Phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong 40 năm đổi mới
(LLCT) - Trong công cuộc đổi mới, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam đã không ngừng đổi mới nội dung và phương thức hoạt động để thực hiện ngày càng hiệu quả các chức năng, nhiệm vụ được giao; đáp ứng tốt hơn nhu cầu, nguyện vọng của các tầng lớp phụ nữ, góp phần thúc đẩy bình đẳng giới và nâng cao vị thế của phụ nữ. Bài viết tổng quan các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với hoạt động của tổ chức Hội, phân tích những thay đổi trong phương thức hoạt động của Hội từ năm 1986 và khái quát kết quả đạt được, từ đó đề xuất một số giải pháp đổi mới phương thức hoạt động của Hội nhằm hoạt động hiệu quả, sáng tạo và thực chất trong thời kỳ phát triển mới của đất nước.
PGS, TS TRẦN QUANG TIẾN,
TS PHÙNG THỊ QUỲNH TRANG,
TS HOÀNG HƯƠNG THỦY,
Học viện Phụ nữ Việt Nam

1. Mở đầu
Trải qua 95 năm hoạt động dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội Liên hiệp phụ nữ (LHPN) Việt Nam đã có sự phát triển mạnh mẽ, khẳng định vai trò, sự đóng góp ngày càng to lớn vào công tác vận động phụ nữ và bình đẳng giới cũng như góp phần quan trọng vào sự phát triển đất nước trên nhiều lĩnh vực. Trong 40 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Hội không ngừng đổi mới mạnh mẽ cả về nội dung và phương thức hoạt động.
Trải qua mỗi nhiệm kỳ đại hội phụ nữ toàn quốc, Hội đã đề cập nhiều vấn đề mới trên các lĩnh vực, trong công tác Hội và phong trào phụ nữ tham gia thực hiện sự nghiệp đổi mới toàn diện, phát triển đất nước. Hội tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động chăm lo lợi ích thiết thực, giải quyết những vấn đề đặt ra đối với phụ nữ; đổi mới và từng bước nâng cao chất lượng thực hiện vai trò đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của phụ nữ, hoàn thành những nhiệm vụ mà Đảng, nhân dân và phụ nữ Việt Nam giao. Phương thức hoạt động của Hội trong 40 năm qua không ngừng đổi mới theo hướng linh hoạt, sáng tạo, gắn với thực tiễn cuộc sống và yêu cầu phát triển của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, phương thức hoạt động của Hội cũng đứng trước nhiều thách thức dưới tác động của hội nhập quốc tế sâu rộng, của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và của chuyển đổi số. Bên cạnh đó, những thay đổi mạnh mẽ về kinh tế dẫn đến những thay đổi về xã hội có liên quan đến tổ chức Hội, bao gồm cơ cấu và di cư lao động, chức năng và các giá trị trong gia đình, nhu cầu và nguyện vọng của phụ nữ, trẻ em,… Chính vì vậy, trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, đổi mới phương thức hoạt động của Hội là tất yếu nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của đất nước và hội nhập quốc tế.
2. Nội dung
2.1. Chủ trương, chính sách của Đảng về phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, đại diện chăm lo, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tầng lớp phụ nữ, tham gia xây dựng Đảng, tham gia quản lý nhà nước; Đoàn kết, vận động phụ nữ thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; vận động xã hội thực hiện bình đẳng giới(1). Với nhiệm vụ trọng tâm là tuyên truyền, giáo dục chính trị, tư tưởng; vận động các tầng lớp phụ nữ; tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện xã hội và giám sát; xây dựng, phát triển tổ chức Hội vững mạnh; đoàn kết, hợp tác với phụ nữ các nước, các tổ chức, cá nhân vì bình đẳng, phát triển và hòa bình. Hệ thống tổ chức các cấp, các chi hội phụ nữ, tổ phụ nữ được thành lập và hoạt động ở các thôn bản, khu dân phố, thu hút gần 20 triệu hội viên tham gia.
