. Từ năm 2000 đến 2010, Lào đã chi 67,383 tỷ kíp để tôn tạo di tích (trong đó ngân sách nhà nước là 42,374 tỷ kíp, ngân sách địa phương là 10,615 tỷ kíp, nguồn vốn nước ngoài là 6,874 tỷ kíp, nhân dân đóng góp là 1,72 tỷ kíp, các thành phần kinh tế khác là 5 tỉ Kíp). Cũng trong giai đoạn này, Chính phủ đã phê duyệt 89 dự án với kinh phí 12,937 tỷ kíp cho các dự án khôi phục, bảo tồn văn hóa phi vật thể trên cả nước(7).

Từ năm 2011 đến 2015, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ Thông tin, Văn hóa và Du lịch tích cực nâng cao giá trị di sản văn hóa quốc gia trên cơ sở đa dạng văn hóa các dân tộc. Các bộ, ngành đã phối hợp với chính quyền địa phương quản lý và trùng tu di tích lịch sử hư hỏng, đặc biệt là hoàn thành việc xây dựng thủ đô Viêng Chăn; trụ cột tại làng Vắt Chăn, huyện Chăn Tha Bu Ly, thủ đô Viêng Chăn. Ngoài ra, một số công trình kiến trúc có giá trị cũng được đầu tư xây dựng như: tượng đài Chủ tịch Kayson Phomvihan ở quận Viêng Xay, tỉnh Savanakhet(8).

Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2016-2025) đã đặt ra yêu cầu bảo vệ và giữ gìn các giá trị di sản văn hóa truyền thống, đặc biệt là bảo vệ và nâng cao các di sản văn hóa độc đáo của dân tộc Lào, đồng thời quảng bá đến bạn bè quốc tế, nhằm thúc đẩy du lịch văn hóa, tiếp nhận các giá trị văn hóa tiên tiến của nhân loại một cách có chọn lọc, phù hợp với thời đại; nâng cao khả năng hội nhập quốc tế, ngăn chặn các vấn đề tiêu cực trong văn hóa xã hội; cải thiện và phát triển các sản phẩm văn hóa da dạng với chất lượng cao, đáp ứng mục tiêu phát triển bền vững đất nước; phát triển các làng văn hóa và gia đình văn hóa, xây dựng xã hội hòa bình, an toàn, văn minh.

Tuy nhiên, bên cạnh những bước tiến đã đạt được, công tác quản lý di sản văn hóa còn bộc lộ một số hạn chế. Các hành vi vi phạm đối với việc bảo tồn di sản văn hóa dân tộc ở Lào đang có xu hướng gia tăng, khó kiểm soát: Việc làm giả đồ cổ, phục chế cổ vật diễn biến phức tạp. Nhiều đồ cổ bị làm giả, buôn bán trôi nổi trên thị trường, gây khó khăn cho công tác quản lý. Vấn đề thất thoát cổ vật ra nước ngoài cũng đáng lo ngại. Sự thất thoát này do người nước ngoài hoặc người Lào ở nước ngoài về nước, đi du lịch, đi công tác rồi vận chuyển cổ vật ra khỏi đất nước, hoặc một số người tổ chức bán cổ vật ra nước ngoài. Bên cạnh đó, công tác quản lý lễ hội còn buông lỏng, dẫn đến tình trạng ở một số lễ hội xuất hiện hành vi tiêu cực, phản cảm, các hoạt động lừa đảo lợi dụng tôn giáo, tín ngưỡng, lợi dụng trẻ em, người già đi theo du khách xin tiền... làm mất đi vẻ đẹp và sự linh thiêng của lễ hội.

Trong đời sống xã hội, các hoạt động văn hóa diễn ra liên tục và phát triển không ngừng. Những văn bản pháp luật đã ban hành chỉ có thể phù hợp với một giai đoạn nhất định, đòi hỏi thường xuyên bổ sung, hoàn thiện cho phù hợp với tình hình mới. Luật Di sản quốc gia năm 2005 cùng với một số quy chế thực hiện bảo vệ và phát huy di sản văn hóa dân tộc, là cơ sở pháp lý quan trọng để triển khai các hoạt động bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa dân tộc, nhưng luật chưa thể hiện đầy đủ các phương diện, một số nội dung cần được điều chỉnh để phù hợp với thực tiễn hoạt động quản lý văn hóa.

