Diễn đàn

Truyền thông phát triển “kinh tế bạc” ở Việt Nam hiện nay

07/08/2025 11:29

(LLCT) - Việt Nam đang trong quá trình già hóa dân số nhanh chóng. Truyền thông Việt Nam nhìn chung chưa đi sâu xây dựng hình ảnh tích cực về người cao tuổi và nhu cầu của họ, chưa quan tâm đúng mức vấn đề “kinh tế bạc”. Nhiều chính sách hiện hành tập trung chăm sóc y tế, an sinh, nhưng thiếu quy định về truyền thông số hóa, giáo dục công nghệ cho người cao tuổi,...Bài viết chỉ ra khoảng trống chính sách liên quan đến đào tạo kiến thức số, bảo vệ người cao tuổi trên môi trường mạng và đề xuất hệ sinh thái truyền thông toàn diện nâng cao nhận thức cộng đồng về giá trị người già, thúc đẩy nội dung truyền thông dành cho nhóm tuổi này, bảo đảm quyền truy cập thông tin và an toàn mạng cho họ, kết nối với chiến lược phát triển “kinh tế bạc” phù hợp.

ThS LÊ TƯỜNG VÂN
Học viện Ngoại giao Việt Nam

Người cao tuổi sinh hoạt tại một viện dưỡng lão_ Ảnh: IT

1. Mở đầu

Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển đổi nhanh từ xã hội “dân số vàng” sang “già hóa” với tốc độ cao khi dân số từ 60 tuổi trở lên đã đạt 12,8% (năm 2021) và được dự báo sẽ chiếm >25% tổng dân số vào năm 2050(1). Quá trình già hóa đặt ra nhiều thách thức về an sinh xã hội, chăm sóc sức khỏe và hạ tầng kinh tế, đồng thời mở ra cơ hội phát triển “kinh tế bạc” - lấy người cao tuổi làm trung tâm, cung cấp hàng hóa, dịch vụ và việc làm phù hợp. Trong đó, truyền thông đại chúng là công cụ quan trọng định hình nhận thức xã hội về vai trò và giá trị của người cao tuổi, cũng như tạo động lực cho các chính sách và thị trường liên quan.

2. Nội dung

2.1. Bối cảnh về phát triển “kinh tế bạc” và cơ sở lý thuyết truyền thông

Trên phạm vi toàn cầu, sự già hóa dân số diễn ra nhanh chóng: WHO ghi nhận tỷ lệ người 65+ toàn cầu ước đạt 9,1% (2024) và dự kiến lên 20% vào 2050. Ở châu Á - Thái Bình Dương, tốc độ này đặc biệt nhanh (Ví dụ: Trung Quốc, Nhật Bản). Nền kinh tế bạc toàn cầu ước đạt khoảng 15 nghìn tỷ USD năm 2020, chiếm khoảng 25% GDP châu Âu và hứa hẹn tăng trưởng mạnh ở các quốc gia già hóa nhanh(2).

Ở Việt Nam, nghiên cứu gần đây của Liên đoàn Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI)- Quỹ Dân số Liên hợp quốc (UNFPA) năm 2021, chỉ ra thị trường hàng hóa, dịch vụ người cao tuổi còn rất sơ khai, bất cập về cung - cầu và khả năng chi trả[i]. Điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam (VNAS 2021) cho thấy chỉ 52,4% người cao tuổi có thu nhập đủ chi tiêu hàng ngày (cao hơn ở thành thị 65,3%, thấp hơn nông thôn 46,5%); phần lớn không tích lũy tiết kiệm dài hạn(3). Những số liệu này cho thấy dân số già tăng lên nhưng thu nhập cá nhân của người cao tuổi lại thấp, dễ dẫn tới nghèo hóa nếu không có chính sách thích hợp.

“Kinh tế bạc” là thuật ngữ ra đời vào những năm 1970 tại Nhật Bản trong bối cảnh ngày càng nhiều các dịch vụ và tiện ích dành cho người lớn tuổi xuất hiện. Khái niệm nền “kinh tế bạc” theo Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) là “một môi trường mà những người trên 60 tuổi tương tác và phát triển tại nơi làm việc, tham gia vào hoạt động sáng tạo, thúc đẩy thị trường với tư cách là người tiêu dùng và có cuộc sống lành mạnh, năng động, hiệu quả”.