Với những đặc trưng về hệ thống tổ chức, tính chất liên hiệp và tập hợp đông đảo các tầng lớp phụ nữ trong cả nước, phương thức hoạt động của Hội luôn được đổi mới, sáng tạo theo phương châm: “duy trì và phát huy những việc làm, cách làm hiệu quả; vận dụng sáng tạo những việc làm, cách làm mới, phù hợp; thay đổi, cải tiến những việc làm, cách làm chưa hiệu quả, chưa phù hợp, khắc phục tình trạng lạc hậu, trì trệ; đáp ứng yêu cầu của sự phát triển và đòi hỏi ngày càng cao của công tác phụ nữ, góp phần thực hiện mục tiêu bình đẳng giới”(2).
Đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội, trong đó có Hội LHPN Việt Nam là yêu cầu được đề cập xuyên suốt trong nhiều văn kiện của Đảng.
Nghị quyết 8b/NQ-HNTW ngày 27-3-1990 và Chỉ thị số 62/CT-TW ngày 25-6-1990 của Ban Bí thư (khóa VI) đã nêu rõ các tổ chức đoàn thể cần cải tiến phương thức hoạt động, đề ra nhiệm vụ của tổ chức mình để đem lại lợi ích thiết thực cho hội viên.
Kết luận số 62-KL/TW ngày 08-12-2009 của Bộ Chính trị nhấn mạnh tiếp tục đổi mới phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội. Nội dung này được khẳng định tại Đại hội XII của Đảng (năm 2016) với yêu cầu: “Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội”(3).
Kế hoạch số 01-KH/BCĐTW ngày 28-2-2019 của Ban Chỉ đạo Đề án tổng kết 10 năm thực hiện Kết luận số 62-KL/TW ngày 08-12-2009 của Bộ Chính trị và Thông báo 160-TB/TW ngày 15-01-2020 của Bộ Chính trị thông báo Kết luận về tiếp tục thực hiện Kết luận số 62-KL/TW ngày 08-12-2009 của Bộ Chính trị về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội đã xác định: “Kiện toàn, sắp xếp tổ chức bộ máy, tinh gọn đầu mối bên trong của MTTQ và các đoàn thể chính trị - xã hội gắn với đổi mới nội dung, phương thức hoạt động bảo đảm hoạt động hiệu lực, hiệu quả”.
Với chủ trương nhất quán trong công tác lãnh đạo, Đảng xác định các đoàn thể cần đổi mới tổ chức và hoạt động, có hình thức tập hợp linh hoạt, nội dung hoạt động thích hợp để đoàn kết hội viên, tăng cường mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân, hướng mạnh về cơ sở, thu hút đông đảo nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giám sát thực hiện dân chủ, chăm lo và bảo vệ lợi ích chính đáng của các tầng lớp nhân dân; bảo vệ Đảng và chính quyền; góp phần tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Hội LHPN Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội, thành viên của MTTQ Việt Nam, một thành tố quan trọng trong hệ thống chính trị. Do vậy, các văn kiện Đảng từ năm 1986 đến nay đều yêu cầu các cấp Hội luôn luôn đổi mới về nội dung và phương thức hoạt động.
Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết 04 -NQ/TW ngày 12-7-1993, yêu cầu: “Tiếp tục đổi mới Hội LHPN Việt Nam, đa dạng hóa hình thức tổ chức, nội dung và phương thức hoạt động của Hội theo lứa tuổi, ngành nghề, sở thích, vùng, miền, gắn quyền lợi với nghĩa vụ, hướng dẫn các tầng lớp phụ nữ hoạt động theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội văn minh”. Chỉ thị số 28/CT-TW của Ban Bí thư ban hành ngày 29-9-1993 giao nhiệm vụ cho Đảng đoàn Hội trực tiếp chỉ đạo phong trào phụ nữ, đổi mới nội dung, tổ chức và phương thức hoạt động của Hội.
