Nghiên cứu lý luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng với phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên

30/06/2025 21:17

(LLCT) - Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng là hệ thống quan điểm toàn diện, sâu sắc về vị trí, vai trò và nội dung, biện pháp thực hành dân chủ để xây dựng Đảng ta mãi “là đạo đức, là văn minh”. Trên cơ sở nghiên cứu tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng với phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, bài viết đề xuất giải pháp về vấn đề này đáp ứng yêu cầu đất nước bước vào kỷ nguyên phát triển mới.

TS LẠI VĂN NAM
Trường Đại học Tài chính Marketing

Các đại biểu biểu quyết tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII của Đảng_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Trong hệ thống di sản lý luận, thực tiễn Hồ Chí Minh để lại cho toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta, tư tưởng về thực hành dân chủ trong Đảng để phát huy trí tuệ của cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng. Theo Người “thực hành dân chủ là cái chìa khoá vạn năng có thể giải quyết mọi khó khăn. Trong mọi công việc, ngay từ khi lập kế hoạch và suốt cả thời gian thực hiện phải mạnh dạn phát động quần chúng, làm cho mọi người thấm nhuần tinh thần làm chủ tập thể”(1). Thực hiện những chỉ dẫn của Người về thực hành dân chủ trong Đảng góp phần quan trọng vào việc phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên trong tham gia góp ý, hiến kế vào công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam. Đồng thời, thực hành dân chủ trong Đảng để khắc phục những hạn chế, yếu kém, nhất là hiện tượng độc đoán, gia trưởng, không tôn trọng tập thể.

2. Nội dung

2.1. Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ trong Đảng

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định những quan điểm, tư tưởng về dân chủ rất sâu sắc để minh chứng cho tính ưu việt của chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam: “chế độ ta là chế độ dân chủ tức là nhân dân là người làm chủ”(2). Dân chủ dưới chủ nghĩa xã hội khác về chất so với dân chủ của xã hội cũ; dân chủ trong xã hội cũ chủ yếu phục tùng cho thiểu số, cho lợi ích của một nhóm người, nằm trong tay của giai cấp thống trị và phục vụ cho sự cai trị, áp bức, bóc lột của giai cấp cầm quyền đối với quần chúng nhân dân.

Dân chủ theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự phản ánh mối quan hệ thống nhất, biện chứng giữa Nhà nước và Nhân dân, không có sự tách bạch riêng lẻ trong lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ, đảng viên đối với Nhân dân; mọi hành động, việc làm của cán bộ, đảng viên đều phải hướng đến Nhân dân, lấy Nhân dân làm mục tiêu, đối tượng để phục vụ. Người khẳng định: “NƯỚC TA LÀ NƯỚC DÂN CHỦ. Bao nhiêu lợi ích đều vì dân. Bao nhiêu quyền hạn đều của dân. Công việc đổi mới, xây dựng là trách nhiệm của dân. Sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc là công việc của dân. Chính quyền từ xã đến Chính phủ Trung ương do dân cử ra. Đoàn thể từ Trung ương đến xã do dân tổ chức nên. Nói tóm lại quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”(4).

Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, thực hành dân chủ phải được tiến hành thật sự trong Đảng và trong quần chúng. Bởi theo Người “Đảng không phải là một tổ chức làm quan phát tài. Nó phải làm tròn nhiệm vụ giải phóng dân tộc, làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng”(5). Với mục tiêu cao cả đó, thực hành dân chủ trong Đảng sẽ phát huy cao độ trí tuệ của tập thể, những sáng kiến, kinh nghiệm, cách làm hay trong lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng của Đảng diễn ra thông suốt đạt được mục đích chính trị đề ra. Thực hành dân chủ là phương thuốc quan trọng để khắc phục những hạn chế, yếu kém trong Đảng, như hiện tượng chuyên quyền, độc đoán, gia trưởng, dân chủ hình thức, dân chủ quá chớn, vô hạn độ; những hiện tượng nói không đi đôi với làm, mất đoàn kết nội bộ.

Chủ tịch Hồ Chí Minh kịch liệt lên án, phê phán những cán bộ, đảng viên “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng, trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm, sinh ra thói thậm thà, thậm thụt và những thói xấu khác”(6)… như thế sẽ làm cho nội bộ Đảng lục đục, không thống nhất về ý chí và hành động, không lãnh đạo được quần chúng, không lãnh đạo được sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc của dân tộc.