Liên minh châu Âu định nghĩa nền “kinh tế bạc” là tổng thể của tất cả các hoạt động kinh tế phục vụ nhu cầu của những người từ 50 tuổi trở lên, bao gồm các sản phẩm và dịch vụ họ mua trực tiếp và hoạt động kinh tế tiếp theo mà khoản chi tiêu này tạo ra.

Trung Quốc lại có cách tiếp cận rộng hơn về “nền kinh tế bạc” với việc nhấn mạnh đây là nền kinh tế tích hợp tất cả các hoạt động phục vụ người cao tuổi hoặc chuẩn bị cho nhóm cư dân bước vào độ tuổi này(4). “Nền kinh tế bạc” tập trung vào hai lĩnh vực: một là những người cao tuổi hiện tại và hai là những người trong độ tuổi lao động chuẩn bị bước vào độ tuổi này, kết hợp những sản phẩm và dịch vụ quan trọng phục vụ hai nhóm dân số trên. Ngoài ra, trọng tâm của “kinh tế bạc” còn là chủ động tạo dựng nền tảng chuẩn bị cho giai đoạn tiếp theo của nhóm dân cư trẻ và trung niên sắp bước vào nhóm dân cư cao tuổi.

Truyền thông đại chúng giữ vai trò định hình nhận thức xã hội. Theo lý thuyết đóng khung (framing theory), phương tiện truyền thông chọn lọc khía cạnh nào của hiện thực để làm nổi bật, từ đó tác động đến nhận thức và thái độ của công chúng. Ví dụ, nếu báo chí thường đóng khung người già là gánh nặng xã hội thì cộng đồng sẽ dễ đẩy họ ra xa. Lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự (agenda-setting) chỉ ra rằng giới báo chí quyết định vấn đề nào được công chúng chú ý.

Ở Việt Nam, ít có nghiên cứu định lượng về mức độ người cao tuổi được đề cập trong truyền thông. Tuy nhiên, có thể thấy nội dung liên quan đến người cao tuổi thường nằm trong các chuyên mục chăm sóc sức khỏe, đời sống cộng đồng, hiếm khi có tác phẩm nhấn mạnh vai trò kinh tế hoặc công nghệ số của họ.

Lý thuyết phân tầng tuổi tác (age stratification theory) chỉ ra rằng, các nhóm tuổi khác nhau được đối xử không đồng đều về nguồn lực xã hội (giáo dục, việc làm, công nghệ).

Người cao tuổi tại Việt Nam nhìn chung có ít cơ hội tiếp cận công nghệ hiện đại so với thanh niên, dẫn đến khoảng cách số (digital divide) rất lớn. Điều này được minh chứng trong nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (ESCAP) năm 2023: chỉ khoảng 12,7% người trên 60 tuổi có thể truy cập Internet, trong khi tỷ lệ chung dân số là 79%(5). Khoảng cách này khiến họ khó tiếp cận thông tin, dễ bị cô lập trong xã hội số.

Cuối cùng, lý thuyết truyền thông sức khỏe (health communication theory) nhấn mạnh hiệu quả của các chiến dịch truyền thông về y tế trong việc thay đổi hành vi sức khỏe. Ở Việt Nam, đã có nhiều chương trình truyền thông giáo dục sức khỏe cho người cao tuổi (khám bệnh định kỳ, phòng tránh bệnh mãn tính), song phần lớn là các chiến dịch cơ sở, chưa đủ sức lan tỏa rộng khắp và liên tục để nâng cao nhận thức bền vững.

Mặc dù chưa có nhiều công trình khoa học bàn sâu về truyền thông người cao tuổi và “kinh tế bạc” ở Việt Nam, một số báo chí và báo cáo đã chỉ ra xu hướng và nhu cầu. Tuy nhiên, nghiên cứu định tính mang tính học thuật về cách truyền thông ảnh hưởng đến người cao tuổi còn rất thiếu. Nhiều bài báo nhấn mạnh việc người già dễ bị lừa đảo trực tuyến hoặc cần đào tạo về số hóa nhưng vẫn chưa có nghiên cứu học thuật tổng hợp các khung lý thuyết truyền thông cùng chính sách liên quan.

Bài viết là kết quả của quá trình nghiên cứu tổng hợp và phân tích chính sách trong đó các tài liệu thứ cấp được thu thập và phân tích gồm: Báo cáo điều tra dân số và điều tra quốc gia về người cao tuổi, tin tức, bài báo kinh tế - xã hội, văn bản chính phủ liên quan đến chính sách người cao tuổi và phát triển “kinh tế bạc”.