Nghị quyết 11-NQ/TW ngày 27-4-2007 của Bộ Chính trị về công tác phụ nữ thời kỳ CNH, HĐH đất nước đã chỉ ra những yêu cầu, giải pháp cụ thể và đồng bộ về “đẩy mạnh đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, khắc phục tình trạng “hành chính hóa”, hướng mạnh hoạt động về cơ sở, khu dân cư, chăm lo thiết thực quyền lợi chính đáng, hợp pháp cho hội viên, không phô trương hình thức, không chạy theo thành tích; phát huy vai trò chủ động tham mưu, đề xuất với Đảng, Nhà nước về chủ trương, chính sách liên quan đến phụ nữ, thực hiện tốt chức năng giám sát và phản biện xã hội; tham gia đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí”.
Nghị quyết khẳng định: “Hội cần mở rộng tính liên hiệp, tập hợp rộng rãi các đối tượng là phụ nữ trên nguyên tắc dân chủ, tự nguyện; đa dạng hóa các hình thức tập hợp để phát triển hội viên trên các lĩnh vực”. Đến năm 2018, Ban Bí thư tiếp tục ban hành Chỉ thị số 21-CT/TW về tiếp tục đẩy mạnh công tác phụ nữ trong tình hình mới, với 5 nhiệm vụ trọng tâm, trong đó “Hội LHPN Việt Nam các cấp phát huy vai trò nòng cốt trong công tác phụ nữ; tinh gọn tổ chức bộ máy gắn với cơ cấu lại, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ. Đổi mới nội dung, phương thức hoạt động theo hướng thiết thực, chuyên nghiệp, đa dạng hóa hình thức tập hợp, hướng về cơ sở, gắn với các vấn đề thiết thân của phụ nữ…”.
2.2. Phương thức hoạt động của Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam trong thời kỳ đổi mới
Thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VI của Đảng (năm 1986), Hội đã từng bước đổi mới để thích ứng với yêu cầu mới. Được Đảng quan tâm lãnh đạo, Hội không ngừng hoàn thiện các hình thức tổ chức, phương thức hoạt động nhằm đại diện bảo vệ quyền lợi phụ nữ và đẩy mạnh bình đẳng giới.
Một là, phương thức tham mưu, đề xuất với cấp ủy đảng
Hội LHPN Việt Nam luôn xác định chức năng, nhiệm vụ là “cầu nối”, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của phụ nữ với Đảng, Nhà nước, nên việc chủ động tham mưu, đề xuất với cấp ủy đảng các cấp là một phương thức hoạt động quan trọng. Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ VI (1987-1992), xác định một trong 8 nhiệm vụ trọng tâm của nhiệm kỳ là “Đào tạo bồi dưỡng cán bộ, đổi mới phương thức hoạt động; xây dựng củng cố cơ sở Hội”. Nghị quyết Đại hội cũng đặt ra yêu cầu tích cực tham gia xây dựng, kiểm tra, giám sát chính sách đối với phụ nữ, trẻ em.
Qua các kỳ Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc, hoạt động tham mưu, đề xuất ngày càng được cụ thể hóa, đi vào những chính sách thiết thực với phụ nữ. Đại hội XI (2012-2017) xác định nhiệm vụ trọng tâm: “Tham mưu đề xuất, tham gia xây dựng, phản biện và giám sát luật pháp, chính sách về bình đẳng giới”; Đại hội XII (2017-2022) xác định một trong hai khâu đột phá là “Nâng cao hiệu quả công tác giám sát, phản biện xã hội, tham mưu, đề xuất chính sách giải quyết các vấn đề thiết thân của phụ nữ”. Những định hướng này đã thúc đẩy Hội chủ động hơn trong đối thoại chính sách.
