Thực tiễn

Tăng cường công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở vùng Đông Nam Bộ hiện nay

02/07/2025 21:16

(LLCT) - Xây dựng tổ chức đảng là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của Đảng. Với phương châm ở đâu có đảng viên, ở đó có tổ chức Đảng, các tỉnh, thành ủy vùng Đông Nam Bộ luôn coi trọng công tác phát triển tổ chức đảng, phát triển đảng viên, trong đó có việc xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước. Bài viết phân tích vấn đề đặt ra trong công tác xây dựng tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở vùng Đông Nam Bộ, từ đó đề xuất giải pháp thực hiện công tác này trong thời gian tới.

NCS VÕ CHÂU THẢO
Học viện Cán bộ Thành phố Hồ Chí Minh

Hội nghị tổng kết công tác xây dựng, phát triển tổ chức đảng, các tổ chức chính trị xã hội trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước năm 2024, tỉnh Đồng Nai_Ảnh: Đồng Nai Online

1. Mở đầu

Đông Nam Bộ là vùng kinh tế động lực quan trọng của cả nước; là khu vực phát triển kinh tế năng động, trình độ phát triển cao, nơi tập trung nhiều trung tâm kinh tế, công nghiệp, thương mại, dịch vụ, khoa học kỹ thuật, đầu mối giao thông và giao lưu quốc tế, có lực lượng lao động dồi dào,… là đầu mối giao lưu của các tỉnh phía Nam với cả nước và quốc tế. Đây là một trong những vùng có số lượng doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước (DNNKVNN) thuộc nhóm cao cả nước. Đại hội V của Đảng khẳng định: “Tổ chức là một khâu quyết định đối với việc thực hiện thắng lợi đường lối, chính sách của Đảng”(1). Do đó, việc chú trọng công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong các DNNKVNN vừa góp phần nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, vừa thúc đẩy kinh tế phát triển, bảo đảm cho các doanh nghiệp hoạt động theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước.

2. Nội dung

2.1. Sự cần thiết xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước giai đoạn hiện nay

DNNKVNN là doanh nghiệp vốn trong nước, mà nguồn vốn thuộc sở hữu tư nhân một người hoặc nhóm người hoặc có sở hữu nhà nước nhưng chiếm từ 50% vốn điều lệ trở xuống; thuộc khu vực kinh tế tư nhân, dựa trên chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất, hoạt động dưới các loại hình công ty trách nhiệm hữu hạn tư nhân, công ty cổ phần không có vốn nhà nước, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân và các công ty cổ phần có tỷ lệ vốn nhà nước từ 50% vốn điều lệ trở xuống, tổng số cổ phần có quyền biểu quyết được thành lập theo quy định pháp luật nhằm mục đích kinh doanh.

Tổ chức đảng trong các doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, đặc biệt là đối với DNNKVNN. Tổ chức đảng trong các DNNKVNN là cầu nối giữa Đảng với chủ doanh nghiệp và cán bộ, công nhân viên trong các doanh nghiệp, có vị trí quan trọng trong hệ thống tổ chức của Đảng. Đại hội XIII của Đảng khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện thể chế về sở hữu, phát triển các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp... Tiếp tục phát triển mạnh thị trường dịch vụ pháp lý, tạo điều kiện thuận lợi để người dân, doanh nghiệp tăng cường quản trị rủi ro trong hoạt động đầu tư, kinh doanh và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp”(2). Vai trò đó thể hiện: (1) Bảo đảm vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo đảng viên của Đảng, lãnh đạo các tổ chức đoàn thể trong doanh nghiệp. (2) Thúc đẩy việc xây dựng giai cấp công nhân không ngừng lớn mạnh cả về số lượng và chất lượng. (3) Tuyên truyền người chủ doanh nghiệp và người lao động chấp hành tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, thực hiện tốt nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh phát triển doanh nghiệp. (4) Tham gia xây dựng và thực hiện hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, các quy định, quy chế, nội quy lao động trong doanh nghiệp. (5) Vận động công nhân lao động tham gia tích cực các hoạt động nhân đạo, từ thiện, xóa đói, giảm nghèo, xây dựng nông thôn mới... góp phần phát triển kinh tế - xã hội và ổn định chính trị tại các địa phương, đơn vị.