Các khung lý thuyết truyền thông (lý thuyết khung, thiết lập chương trình nghị sự, phân tầng tuổi tác, truyền thông sức khỏe) được sử dụng như công cụ phân tích để đánh giá vai trò của truyền thông và nhận diện khoảng trống nghiên cứu. Quá trình nghiên cứu gồm: (1) Thu thập số liệu định lượng (dân số cao tuổi, tỷ lệ sử dụng internet, thu nhập, thị trường sản phẩm người già) từ nguồn chính thống và báo chí; (2) Rà soát tài liệu học thuật và báo chí về truyền thông và người cao tuổi trong - ngoài nước; (3) Phân tích nội dung các chính sách hiện hành về người cao tuổi (Quyết định số 383/QĐ-TTg ngày 21 - 02 - 2025 về Chiến lược Quốc gia về người cao tuổi đến năm 2035, tầm nhìn đến năm 2045, Chiến lược dân số 1679/QĐ-TTg ngày 22 - 11 - 2019 về Chiến lược Dân số Việt Nam đến năm 2030,…) và các chương trình truyền thông hiện có; (4) Áp dụng lý thuyết truyền thông và xã hội để tổng hợp và diễn giải các phát hiện, từ đó xây dựng khuyến nghị. Đây là nghiên cứu định tính - định lượng tích hợp, tập trung vào phân tích bối cảnh và chính sách chứ không phỏng vấn hay khảo sát trực tiếp người cao tuổi.

2.2. Thực trạng phát triển “kinh tế bạc” dành cho người cao tuổi tại Việt Nam

Một là, giai đoạn già hóa nhanh chóng của Việt Nam

Trước tiên, các số liệu về xu hướng dân số và thị trường “kinh tế bạc” cho thấy Việt Nam đã chính thức bước vào giai đoạn già hóa dân số từ năm 2011. Đến ngày 1-4-2021, Việt Nam có 12,5 triệu người từ 60 tuổi trở lên (chiếm 12,8% dân số) và 8,1 triệu người từ 65 tuổi trở lên; đầu năm 2023 đã tăng lên 16,18 triệu người 60+ (gần 17% dân số). Dự báo đến năm 2036, Việt Nam chuyển sang xã hội “già” (≥14% dân số 65+); đến năm 2050, nhóm 60+ có thể chiếm 20-25% dân số (6).

Hệ quả là nhu cầu tiêu dùng, chăm sóc sức khỏe và giải trí của người già gia tăng nhanh, mở ra thị trường “kinh tế bạc” tiềm năng. Báo cáo của VCCI-UNFPA nhận định thị trường dịch vụ cho người cao tuổi tại Việt Nam mới chỉ chú trọng một số dịch vụ y tế, trong khi các nhu cầu khác như rèn luyện thể chất, dinh dưỡng chuyên biệt, giải trí, du lịch… chưa nhiều. Điều này đòi hỏi sự tham gia chủ động từ cả doanh nghiệp và nhà hoạch định chính sách. Đỉnh điểm dân số trong độ tuổi lao động dự kiến sẽ kết thúc vào năm 2038, điều này sẽ gây áp lực ngày càng tăng lên các hệ thống phúc lợi xã hội quan trọng, bao gồm cả lương hưu.

Theo Tạp chí Người Đô Thị(7), 3 nhu cầu hàng đầu của người cao tuổi Việt Nam là vận động - thể thao, mạng lưới khám chữa bệnh chất lượng và thực phẩm chức năng dinh dưỡng; tuy nhiên chỉ có 29% người được khảo sát cho biết địa phương có cơ sở thể thao phù hợp, 14% biết về hệ thống y tế chuyên biệt cho người già.

Từ góc độ tài chính, điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam (VNAS 2021) ghi nhận 52,4% người già trả lời có thu nhập đủ tiêu hàng ngày, nghĩa là gần nửa số người cao tuổi còn thiếu thốn thu nhập (ở nông thôn chỉ 46,5% đủ sống)(8).