Trong thực tiễn, nhiều địa phương đã tổ chức thành công các buổi đối thoại giữa lãnh đạo Hội LHPN với người đứng đầu cấp ủy, chính quyền để nắm bắt và giải quyết kịp thời những kiến nghị của phụ nữ. Chẳng hạn, Ban Thường vụ Hội LHPN Thành phố Hồ Chí Minh đã tích cực đề xuất Thành ủy ban hành Thông tri số 28-TT/TU (2023) về “Tháng cùng phụ nữ hành động”, huy động được gần 40 tỷ đồng chăm lo cho phụ nữ nghèo và hoàn cảnh khó khăn(4). Cấp Hội các tỉnh, thành phố cũng phối hợp tích cực với chính quyền xây dựng chính sách liên quan đến phụ nữ, như Nghị quyết 35/2023/NQ-HĐND của Thành phố Hồ Chí Minh về hỗ trợ người cao tuổi, trẻ em mồ côi.
Hai là, phương thức chỉ đạo, tổ chức thực hiện
Phương thức chỉ đạo, tổ chức hoạt động trong một tổ chức có hệ thống các cấp hành chính và hàng trăm nghìn chi hội, tổ phụ nữ là phương thức nền tảng, được triển khai thường xuyên và thống nhất trên cả nước. Trong những năm đầu đổi mới, Hội đã quan tâm tái cơ cấu tổ chức, nâng cao chất lượng cán bộ cơ sở, hướng mạnh về cơ sở. Đại hội VI ghi nhận việc “đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đổi mới phương thức hoạt động; xây dựng, củng cố cơ sở Hội”, thể hiện quyết tâm hoàn thiện bộ máy và hình thức tổ chức. Tiếp đó, Hội đặt ra yêu cầu đổi mới chỉ đạo - điều hành để tổ chức Hội ngày càng chuyên nghiệp, hiệu quả. Từ Đại hội XI (năm 2012) đến Đại hội XII (năm 2017), nhiều giải pháp nhằm “cải tiến công tác chỉ đạo, điều hành và quản lý trong hệ thống Hội, khắc phục biểu hiện hành chính hóa, hình thức” đã được thực hiện. Những năm gần đây, Hội đã ứng dụng linh hoạt công nghệ thông tin và mô hình sinh hoạt mới để đổi mới tổ chức. Nội dung, phương thức hoạt động của các cấp Hội tiếp tục được đổi mới, hướng mạnh về cơ sở, chú trọng địa bàn có tỷ lệ tập hợp hội viên thấp. Bằng quyết tâm, sáng tạo trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện, nhiều nơi triển khai các mô hình tập hợp phụ nữ theo lứa tuổi, sở thích, ngành nghề và qua mạng xã hội, góp phần kết nạp thêm 2 triệu hội viên mới; đến cuối nhiệm kỳ Đại hội XII chỉ còn 8 cơ sở có tỷ lệ tập hợp dưới 50%(5). Đồng thời, các cấp Hội đã chú trọng kiện toàn bộ máy chuyên trách, cải tiến phương pháp làm việc và bồi dưỡng nâng cao năng lực cán bộ, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Tuy nhiên, chất lượng một số cấp cơ sở chưa đồng đều, phương thức hoạt động một số nơi còn đơn điệu. Đại hội XIII đã quán triệt rõ hơn phương thức triển khai: “Trung ương định hướng chiến lược, tỉnh vận dụng sáng tạo, huyện đồng hành cơ sở, xã nắm chắc hội viên”. Qua đó, phương thức chỉ đạo trong hệ thống Hội đã thực sự hướng về cơ sở, phát huy dân chủ và tính chủ động sáng tạo của cán bộ, hội viên.