2.3. Một số nhận xét về công tác quản lý Nhà nước về di sản văn hóa ở Lào

Thứ nhất, Đảng và Nhà nước Lào luôn giữ vai trò định hướng, điều hành trong việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Định hưởng quản lý văn hóa nói chung và quản lý di sản văn hóa nói riêng ở Lào dựa trên nguyên tắc Nhà nước pháp quyền, theo đó, cấu trúc quản lý vận hành theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ. Quản lý di sản văn hóa dựa trên nguyên tắc đồng thuận, không quan liêu hành chính. Hệ thống quản lý thống nhất đã tạo nên các yếu tố tích cực trong việc hoạch định và thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước, đồng thời nêu cao vai trò lãnh đạo của Đảng và Nhà nước, nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ của người dân. Những nguyên tắc lãnh đạo, chỉ đạo nhất quán, xuyên suốt đã mang lại thành công của Lào trong công tác quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Thứ hai, quản lý di sản văn hóa ở Lào luôn gắn liền với việc vận động quần chúng, các tổ chức, cá nhân cùng tham gia. Xu hướng chung và phổ biến của thế giới ngày nay, ở mọi quốc gia, nhà nước đều khuyến khích và tạo điều kiện để các cộng đồng và mỗi người dân được tham gia các hoạt động văn hóa. Vì di sản văn hóa thuộc về nhân dân, mọi người đều có quyền hưởng thụ và có nghĩa vụ đóng góp xây dựng, phát triển nguồn di sản văn hóa của dân tộc mình. Nói cách khác, quản lý không có mục đích tự thân, nhà quản lý phải đứng ra tổ chức, thu hút quần chúng tham gia vào các hoạt động bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. Mục đích cuối cùng của công tác quản lý là làm sao cho nhân dân được thụ hưởng nguồn di sản văn hóa lành mạnh, phong phú, xây dựng ý thức bảo tồn và phát triển vốn quý giá của dân tộc, góp phần phát triển đất nước. Đây cũng là một mục tiêu được Đảng và Nhà nước Lào thực hiện thành công trong kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội từ khi Luật Di sản quốc gia được ban hành năm 2005.

3. Kết luận

Trong những năm qua, công tác quản lý di sản văn hóa ở Lào đã đạt được những kết quả đáng ghi nhận. Đảng và Nhà nước Lào ngày càng quan tâm định hướng và chỉ đạo sát sao, đặc biệt đã triển khai thực hiện việc quản lý di sản bằng pháp luật một cách nghiêm túc, kịp thời, nhờ đó công tác quản lý di sản ngày càng bài bản, khoa học. Tuy vậy, để công tác quản lý di sản văn hóa ở Lào khắc phục được những hạn chế và hoạt động có hiệu quả hơn nữa, cần thiết phải có nhiều giải pháp từ hoạt động lãnh đạo, quản lý, sự chỉ đạo nhất quán và thực thi nghiêm túc của các cấp, các ngành. Nâng cao chất lượng hoạt động quản lý di sản văn hóa không thể chỉ dừng ở những phương hướng mang tính chiến lược mà còn phải được triển khai rộng rãi bằng những biện pháp, giải pháp cụ thể, sinh động, sáng tạo với sự tham gia của toàn xã hội.

Cụ thể, trong những năm tới, cần tập trung vào một số hoạt động và dự án để đạt được mục tiêu đề ra: Hỗ trợ phục hồi, bảo tồn và nâng cao tính độc đáo dân tộc của các di sản lịch sử - văn hóa; tuyên truyền và nâng cao nhận thức cho người dân về văn hóa dân tộc; thiết lập mô hình sinh kế ở từng địa phương phù hợp với văn hóa và đặc điểm của cộng đồng; xây dựng kế hoạch tổng thể để quản lý và bảo vệ, nghiên cứu giá trị các di sản văn hóa. Về chính sách và các văn bản pháp luật, tiến hành sửa đổi và xây dựng các văn bản pháp quy liên quan đến công tác quản lý di sản văn hóa.

_________________

Ngày nhận bài: 31-10-2024; Ngày bình duyệt: 11-11-2024; Ngày duyệt đăng: 11-6-2025.

Email tác giả: hnubzoo121217@gmail.com

(1) Đảng Nhân dân Cách mạng Lào: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng, 1986, tr.74.

(2) Chính phủ nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào: Chính sách văn hóa quốc gia, tr.5.

(3), (6) Luật Di sản quốc gia, in trong cuốn Luật và Pháp lý trong lĩnh vực văn hóa - xã hội, Ban Tuyên truyền Luật pháp, 2011, tr.163, 166.

(4) Đảng Nhân dân Cách mạng Lào: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng, 2015, tr.19.

(5) Hiến pháp nước Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Nxb Quốc gia Lào, 2015, tr.8.

(7) Xem: Fongsamouth Thovinh: Quản lý văn hóa ở Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Luận án tiến sỹ, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP. Hồ Chí Minh, 2013, tr.86

(8) Bộ kế hoạch và Đầu tư CHDCND Lào: Kế hoạch phát triển kinh tế xã hội quốc gia 5 năm lần thứ 7 (2011 - 2015), 2011, tr.67-68.