Cũng theo Chủ tịch Hồ Chí Minh một trong yếu tố quan trọng để nâng cao sáng kiến và lòng hăng hái của cán bộ, đảng viên thực hiện tốt “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái, ba điều đó rất quan hệ với nhau. Có dân chủ mới làm cho cán bộ và quần chúng đề ra sáng kiến. Những sáng kiến đó được khen ngợi, thì những người đó càng thêm hăng hái, và người khác cũng học theo. Và trong khi tăng thêm sáng kiến và hăng hái làm việc thì những khuyết điểm lặt vặt, cũng tự sửa chữa được nhiều”(7). Để thực hành dân chủ trong Đảng tốt, Hồ Chí Minh đã yêu cầu:

Phải xây dựng cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp trong điều kiện nước ta thực hiện chế độ dân chủ. Tại Điều thứ 7, Chương 2 Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh làm trưởng ban biên soạn đã khẳng định: “Tất cả công dân Việt Nam đều bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tuỳ theo tài năng và đức hạnh của mình”. Cán bộ, đảng viên, cũng như công dân đều có quyền tham gia vào các hoạt động khác nhau của chính quyền cơ sở, không có sự phân biệt thứ cấp giữa cấp trên và cấp dưới, mục đích cuối cùng của việc làm này khơi dậy, phát huy sức mạnh của các tầng lớp Nhân dân vào sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc; xây dựng chính quyền cách mạng thực sự của dân, do dân, vì dân.

Người đã chỉ rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của Chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân như trong thời kỳ dưới quyền thống trị của Pháp, Nhật”(8). Vì vậy, Hồ Chí Minh rất coi trọng việc cơ quan, đoàn thể có những cơ chế, chính sách phù hợp, hiệu quả để thực hành dân chủ trong điều kiện nhân dân ta đã giành được chính quyền.

Cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng phải thực sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động cách mạng. Đây là vấn đề có tính nguyên tắc, mang tính sống còn để Đảng luôn là một khối thống nhất về nhận thức, hành động cách mạng. Nếu cán bộ, đảng viên trong các tổ chức đảng luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thương yêu, tương trợ, giúp đỡ nhau theo tinh thần đồng chí, đồng đội thì công việc, nhiệm vụ dù khó khăn, vất vả đến mấy cùng hoàn thành, năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng được nâng lên. Ngược lại, trong một tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên không đoàn kết, nội bộ lục đục, không tương trợ, giúp đỡ nhau, nhiệm vụ khó có thể hoàn thành. Vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quý báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(9). Muốn giữ vững tinh thần đoàn kết trong Đảng của cán bộ, đảng viên theo Chủ tịch Hồ Chí Minh nắm vững những nguyên tắc trong sinh hoạt đảng, đó là: Thực hiện nghiêm nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, gắn bó, liên hệ mật thiết với nhân dân, nêu gương đạo đức cách mạng của mỗi cán bộ, đảng viên. Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi, mọi công việc đều phải được bàn bạc công khai, minh bạch, thảo luận kỹ lưỡng trước khi đưa ra kết luận; song cần phải có sự phân công cá nhân phụ trách để quy trách nhiệm cho người đứng đầu, tránh tình trạng khi có công thì vơ vào mình, có lỗi thì đổ cho tập thể. Người đã luận giải làm rõ: “tập thể lãnh đạo là dân chủ, cá nhân phụ trách là tập trung. Tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tức là dân chủ tập trung. Làm việc mà không theo đúng cách đó, tức là làm trái dân chủ tập trung”(10).

Dân chủ và tập trung có mối quan hệ thống nhất, biện chứng tác động qua lại với nhau, dân chủ để đi đến tập trung và tập trung trên cơ sở dân chủ, đó vừa là cơ sở, vừa là động lực để thúc đẩy tính năng động, sáng tạo của mỗi cán bộ, đảng viên tham gia vào sự nghiệp cách mạng phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Người chỉ ra rằng, tập trung dân chủ luôn đi liền với việc tăng cường kỷ cương, kỷ luật nhằm xây dựng tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên tuyệt đối trung thành với Đảng, Tổ quốc và nhân dân, kiên định mục tiêu, lý tưởng cách mạng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, không sợ khó khăn, gian khổ, hy sinh, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.