Ba là, phương thức phối hợp với chính quyền, các đoàn thể và tổ chức chính trị - xã hội, hợp tác quốc tế
Phối hợp với chính quyền cùng cấp và các tổ chức đoàn thể khác là phương thức quan trọng nhằm huy động sức mạnh tổng hợp trong thực hiện các mục tiêu về công tác phụ nữ và bình đẳng giới. Truyền thống đoàn kết, liên hiệp thể hiện rõ qua phương thức này. Từ nhiệm kỳ Đại hội VI, Hội đã xác định tăng cường “đoàn kết với phụ nữ thế giới, đấu tranh vì hòa bình…”, mở đầu cho các hoạt động hợp tác quốc tế.
Những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng, Hội LHPN phối hợp chặt chẽ với Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội, các bộ, ban, ngành để triển khai nhiệm vụ. Cơ chế “vận động xã hội” được Hội xác định: “là thực hiện tốt cơ chế phối hợp giữa Hội với các cấp chính quyền, các bộ, ban, ngành trong hoạt động phụ nữ và bình đẳng giới”. Hội đã chủ động ký kết liên tịch, chương trình phối hợp với nhiều bộ, ngành và tổ chức xã hội. Trong nhiệm kỳ XII, các cấp Hội đã ký kết phối hợp với 30 bộ, ngành, cơ quan để bảo vệ quyền của phụ nữ, lồng ghép vấn đề giới trong các chương trình phát triển kinh tế - xã hội địa phương; đã vận động được 480 tỷ đồng và 730 nghìn phần quà hỗ trợ hội viên, phụ nữ bị ảnh hưởng bởi Covid-19, tài trợ học bổng, sinh kế cho hộ nghèo; có 500 trẻ mồ côi được Hội đỡ đầu(6).
Thông qua các chương trình mục tiêu quốc gia (như Dự án 8 về bình đẳng giới tại vùng DTTS giai đoạn 2021-2030) và các phong trào lớn như: “Đồng hành cùng phụ nữ biên cương”, “Mẹ đỡ đầu” trẻ mồ côi… Hội đã triển khai đồng bộ với chính quyền địa phương, huy động thêm kinh phí và nguồn lực từ xã hội cho các dự án này. Ngoài ra, Hội chủ trì nhiều đề án, giải pháp chung với các tổ chức xã hội và doanh nghiệp, ví dụ phối hợp với Hội Nữ doanh nhân phát động giải thưởng “Nữ Doanh nhân xuất sắc Thành phố Hồ Chí Minh” nhằm thúc đẩy vai trò nữ trong kinh tế.
Kết quả từ các phối hợp này là những chính sách, chương trình chăm lo phụ nữ, trẻ em được ban hành, giúp tăng cường hiệu quả công tác hội. Tuy nhiên, vẫn còn tình trạng phối hợp thiếu đồng bộ giữa các địa phương; một số liên kết chỉ dừng ở ký văn bản, chưa thực chất. Do đó, Hội cần tiếp tục củng cố cơ chế điều phối liên ngành, tổ chức các diễn đàn giao lưu giữa Hội các cấp với các ban, ngành, đoàn thể khác; đồng thời xây dựng tiêu chí đo lường kết quả phối hợp, tránh trùng lặp, nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực chung.
Bốn là, phương thức vận động nguồn lực, thiết lập mạng lưới
Tăng cường vận động nguồn lực và thiết lập, mở rộng mạng lưới hợp tác là một chiến lược từ rất sớm của Hội LHPN, nhằm khai thác các nguồn lực để chăm lo cho hội viên, phụ nữ. Trên cơ sở quy định của pháp luật và tư cách “đại diện bảo vệ quyền lợi chính đáng của phụ nữ”, Hội các cấp đã ngày càng chủ động vận động các loại nguồn lực: tài chính, vật chất, kiến thức, kinh nghiệm từ xã hội hóa công tác phụ nữ. Có sự thay đổi khá rõ về cơ chế vận động nguồn lực: Từ nhiệm kỳ Đại hội VII đến Đại hội IX, vận động nguồn lực quốc tế được chú trọng và đạt được nhiều kết quả. Từ Đại hội X đến Đại hội XIII, vận động nguồn lực quốc tế vẫn được triển khai song song với đẩy mạnh vận động nguồn lực trong nước thông qua hợp tác với doanh nghiệp và đặc biệt là xây dựng và thực hiện các đề án được Nhà nước cấp kinh phí.