2.2. Thực tiễn việc xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở vùng Đông Nam Bộ

Những kết quả đạt được

Thứ nhất, quán triệt Chỉ thị số 07-CT/TW ngày 23-11-1996 của Bộ Chính trị (khóa VIII) về tăng cường công tác xây dựng Đảng các đoàn thể nhân dân trong các doanh nghiệp tư nhân, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần tư nhân (gọi tắt là doanh nghiệp tư nhân) và doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài; Kết luận số 80-KL/TW ngày 29-7-2010 của Ban Bí thư về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chỉ thị số 07-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) trong tình hình mới; Chỉ thị số 33-CT/TW ngày 18-3-2019 của Ban Bí thư về tăng cường xây dựng tổ chức đảng trong các đơn vị kinh tế tư nhân; Nghị định số 98/2014/NĐ-CP ngày 24-10-2014 của Chính phủ về Quy định việc thành lập tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội tại doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, Ban Thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy vùng Đông Nam Bộ đã xây dựng kế hoạch triển khai, thực hiện đồng bộ trong toàn hệ thống chính trị và thống nhất chỉ đạo “ở đâu có công nhân, ở đó có tổ chức Đảng”.

Thứ hai, các cấp ủy đã quán triệt rõ, xây dựng tổ chức đảng trong các DNNKVNN nhằm tăng cường sự lãnh đạo của Đảng trong các doanh nghiệp, đáp ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Đồng thời nhận thức rõ, đây là công việc còn nhiều khó khăn, nhưng với quyết tâm cao, khó mấy cũng làm được. Tính đến tháng 12-2023, các đảng bộ tỉnh, thành phố ở vùng Đông Nam Bộ thành lập được 3.418 tổ chức đảng, với 38.161 đảng viên trong DNNKVNN, chiếm 6,90% trên tổng số đảng viên của toàn đảng bộ trong vùng(3).

Các cấp ủy đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị tại khu vực Đông Nam Bộ đã sử dụng, phát huy hiệu quả đội ngũ cán bộ theo đề án hỗ trợ nguồn lực trong công tác tiếp cận, tuyên truyền vận động công nhân lao động, chủ doanh nghiệp; không ngừng đổi mới phương pháp và cách thức tiếp cận, phát huy thế mạnh hiện có của công nghệ, thực hiện đa dạng hóa trên các kênh tuyên truyền, như: các cổng thông tin điện tử của tổ chức đảng, chính quyền, công đoàn, đoàn thanh niên; các mạng xã hội kết nối với người lao động; hệ thống truyền thanh cơ sở...

Thứ ba, các tổ chức đảng quan tâm đến công tác củng cố, nâng cao chất lượng hoạt động, năng lực lãnh đạo của các cấp ủy trong các DNNKVNN. Ban tổ chức các cấp ủy đảng đã hướng dẫn sinh hoạt chi bộ DNNKVNN dưới hình thức trực tiếp kết hợp trực tuyến, phù hợp với đặc điểm tình hình, nhằm tháo gỡ khó khăn trong sinh hoạt, đồng thời giữ vững những vấn đề, nội dung cơ bản theo quy định, hướng dẫn của Trung ương. Song song đó là triển khai thực hiện có hiệu quả ứng dụng “Sổ tay đảng viên điện tử”.

Thứ tư, đội ngũ đảng viên luôn quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo, đề cao tính nguyên tắc theo quy định của Điều lệ Đảng, thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh tự phê bình và phê bình như “rửa mặt hằng ngày”. Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật tại các tổ chức đảng trong DNNKVNN đã được tiến hành thường xuyên và có trọng tâm, trọng điểm. Việc thi hành kỷ luật đối với những cán bộ, đảng viên vi phạm được tiến hành chặt chẽ, thận trọng, đúng nguyên tắc, quy trình, thể hiện rõ tính chiến đấu, giáo dục, răn đe.

Những khó khăn, hạn chế

Thứ nhất, công tác tuyên truyền, vận động của tổ chức đảng trong DNNKVNN chưa đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương pháp, chủ yếu là hình thức thông báo, phổ biến; nhiều đồng chí bí thư, phó bí thư cấp ủy cơ sở khả năng truyền đạt còn chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới. Một số tổ chức đảng chưa nắm chắc diễn biến tư tưởng của đội ngũ, đảng viên, công nhân viên và người lao động để có biện pháp kịp thời giải quyết những vấn đề bức xúc ở doanh nghiệp.