Tăng cường kỷ cương, kỷ luật cũng nhằm mục đích phòng, chống dân chủ quá trớn, chuyên quyền, độc đoán cá nhân, không tôn trọng tập thể, tự mình quyết định mọi vấn đề mà không đưa ra bàn bạc, thảo luận trước tập thể. Hồ Chí Minh nêu rõ: “Lãnh đạo không tập thể, thì sẽ đi đến cái tệ bao biện, độc đoán, chủ quan. Kết quả là hỏng việc. Phụ trách không do cá nhân, thì sẽ đi đến cái tệ bừa bãi, lộn xộn vô chính phủ. Kết quả cũng là hỏng việc… Vì vậy những người cán bộ phải thực hành cho kỳ đúng cái chế độ tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách”(11).

Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng việc cán bộ, đảng viên, nhất là người lãnh đạo thực hành tự phê bình và phê bình, không chỉ trong sinh hoạt tập trung, mà ngay trong đời thường. Theo Người, cán bộ, đảng viên thực hành nghiêm túc tự phê bình và phê bình giúp cho sức mạnh, uy tín của Đảng ngày càng tăng lên, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ ngày càng cao của sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Tự phê bình và phê bình là “liều thuốc vạn năng”, “vũ khí sắc bén” giúp cho cán bộ, đảng viên nhận ra những ưu điểm, khuyết điểm của bản thân và đề ra những cách thức, biện pháp phát huy ưu điểm, thế mạnh, khắc phục, sửa chữa những khuyết điểm trong công việc, cuộc sống; từ đó, giúp cho bản thân mỗi cán bộ, đảng viên ngày càng hoàn thiện về phẩm chất, nhân cách, đảm đương những công việc mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó.

Thực hiện tự phê bình và phê bình đúng nơi, đúng lúc, đúng người, đúng việc theo quan điểm phê bình việc chứ không phê bình người là thước đo đánh giá về thực hành dân chủ trong Đảng. Người nhắc nhở: “Mỗi đảng viên, mỗi cán bộ cần phải thật thà tự xét và xét đồng chí mình, ai có khuyết điểm nào, thì phải thật thà cố gắng tự sửa chữa và giúp sửa chữa lẫn nhau. Thang thuốc hay nhất là thiết thực phê bình và tự phê bình. Đá đi lâu cũng mòn. Sắt mài lâu cũng sắc. Ta cố gắng sửa chữa thì khuyết điểm ngày càng bớt, ưu điểm ngày càng thêm. Đảng viên và cán bộ ngày càng trở nên người chân chính cách mạng. Đảng ta ngày càng phát triển”(12).

Chủ tịch Hồ Chí Minh đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cán bộ lãnh đạo trong thực hành dân chủ. Người đã chỉ ra: “Gom góp ý kiến và kinh nghiệm trong sự chỉ đạo từng bộ phận đem làm ý kiến chung. Rồi lại đem ý kiến chung đó để thí nghiệm trong các bộ phận. Rồi lại đem kinh nghiệm chung và mới, đúc kết thành chỉ thị mới… Biết làm như vậy, mới thật là biết lãnh đạo”(13).

Hồ Chí Minh cho rằng, người lãnh đạo cần phải biết tập hợp những ý kiến lẻ tẻ, rời rạc của cán bộ, đảng viên, của quần chúng, rồi biết phân tích, tập hợp chúng để hướng dẫn, giải thích, sắp xếp theo một hệ thống xác định. Trên cơ sở đó, tuyên truyền, phổ biến rộng rãi trong cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân thực hiện, có như vậy công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cán bộ lãnh đạo mới có chất lượng, góp phần làm cho quần chúng tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, hăng hái tham gia vào các phong trào thi đua yêu nước, cải tạo xã hội cũ, xây dựng xã hội mới.

Cán bộ lãnh đạo giỏi phải biết đoàn kết, tập hợp mọi ý kiến khác nhau trong tập thể theo một đường hướng chính trị xác định, mặc dù, trong công tác, sinh hoạt mỗi người có những điều, những việc không hài lòng, khi vào sinh hoạt, vào thực hiện nhiệm vụ của cách mạng phải gạt bỏ hiềm khích, bất đồng, quan điểm cá nhân, tất cả vì sự nghiệp cách mạng chung của Đảng.