Theo báo cáo Đại hội XIII, chỉ riêng Trung ương Hội đã vận động được 9,1 triệu USD cho các mô hình hoạt động mới và nâng cao năng lực cán bộ. Đồng thời, sự phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề cho Hội mở rộng hợp tác với doanh nghiệp (như giao thương sản phẩm khởi nghiệp, đào tạo nghề, hỗ trợ vay vốn) và thu hút tổ chức phi chính phủ vào các dự án vì mục tiêu phụ nữ.
Trong 3 nhiệm kỳ gần đây, Hội chú trọng xây dựng mạng lưới chuyên gia và cộng tác viên trong từng lĩnh vực: từ nữ đại biểu Quốc hội, HĐND, đến các cán bộ nữ chủ chốt ở cơ sở, nhằm tham gia xây dựng, phản biện chính sách và tư vấn chuyên môn cho tổ chức Hội. Nhờ đó, hàng loạt chương trình như “Ngày hội phụ nữ khởi nghiệp” được triển khai cả nước, ươm mầm hàng chục nghìn ý tưởng sáng tạo của phụ nữ. Tổng kết nhiệm kỳ cho thấy Hội đã vận động được 746 tỷ đồng xây mới, sửa chữa mái ấm tình thương và trên 3.000 tỷ đồng cho hoạt động xã hội, từ thiện khác(7). Cơ chế vận động này đã góp phần quan trọng trong việc xã hội hóa nguồn lực thực hiện các nhiệm vụ Hội, tăng tính bền vững cho hoạt động.
Kết quả khảo sát năm 2024, 2025 về đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam cho thấy, hội viên đã khẳng định những đóng góp quan trọng, ngày càng to lớn của Hội vào phát triển kinh tế - xã hội trong 40 năm qua. Nhận xét, đánh giá của hội viên, phụ nữ về nội dung và phương thức hoạt động của Hội qua khảo sát trực tuyến đầu năm 2025 đối với hơn 12.300 hội viên, phụ nữ (Hình 1) cho thấy, sự đánh giá rất tích cực về phương thức hoạt động của Hội. Cả 4 tiêu chí đánh giá về phương thức hoạt động của Hội đều có trên 50% số người lựa chọn, trong đó, sự đánh giá cao nhất là “phương thức hoạt động, cách làm của Hội thu hút được sự tham gia của hội viên, phụ nữ và cả người dân” và “phương thức hoạt động, cách làm của Hội có nhiều đổi mới, sáng tạo”. Kết quả khảo sát cũng khẳng định, những phụ nữ là hội viên của Hội có tỷ lệ trả lời cao hơn rất nhiều so với những phụ nữ không phải là hội viên; những phụ nữ trên 55 tuổi có tỷ lệ đánh giá cao hơn những phụ nữ trẻ hơn. Bên cạnh đó, 62,6% số người khảo sát đánh giá cao tinh thần “tích cực, trách nhiệm, tình nguyện” của cán bộ hội; có 61,2% số phụ nữ được hỏi khẳng định “Hội đã nhận được sự ủng hộ, tin tưởng ngày càng cao của hội viên, phụ nữ và người dân”.