Đáng chú ý, cũng theo báo cáo này, tỷ lệ người cao tuổi không có tiết kiệm tăng cao theo tuổi: từ 71,8% (60-69 tuổi) đến 85,2% (80+)(9), cho thấy khả năng chi trả dài hạn của họ thấp. Nhìn chung, số liệu cho thấy một bộ phận đông đảo người già Việt Nam có nhu cầu, tiềm năng tham gia “kinh tế bạc” (đầu tư, tiêu dùng, lao động) song bị hạn chế bởi khả năng tài chính và độ bao phủ dịch vụ còn kém.

Hai là, hội nhập công nghệ và truyền thông với phân khúc người già

Mặc dù ngày càng có nhiều người già muốn tiếp cận công nghệ, nhưng thực tế chênh lệch số rất lớn. Nghiên cứu của Ủy ban Kinh tế và Xã hội khu vực châu Á - Thái Bình Dương của Liên hợp quốc (UNESCAP) năm 2023 cho thấy, chỉ 12,7% người 60+ tại Việt Nam có khả năng truy cập Internet, so với 79% dân số chung. Tỷ lệ sử dụng smartphone của người cao tuổi cũng thấp hơn (58% người cao tuổi, so với 73,5% dân số trưởng thành).

Sự chênh lệch này được giải thích bởi độ tuổi, khả năng thu nhập và nhận thức số hóa thấp của người già. Do vậy, nhiều người cao tuổi chỉ dùng điện thoại để nghe gọi cơ bản, thiếu kỹ năng trên các ứng dụng. Khoảng cách số khiến họ dễ bị cô lập và trở thành mục tiêu của lừa đảo trực tuyến, bởi thông tin họ nhận được qua mạng xã hội thường ít được kiểm duyệt kỹ. Báo chí trong nước ghi nhận người trung niên và cao tuổi đang là “mục tiêu” ưu tiên của tội phạm mạng: kẻ xấu khai thác hạn chế tiếp cận thông tin của họ để đánh lừa và chiếm đoạt tài sản. Các chiêu trò lừa đảo (hứa chụp ảnh rẻ, deepfake thân nhân, giả danh nhân viên chăm sóc khách hàng…) đều hướng vào tâm lý người già có nhiều thời gian, ít cảnh giác và sẵn tài chính tích lũy.

Quan sát thực tế cho thấy truyền thông đại chúng ở Việt Nam chưa tập trung nhiều vào vấn đề người cao tuổi. Đa phần nội dung liên quan (tin tức, chuyên mục truyền hình, báo chí) chỉ điểm một số khía cạnh như chăm sóc sức khỏe, ngày lễ truyền thống hay phong trào “Tuổi cao - Gương sáng”. Các phóng sự lớn bàn về “kinh tế bạc” hoặc tiếp cận công nghệ cho người già chưa nhiều. Theo quan sát của tác giả, các cơ quan, tổ chức như Hội Người cao tuổi, Đài Tiếng nói Việt Nam, Đài Truyền hình Việt Nam, Báo Nhân Dân… có phối hợp tổ chức sự kiện, bản tin tuyên truyền nhưng chủ yếu theo các chiến dịch ngắn hạn (ví dụ: Tháng hành động vì người cao tuổi). Chương trình truyền hình và báo chí hiếm khi khai thác khía cạnh tích cực của người già trong nền kinh tế số hay đổi mới sáng tạo. Do đó, theo lý thuyết đóng khung, người cao tuổi hiện tại thường được đóng khung dưới góc nhìn là đối tượng cần chăm sóc và bảo vệ (ăn, mặc, khám bệnh), chứ chưa là “nguồn lực” kinh tế và xã hội.

Ba là, các vấn đề nổi cộm

Thứ nhất, kinh tế bạc chưa được khai thác hết tiềm năng. Người cao tuổi Việt Nam đóng góp lớn cho gia đình và xã hội, riêng trong 5 năm 2017-2022 đã đóng góp 10,6 triệu ngày công, hiến 2,4 triệu m² đất xây đường sá…)(10). Tuy nhiên, nếu tiếp tục giữ tư duy “người già là đối tượng chỉ nhận sự chăm sóc”, chúng ta đã bỏ sót cơ hội khuyến khích họ lao động ở hình thức phù hợp (thậm chí khởi nghiệp) và tiêu dùng sản phẩm chuyên biệt. Theo khung phân tầng tuổi tác, xã hội đang không huy động hiệu quả nguồn lực tuổi già, bởi vì các chính sách việc làm, đào tạo, tín dụng cho người cao tuổi gần như chưa phát triển (nhóm này chỉ có 10% tìm được việc làm sau nghỉ hưu)(11).