Cán bộ lãnh đạo, theo Hồ Chí Minh phải biết sắp xếp, bố trí công việc khoa học, hợp lý, thấy cơ quan, đơn vị, địa phương có việc gì cần phải tập trung giải quyết, xử lý trước, tập trung nguồn nhân lực, vật lực làm trước; căn cứ vào đặc điểm, tình hình, yêu cầu, nhiệm vụ công việc để phân công, giao nhiệm vụ đúng người, đúng việc. Khi đã xác định đúng nhiệm vụ, kiên quyết thực hiện, lãnh đạo, chỉ đạo thực hành cho triệt để. Người chỉ rõ: “Bất kỳ địa phương nào, cơ quan nào, thường trong một lúc có nhiều công việc trọng yếu. Trong một thời gian đó, lại có một việc trọng yếu nhất và vài ba nhiệm vụ trọng yếu vừa. Người lãnh đạo trong địa phương, hoặc cơ quan đó phải xét kỹ hoàn cảnh mà sắp đặt công việc cho đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không nên luộm thuộm, không có kế hoạch, gặp việc nào, làm việc ấy, thành thử việc nào cũng là việc chính, lộn xộn, không có ngăn nắp”(14).

Những quan điểm, tư tưởng nêu trên của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự biểu hiện tập trung cao độ của thực hành dân chủ của cán bộ lãnh đạo địa phương, cơ quan. Chính những phương pháp, cách thức tiến hành khoa học, hợp lý được lòng dân mà Hồ Chí Minh đã đoàn kết, tập hợp được đông đảo, rộng rãi các giai cấp, tầng lớp nhân dân vào sự nghiệp đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc; ngay cả những người tài năng, đức độ làm việc ở nước ngoài, trong triều đình phong kiến cũng được Người thuyết phục, tham gia vào bộ máy chính phủ do người đứng đầu.

Cán bộ lãnh đạo ở cơ quan, địa phương phải thường xuyên liên hệ gắn bó với quần chúng, bởi theo Hồ Chí Minh, dân chúng rất khôn khéo, hăng hái và anh hùng, có nhiều sáng kiến, kinh nghiệm hay trong thực hiện những quan điểm, đường lối của Đảng, Chính phủ. Người chỉ rõ: “Dân chúng đồng lòng, việc gì cũng làm được. Dân chúng không ủng hộ, việc gì làm cũng không nên”(15). Cách thức, phương pháp duy nhất để cho dân chúng đồng tình, ủng hộ đó là: “Việc gì cũng hỏi ý kiến dân chúng, cùng dân chúng bàn bạc. Giải thích cho dân chúng hiểu rõ. Được dân chúng đồng tình. Do dân chúng vui lòng ra sức làm”(16).

2.2. Thực hành dân chủ với phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên hiện nay

Trung thành và vận dụng sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn quan tâm, chú trọng thực hành dân chủ và việc phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên ở từng giai đoạn lịch sử, đáp ứng với yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng đặt ra.

Nghị quyết Trung ương 3 khoá VIII (năm 1997) đã chỉ rõ những điểm mạnh của đội ngũ cán bộ: “Được rèn luyện, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng lâu dài, gian khổ; cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp từ Trung ương đến cơ sở… có bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, con đường mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân đã lựa chọn; năng động, sáng tạo thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước”(17).

Nghị quyết Trung ương 7 khoá XII (năm 2018) đánh giá: “Nhiều cán bộ năng động, sáng tạo thích ứng với xu thế hội nhập, có khả năng làm việc trong môi trường quốc tế. Đa số cán bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội các cấp có năng lực, phẩm chất, uy tín”(18).

Đại hội XIII của Đảng (năm 2021) đã đánh giá: “Công tác cán bộ là “then chốt của then chốt, có nhiều đổi mới, đạt được một số kết quả quan trọng… Rà soát, sửa đổi, bổ sung các quy định của Đảng và pháp luật của Nhà nước về tổ chức bộ máy, biên chế”(19).