Hình 1: Đánh giá của hội viên, phụ nữ về phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam (% tổng số người được khảo sát)

Nhóm nghiên cứu cũng khảo sát về các đóng góp của Hội vào sự phát triển kinh tế - xã hội thông qua 10 tiêu chí đại diện cho các lĩnh vực khác nhau (Hình 2). Với thang điểm tối đa là 10, điểm trung bình của tất cả 10 tiêu chí đều đạt trên 8 điểm và khá đồng đều, khẳng định sự ghi nhận cao về những đóng góp toàn diện của tổ chức Hội vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Những đánh giá của hơn 12 nghìn hội viên, phụ nữ hoàn toàn nhất quán với những nội dung trọng tâm trong hoạt động của Hội: tham gia mạnh hơn vào các lĩnh vực phát triển xã hội hơn là tăng trưởng, phát triển kinh tế; hoạt động hỗ trợ phụ nữ tham chính chưa được coi trọng bằng các lĩnh vực khác; hoạt động xóa đói giảm nghèo vẫn được Hội rất quan tâm nhưng có phần giảm trong những năm gần đây do đời sống nhân dân cải thiện mạnh, số hộ nghèo còn rất ít. Mặc dù vậy, sự khác biệt về điểm số đánh giá giữa các lĩnh vực là không đáng kể. Khảo sát cũng cho thấy, hội viên đánh giá cao hơn khá nhiều so với những phụ nữ không phải là hội viên của Hội, khẳng định rõ ràng những lợi ích đạt được khi tham gia tổ chức Hội.
Hình 2: Đánh giá của hội viên, phụ nữ về đóng góp của Hội LHPN Việt Nam vào các lĩnh vực kinh tế - xã hội trong 40 năm đổi mới (điểm 10 là cao nhất)

3. Kết luận
Đồng hành với quá trình đổi mới của đất nước trong 40 năm qua, Hội LHPN Việt Nam không ngừng thay đổi về nội dung và phương thức hoạt động và đã đạt được nhiều thành tựu. Tuy nhiên, trước những thách thức, yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, dưới tác động ngày càng mạnh mẽ của hội nhập quốc tế, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, chuyển đổi số và nhất là trong bối cảnh toàn hệ thống chính trị đang quyết liệt tinh giản bộ máy tổ chức, nhân sự và sử dụng nguồn lực hiệu quả; các cấp Hội cần tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, liên tục về cả nội dung và phương thức hoạt động để hoạt động ngày càng thực chất, hiệu quả, thực sự đại diện cho quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của tất cả các tầng lớp phụ nữ trong xã hội. Đổi mới phương thức hoạt động không chỉ là yêu cầu tất yếu, khách quan để Hội khẳng định sứ mệnh trong giai đoạn phát triển mới mà còn là động lực quan trọng để các cấp Hội đóng góp tích cực vào thúc đẩy tiến bộ, công bằng xã hội, góp phần xây dựng nước Việt Nam thịnh vượng, bình đẳng và phát triển bền vững.
_________________
Ngày nhận bài: 26-5-2025; Ngày bình duyệt: 30-5-2025; Ngày duyệt đăng: 19-6-2025.
Email tác giả: nhungdn@vwa.edu.vn
(1) Điều lệ Hội LHPN Việt Nam, Nhà xuất bản Phụ nữ, năm 2022.
(2) Hội LHPN Việt Nam - Hội đồng Khoa học cơ quan Trung ương Hội: Đổi mới nội dung phương thức hoạt động của Hội LHPN Việt Nam. Nxb Phụ nữ, 2015, tr.13.
(3) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.214.
(4) Nhóm PV: Hội LHPN TP Hồ Chí Minh: Điểm sáng trong tham gia giải quyết và đề xuất thành công chính sách cho phụ nữ, trẻ em, https://phunuvietnam.vn, 2024.
(5) Hiếu Anh: Phụ nữ Việt Nam góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, https://baodantoc.vn, 2022.
(6) Hội LHPN Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII, Nxb Phụ nữ, Hà Nội, 2022.
(7) Hội LHPN Việt Nam: Tài liệu sinh hoạt hội viên: Nghị quyết Đại hội đại biểu phụ nữ toàn quốc lần thứ XIII (nhiệm kỳ 2022-2027), https://www.hoilhpn.org.vn.