Thứ hai, một số cấp ủy đảng chưa quan tâm đúng mức công tác xây dựng tổ chức đảng, đoàn thể chính trị - xã hội trong các doanh nghiệp tư nhân, còn giao khoán cho ban chỉ đạo và tổ chuyên trách, tổ công tác. Bên cạnh đó, sinh hoạt đảng ở nhiều nơi còn hình thức, hiệu quả thấp. Một số cấp ủy cơ sở đảng chưa xác định công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp tư nhân là nhiệm vụ thường xuyên. Chủ doanh nghiệp chưa nhận thức đầy đủ và ý nghĩa việc thành lập tổ chức đảng trong doanh nghiệp và ngại có ảnh hưởng đến năng suất làm việc của doanh nghiệp.

Thứ ba, công tác quy hoạch đội ngũ cấp ủy một số nơi, đôi lúc chưa thực hiện tốt nên thực tế đội ngũ cấp ủy mới bổ sung còn thiếu sự đào tạo, bồi dưỡng, chất lượng chưa đáp ứng ngay được yêu cầu nhiệm vụ. Do đó, vẫn còn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

Thứ tư, công tác kiểm tra, giám sát ở nhiều tổ chức đảng chưa thực hiện tốt. Nhiều chi bộ cơ sở DNNKVNN chưa thực hiện tốt công tác quản lý đảng viên, việc phối hợp với cấp ủy cơ sở nơi đảng viên cư trú để quản lý đảng viên còn hạn chế, bất cập, sinh hoạt đảng còn hình thức, thiếu tính chiến đấu. Công tác tổ chức, cán bộ còn nhiều bất cập, nhiều cán bộ, đảng viên chưa thể hiện tính tiên phong, gương mẫu, còn quan liêu, xa rời thực tiễn. Công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật đảng chưa đủ sức răn đe, phòng ngừa. Vai trò, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của một số tổ chức đảng còn hạn chế. Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa gương mẫu, chưa nhận thức đầy đủ vai trò, trách nhiệm của người đảng viên nên không muốn công khai, không chuyển sinh hoạt về doanh nghiệp vì ngại chủ doanh nghiệp phân biệt đối xử, mất việc làm. Việc đánh giá, xếp loại tổ chức đảng và đảng viên chưa thực chất, một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng, suy giảm về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống.

2.3. Giải pháp tăng cường công tác xây dựng tổ chức đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước ở vùng Đông Nam Bộ đến năm 2030

Một là, tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức, ý thức trách nhiệm của các tổ chức đảng, đảng viên, chủ doanh nghiệp và người lao động về vai trò của tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước

Xây dựng, thực hiện chương trình, kế hoạch, đề án thành lập, củng cố các tổ chức đảng trong DNNKVNN. Các cấp ủy đảng tiếp tục quan tâm chỉ đạo, phân công đảng viên có uy tín, kinh nghiệm phối hợp với lãnh đạo các đoàn thể để theo dõi, giáo dục, giúp đỡ quần chúng ưu tú, giới thiệu kết nạp vào Đảng; đặc biệt, khi chủ các doanh nghiệp đủ tiêu chuẩn thì quan tâm cơ cấu tham gia cấp ủy hoặc giữ chức danh bí thư chi bộ hoặc đảng bộ cơ sở. Đổi mới nội dung, chương trình bồi dưỡng đối tượng kết nạp đảng và đảng viên mới bảo đảm thiết thực, chất lượng, hiệu quả theo hướng tập trung vào những vấn đề cơ bản về Đảng, tiêu chuẩn, điều kiện, nhiệm vụ, quyền của đảng viên, tính tiên phong, gương mẫu, nhất là xác định đúng đắn động cơ vào Đảng.

Hai là, lãnh đạo, phối hợp các lực lượng trong xây dựng các tổ chức đảng trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước

Liên đoàn Lao động tỉnh cần tăng cường đẩy mạnh hoạt động tổ chức công đoàn trong các doanh nghiệp, chú trọng thành lập mới tổ chức công đoàn tại các doanh nghiệp có đủ điều kiện theo quy định tại Luật Công đoàn, Luật Lao động. Các tổ chức Đoàn Thanh niên, Hội Liên hiệp phụ nữ phát hiện, lựa chọn, bồi dưỡng, giáo dục quần chúng ưu tú, làm tốt hơn nữa vai trò tạo nguồn phát triển đảng, bằng các phong trào thi đua lao động, sản xuất. Cấp ủy đảng và các tổ chức chính trị - xã hội trong doanh nghiệp với ban giám đốc, hội đồng quản trị, phối hợp thường xuyên để giải quyết mối quan hệ lợi ích giữa công nhân, người lao động với chủ doanh nghiệp với cơ chế phối hợp cụ thể, khả thi.