Đảng đã chủ trương thực hành dân chủ là một cách thức để khuyến khích và bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo. Kết luận số 14 -KL/TW ngày 22-9-2021 của Bộ Chính trị khoá XIII về chủ trương và khuyến khích bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo vì lợi ích chung. Chính phủ đã ra Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung, trong đó nêu: “Khuyến khích, bảo vệ cán bộ có đề xuất mới, sáng tạo được cơ quan sử dụng cán bộ xem xét, quyết định cho thực hiện trong phạm vi thẩm quyền quyết định theo quy định của pháp luật, bảo đảm không trái với quy định của Đảng”(20)

Để phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao, cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu ở một số địa phương đã xây dựng, ban hành nhiều văn bản quy định, hướng dẫn. Cụ thể như: Thành uỷ Thành phố Hồ Chí Minh đã ban hành Quy định 1347-QĐ/TU ngày 01-12-2017 về quy trình giải quyết thông tin phản ánh liên quan các tập thể, cá nhân suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vi phạm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; Quy định 1269-QĐ/TU ngày 26-10-2023 về việc mua tin và xử lý thông tin phục vụ cho công tác phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh…

Ban Thường vụ Thành uỷ Hà Nội đã ban hành Chỉ thị số 24-CT/TU này 7-8-2023 về tăng cường kỷ cương, kỷ luật và trách nhiệm giải quyết công việc trong hệ thống chính trị thành phố Hà Nội; xây dựng khung nhận diện 25 biểu hiện vi phạm kỷ cương, kỷ luật, né tránh, đùn đẩy trách nhiệm của cán bộ thực thi nhiệm vụ; ban hành Kế hoạch số 171 ngày 14-8-2023 để tổ chức thực hiện Chỉ thị số 24-CT/TU. Năm 2023, Ban Thường vụ Thành uỷ thành lập 5 đoàn, tiến hành kiểm tra 10 đơn vị về kiểm tra công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện các nghị quyết của Đảng về công tác cán bộ. Năm 2023 đưa 668 đảng viên không còn đủ tư cách ra khỏi Đảng; xây dựng và triển khai thực hiện hiệu quả 02 phần mềm: Điều hành tác nghiệp quản lý đảng viên và sổ tay điện tử đảng viên(21).

Từ những quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và một số địa phương nêu trên về phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên thể hiện rõ một số nội dung cơ bản: Một là, phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng để thực hiện thắng lợi các nghị quyết của Đảng. Hai là, Đảng, Nhà nước luôn tạo mọi điều kiện, môi trường thuận lợi để cán bộ, đảng viên phát huy tính năng động, sáng tạo của mình trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được giao. Ba là, xây dựng, ban hành cơ chế, chính sách đúng đắn, phù hợp để khuyến khích, bảo vệ tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên. Bốn là, tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên đã phát huy tốt tính năng động, sáng tạo của mình trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phân công, giao nhiệm vụ.

Tuy nhiên, bên cạnh kết quả đạt được việc thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh để phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên còn một số hạn chế: một số cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương quán triệt và thực hiện chưa nghiêm túc quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về công tác cán bộ trong thời kỳ mới; một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên trong đó có cả cấp lãnh đạo, quản lý làm việc cầm chừng sợ trách nhiệm, đùn đẩy, né tránh, thấy đúng không bảo vệ, sai không dám đấu tranh; có lợi cho bản thân thì làm, không có lợi cho bản thân tìm mọi cách né tránh, đẩy sang cho đồng chí, đồng đội. Ở một số cơ quan, đơn vị, địa phương, vẫn còn cán bộ, đảng viên là lãnh đạo chủ chốt có biểu hiện chuyên quyền, độc đoán, lợi ích nhóm, cục bộ, địa phương, không tôn trọng lắng nghe ý kiến của cấp dưới; tự quyết định những công việc, nhiệm vụ của cơ quan, đơn vị mà không cần sự bàn bạc, thảo luận, góp ý của tập thể; vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, không phát huy trí tuệ, đặc biệt tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên, nhất là trong thực hiện chương trình, dự án về đấu thầu, sắp xếp, bổ nhiệm cán bộ, công chức.

Đảng ta đánh giá: “nhiều cán bộ, trong đó có cả cán bộ cấp cao thiếu tính chuyên nghiệp, làm việc không đúng chuyên môn, sở trường; trình độ ngoại ngữ, kỹ năng giao tiếp và khả năng làm việc trong môi trường quốc tế còn nhiều hạn chế. Không ít cán bộ trẻ thiếu bản lĩnh, ngại rèn luyện”(22).

Nguyên nhân của hạn chế, khuyết điểm trên là do: (1) Công tác giáo dục chính trị, tư tưởng của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương chưa được coi trọng đúng mức. (2) Việc cụ thể hoá, thể chế hoá quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về cán bộ còn chậm, chưa linh hoạt, sáng tạo. (3) Vai trò, trách nhiệm của cơ quan tham mưu, đề xuất trong đánh giá, sử dụng cán bộ có thời điểm chưa chính xác. (4) Ý thức, động cơ, trách nhiệm của một bộ phận cán bộ, đảng viên trong tự bồi dưỡng, rèn luyện về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực làm việc chưa được đề cao.

Đảng ta đã chỉ rõ: “Cán bộ là nhân tố quyết định sự thành bại của cách mạng; công tác cán bộ là “then chốt” của công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là công việc hệ trọng của Đảng, phải được tiến hành thường xuyên, thận trọng, khoa học, chặt chẽ và hiệu quả. Đầu tư xây dựng đội ngũ cán bộ là đầu tư cho phát triển lâu dài, bền vững”(23).

Một trong những yêu cầu, nhiệm vụ quan trọng được Tổng Bí thư Tô Lâm đề cập, trao đổi trong buổi nói chuyện Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc là: “Xây dựng đội ngũ cán bộ đủ năng lực… có bản lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới sáng tạo, dám đột phá vì lợi ích chung”(24)

2.3. Một số giải pháp thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên

Với tinh thần đó, để thực hành dân chủ theo tư tưởng Hồ Chí Minh nhằm phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên hiện nay cần thực hiện một số giải pháp cơ bản sau đây:

Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương về tầm quan trọng thực hành dân chủ trong Đảng để phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên.

Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương quán triệt và nhận thức sâu sắc, tầm quan trọng của việc thực hành dân chủ trong Đảng theo tư tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hành dân chủ trong Đảng để phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên; thực hành dân chủ trong Đảng nhằm xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Mỗi cán bộ, đảng viên đều có trách nhiệm, nghĩa vụ bày tỏ quan điểm, thái độ của mình về những vấn đề, nội dung mà bản thân còn băn khoăn, lo lắng, hiểu chưa rõ trên tinh thần xây dựng, từng bước hoàn thiện về phẩm chất, năng lực, tuyệt nhiên không lợi dụng sinh hoạt dân chủ để đả kích, bài xích, phê phán đồng chí, đồng đội. Cán bộ chủ trì sinh hoạt thật sự tôn trọng, lắng nghe ý kiến của cấp dưới, định hướng những vấn đề trọng tâm, trọng điểm để cán bộ, đảng viên thảo luận, góp ý với đích hướng đến hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao. Xây dựng bầu không khí dân chủ, cởi mở, tích cực, chủ động trong mọi cán bộ, đảng viên, không tạo áp lực, đưa ra những nội dung, vấn đề để cán bộ, đảng viên bất an, hoang mang, dao động.

Đẩy mạnh giáo dục chính trị, tư tưởng để cán bộ, đảng viên yên tâm công tác, phấn khởi, tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, toàn tâm, toàn ý cho nhiệm vụ chung của tập thể, của cơ quan, đơn vị, địa phương. Duy trì thường xuyên việc học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán bộ, đảng viên; thực hiện nghiêm những chế độ, chính sách của Đảng, Nhà nước có liên quan đến cán bộ, đảng viên, nhất là chế độ nhà ở, khen thưởng, sắp xếp, bổ nhiệm…

Đảng ta đã chỉ rõ: “Tăng cường giáo dục chính trị, tư tưởng, nâng cao đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và thế hệ trẻ, trong đó chú trọng nội dung xây dựng Đảng về đạo đức, truyền thống lịch sử, văn hoá của dân tộc; kết hợp chặt chẽ, hiệu quả giữa đào tạo với rèn luyện trong thực tiễn và đẩy mạnh học tập, làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; thực hiện nghiêm túc chế độ học tập, bồi dưỡng lý luận chính trị và cập nhật kiến thức mới cho cán bộ, nhất là cán bộ trẻ được đào tạo ở nước ngoài”(25).