Ba là, nâng cao chất lượng hoạt động của tổ chức đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước

Triển khai thực hiện hiệu quả mô hình “chi bộ bốn tốt”, “đảng bộ cơ sở bốn tốt”. Tăng cường sinh hoạt chuyên đề, chú trọng những vấn đề mới, cần quan tâm. Có giải pháp sinh hoạt đảng phù hợp đối với tổ chức đảng ở địa bàn có nhiều đảng viên từ nơi khác đến tạm trú, có nhiều khu công nghiệp, đơn vị sự nghiệp, doanh nghiệp tư nhân…; thí điểm sinh hoạt đảng trực tuyến ở một số đảng bộ cơ sở, chi bộ có tính chất đặc thù hoặc trong hoàn cảnh đặc biệt; tổ chức sinh hoạt đảng theo tổ đảng đối với một số nội dung phù hợp ở chi bộ có đông đảng viên.

Bốn là, tăng cường bồi dưỡng, nâng cao chất lượng của cấp ủy đảng trong các doanh nghiệp ngoài khu vực nhà nước

Thường xuyên bồi dưỡng cho đội ngũ bí thư, cấp ủy viên cơ sở, nhất là cấp ủy viên, bí thư cấp ủy cơ sở, bí thư, phó bí thư chi bộ về kỹ năng, nghiệp vụ công tác đảng, công tác quần chúng,... đáp ứng yêu cầu thực tiễn của doanh nghiệp. Tổ chức lớp bồi dưỡng nhận thức về Đảng ngoài giờ hành chính để không ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh đó, cần có văn bản hướng dẫn cụ thể về nội dung, phương pháp sinh hoạt chi bộ và hoạt động của các tổ chức cơ sở đảng phù hợp với đặc điểm, điều kiện của từng doanh nghiệp.

Phát huy vai trò các ban chỉ đạo, bố trí cán bộ có năng lực và các nguồn lực tài chính để phát triển, củng cố các tổ chức đảng trong DNNKVNN. Tiến hành khảo sát, hướng dẫn thành lập các tổ chức đảng; đánh giá hoạt động các tổ chức đảng, đoàn thể trong các DNNKVNN, tổ chức tập huấn cán bộ, tuyên truyền vận động chủ doanh nghiệp phối hợp thực hiện.

Năm là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng, định kỳ sơ kết, tổng kết, kiến nghị cấp trên có thẩm quyền giải quyết những vướng mắc phát sinh

Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát để kịp thời nắm bắt những khó khăn, vướng mắc, giúp cho việc tổ chức thực hiện các chủ trương của Đảng về phát triển tổ chức đảng, đảng viên trong các DNNKVNN đạt kết quả cao hơn.

Cấp ủy, chính quyền các cấp tăng cường đối thoại với doanh nghiệp, tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện thuận lợi để các doanh nghiệp mở rộng sản xuất kinh doanh, giải quyết nhiều việc làm cho lao động. Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả thì chủ doanh nghiệp càng có điều kiện quan tâm đến việc thành lập, tạo điều kiện cho tổ chức đảng hoạt động.

3. Kết luận

Tổ chức đảng trong các DNNKVNN có vai trò rất quan trọng, góp phần xây dựng Đảng vững mạnh và tạo động lực phát triển kinh tế, ổn định xã hội. Tuy vậy, trong quá trình hoạt động, một số tổ chức đảng chưa thực sự phát huy được vai trò, còn bộc lộ những khuyết điểm, hạn chế, khó khăn. Do đó, việc xây dựng tổ chức đảng là yêu cầu tất yếu, khách quan trong công tác xây dựng Đảng và hệ thống chính trị vững mạnh.

Ngày nhận bài: 19-2-2025; Ngày bình duyệt: 25-2-2025; Ngày đăng: 3-7-2025.

Email tác giả: xddbd14@gmail.com

(1) Báo cáo chính trị tại Đại hội lần thứ V của Đảng, Nxb Sự thật, 1982, tr.143

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.98.

(3) Theo báo cáo và tổng hợp số tổ chức đảng các tỉnh, thành vùng Đông Nam Bộ tính đến cuối tháng 12-2023: Bà Rịa- Vũng Tàu có 182 với 2.130 đảng viên; Bình Dương có 244 với 3.015 đảng viên; Bình phước có 80 với 400 đảng viên; Đồng Nai có 439 với 4.085 đảng viên; Tây Ninh có 53 với 707 đảng viên; Thành phố Hồ Chí Minh có 2.420 với 27.824 đảng viên.