Hai là, vận dụng linh hoạt, sáng tạo nội dung, hình thức, biện pháp thực hành dân chủ để phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên.

Trên cơ sở những quan điểm, đường lối của Đảng, chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thực hành dân dân chủ, cấp uỷ, tổ chức đảng, nhất là người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương cần cụ thể hoá, thể chế hoá vào từng lĩnh vực, hoạt động tương ứng với từng vị trí công việc của cán bộ, đảng viên. Phân công, giao nhiệm vụ trong thực hiện nhiệm vụ đúng người, đúng việc, đúng năng lực, sở trường, thế mạnh của mỗi cán bộ, đảng viên; xác định rõ những khâu yếu, mặt yếu của từng cán bộ, đảng viên tập trung giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện. Kết hợp chặt chẽ giữa giáo dục, bồi dưỡng theo những quy định của Đảng và theo quy định của cơ quan, đơn vị, địa phương nơi công tác.

Chú trọng phát huy vai trò, trách nhiệm nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ quan, đơn vị, địa phương trong nói và làm; gương mẫu về phẩm chất đạo đức, lối sống, năng lực, phương pháp, tác phong làm việc; thật sự là hạt nhân, trung tâm đoàn kết, quy tụ sức mạnh của trí tuệ tập thể. Biết động viên, khích lệ, kịp thời cán bộ, đảng viên có nhiều nỗ lực, cố gắng trong công tác; biết huy động các nguồn lực bên trong và bên ngoài để nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ, đảng viên thuộc quyền quản lý. Đặc biệt, chú trọng vai trò của cấp uỷ, tổ chức đảng các cấp trong lãnh đạo công tác quản lý, giáo dục, bồi dưỡng, cũng như trong đánh giá, xếp loại cán bộ, đảng viên hàng năm.

Tổng Bí thư Tô Lâm đã chỉ rõ: “gắn tinh gọn bộ máy với cơ cấu lại đội ngũ cán bộ đủ phẩm chất, năng lực ngang tầm nhiệm vụ, biên chế hợp lý, chuẩn hoá chức danh. Ban hành quy định về khung tiêu chuẩn, tiêu chí cán bộ ở từng cấp, từ Trung ương tới cơ sở, từng loại hình để chủ động rà soát, xác định có thể bố trí ngay”(26). Những cán bộ, đảng viên làm việc với tinh thần, trách nhiệm cao, có những sáng kiến, mô hình hay trong xây dựng cơ quan, đơn vị, địa phương cần phải được nhìn nhận, đánh giá và có hình thức khen thưởng xứng đáng, tạo động lực, niềm tin, khí thế cho công việc, cuộc sống. Những cán bộ, đảng viên làm việc chưa hết mình, được chăng hay chớ, bình quân chủ nghĩa có hình thức, biện pháp chấn chỉnh, nhắc nhở, uốn nắn kịp thời.

Ba là, phát huy vai trò, trách nhiệm cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương khuyến khích, bảo vệ cán bộ, đảng viên năng động, sáng tạo trong thực thi công vụ.

Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu cơ quan, đơn vị, địa phương có vai trò rất quan trọng trong lãnh đạo thực hành dân chủ để phát huy tính năng động, sáng tạo của cán bộ, đảng viên trong thực thi công vụ. Cấp uỷ, tổ chức đảng, người đứng đầu là người thay mặt Đảng duy trì, tổ chức các hoạt động, bảo đảm cho mọi nhiệm vụ của Đảng, Nhà nước được thực hiện một cách tốt nhất. Do đó, thực hành dân chủ trong cấp uỷ, tổ chức đảng tạo điều kiện, tiền đề quan trọng để mỗi cán bộ, đảng viên được bày tỏ những tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của mình, đưa ra chứng kiến bản thân vào thực hiện nhiệm vụ được giao.

Cấp ủy, tổ chức đảng, người đứng đầu các cấp phải thật sự đoàn kết, thống nhất về nhận thức, hành động; mỗi chủ trương, biện pháp trước khi đưa ra cần được tập thể thảo luận tập trung dân chủ, thống nhất rồi mới phổ biến đến toàn thể cán bộ, đảng viên; theo dõi, nắm bắt việc thực hiện nhiệm vụ để đánh giá một cách chính xác, toàn diện, khách quan chất lượng công việc từng cán bộ, đảng viên. Qua đó, xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời đối với những cán bộ, đảng viên tâm huyết, dám đổi mới sáng tạo trong công việc. Đồng thời, quan tâm chăm lo xây dựng cấp uỷ, tổ chức đảng trong sạch, vững mạnh đủ năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao, là “bộ tổng tham mưu” của Đảng ở các cơ quan, đơn vị, địa phương.

Bốn là, mỗi cán bộ, đảng viên tự giác tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, năng lực để phát huy tính năng động, sáng tạo trong thực hiện nhiệm vụ.

Mỗi cán bộ, đảng viên cần tự giác tu dưỡng, rèn luyện về phẩm chất, năng lực, phương pháp, tác phong công tác, tránh xa cám dỗ vật chất. Tự giác chấp hành nghiêm quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước, hết lòng, hết sức làm việc với tâm trong sáng, vô tư, không đặt lợi ích cá nhân lên trên lợi ích của tập thể; luôn nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng trong mọi tình huống, mọi không gian, thời gian.

Khi cán bộ, đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, có phẩm chất, đạo đức, lối sống trong sạch, lành mạnh, giản dị, được đồng chí, đồng đội tin tưởng, quý mến, kính trọng, tính năng động, sáng tạo trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ được phát huy cao độ. Vì vậy, mỗi cán bộ, đảng viên thường xuyên rèn luyện về mọi mặt, ở mọi lúc, mọi nơi, rèn luyện đạo đức cách mạng; giữ vững bản chất cách mạng của Đảng; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh.

3. Kết luận

Tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ vẫn tiếp tục soi sáng, chỉ dẫn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Đó là hệ thống những quan điểm, tư tưởng có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, đặt cơ sở nền móng vững chắc để Đảng ta kế thừa, bổ sung và phát triển trong điều kiện lịch sử mới, phù hợp với đặc điểm tình hình ở mỗi giai đoạn và xu thế vận động, phát triển của thế giới. Trong quá trình hiện thực hoá quan điểm, tư tưởng Hồ Chí Minh về thực hành dân chủ, mỗi cán bộ, đảng viên cần phát huy cao độ, mạnh mẽ tính năng động, sáng tạo của mình trên cơ sở thấm nhuần quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước để xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên tiên tiến, văn minh, hiện đại, Nhân dân sung sướng, hạnh phúc, dân tộc sánh vai cường quốc, năm châu thế giới.

_________________

Ngày nhận bài: 28-11-2024; Ngày bình duyệt: 20-5-2025; Ngày duyệt đăng: 30-6-2025

Email tác giả: laivannam@ufm.edu.vn

(1), (9), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr. 325, 617, 620.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđd, tr. 382.

(3) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Tiến Bộ, Mátxcơva, 1978, tr.107 - 108.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr. 232.

(5), (6), (7), (11), (12), (13), (14), (15), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr. 289, 283, 284, 620-621, 302, 331, 332, 333, 334.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Sđd, tr.64-65.

(17) Nghị quyết số 03-NQ/TW ngày 18-6-1997 Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII về chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tiếp tục xây dựng nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong sạch, vững mạnh.

(18), (22), (23), (25) Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 19-5-2018 Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XII về tập trung xây dựng đội ngũ cán bộ các cấp, nhất là cấp chiến lược, đủ phẩm chất, năng lực và uy tín, ngang tầm nhiệm vụ.

(19) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.75.

(20) Nghị định số 73/2023/NĐ-CP ngày 29-9-2023 của Chính phủ quy định về khuyến khích, bảo vệ cán bộ năng động, sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm vì lợi ích chung.

(21) https://hanoimoi.vn, “Đề cao kỷ cương, kỷ luật, tính chủ động, sáng tạo của cán bộ, công chức”, ngày 28-12-2023.

(24) Tô Lâm: “Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 1-11-2024.

(26) Tô Lâm: “Tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu quả - hiệu lực”, Tạp chí Cộng sản điện tử, ngày 5-11-2024.