Thứ hai, khoảng cách số và truyền thông dành cho đối tượng yếu thế. Nội dung truyền thông hiện tại chưa “lên lịch” thường xuyên cho vấn đề người cao tuổi. Theo lý thuyết thiết lập chương trình nghị sự, khi báo chí ít đưa tin về khởi nghiệp hay công nghệ cho người già, cộng đồng sẽ không coi đây là vấn đề ưu tiên. Kết quả, chỉ khoảng 50% gia đình người cao tuổi hài lòng với khả năng tiếp cận dịch vụ (vì thiếu nhân lực hướng dẫn số hóa). Từ góc độ truyền thông sức khỏe, thông tin về y tế (khám định kỳ, tiêm chủng, phòng chống tai nạn…) được đưa ra rải rác, chưa đủ mạnh, dẫn đến nhận thức của nhiều người già và gia đình còn hạn chế.

Thứ ba, nguy cơ lừa đảo và tin giả. Truyền thông lẫn định hướng xã hội cần sớm tuyên truyền nâng cao cảnh giác về lừa đảo trực tuyến cho người cao tuổi. Theo Báo Nhân Dân (ngày 6-6-2024), 15 chiêu trò lừa đảo trực tuyến phổ biến hướng vào người già, thế nhưng các hoạt động cảnh báo và giáo dục còn thiếu hệ thống. Khung sức khỏe/giáo dục truyền thông khuyến cáo phải sử dụng nhiều kênh (truyền hình, báo, đài phát thanh,, mạng xã hội) đưa thông điệp minh họa dễ hiểu để người lớn tuổi ghi nhớ, cùng với sự tham gia của gia đình và cộng đồng.

Thứ tư, thiếu khung pháp lý về truyền thông số hóa. Mặc dù Chiến lược Người cao tuổi giai đoạn 2035-2045 đặt mục tiêu 50% người cao tuổi sử dụng sản phẩm công nghệ thông tin và có ít nhất một chương trình truyền thông về người cao tuổi mỗi tuần, trên thực tế vẫn thiếu quy định cụ thể: chưa có chuẩn giảng dạy kỹ năng số cho người già trong chương trình cộng đồng, chưa có nội dung ưu tiên về chống lừa đảo dành riêng cho người cao tuổi trong quy định tuyên truyền. Đây là khoảng trống chính sách mà nếu không khắc phục, người cao tuổi sẽ càng bị tụt hậu và khó gia nhập nền kinh tế số.

2.3. Giải pháp góp phần khai thác tốt hơn tiềm năng của “kinh tế bạc” và nâng cao hiệu quả truyền thông với người cao tuổi

Một là, xây dựng chiến lược truyền thông quốc gia cho người cao tuổi với một chiến dịch truyền thông liên ngành, thường xuyên và liên tục, sử dụng nhiều kênh (truyền hình, báo, đài phát thanh, internet, mạng xã hội) để nâng cao nhận thức xã hội về giá trị người cao tuổi.

Nội dung cần được làm mới như: ví dụ các phóng sự về người cao tuổi khởi nghiệp, sáng tạo công nghệ, làm giàu bản thân. Truyền thông cần đóng khung (framing) người già như tài sản kinh tế - xã hội (nguồn lực tri thức, thị trường tiêu dùng) chứ không chỉ là đối tượng cần chăm sóc. Mặt khác, các báo lớn nên dành chuyên trang, chuyên mục định kỳ bàn về vấn đề an sinh, y tế, công nghệ, “kinh tế bạc” để đặt lên “lịch” tin tức chính thống (agenda-setting).

Hai là, nâng cao kỹ năng số cho người cao tuổi

Xây dựng các chương trình đào tạo công nghệ thông tin và truyền thông dành cho người trên 60 tuổi. Bộ Khoa học và Công nghệ phối hợp với Hội Người cao tuổi và Đoàn Thanh niên thành lập các “Câu lạc bộ số cộng đồng” (mô hình Xinhgapo, Hàn Quốc). Tại mỗi cơ sở y tế, hội người cao tuổi, nhà văn hóa… có thể lắp đặt thiết bị đầu cuối thân thiện (như máy tính bảng giao diện đơn giản) và nhân viên hướng dẫn dùng. Chương trình đào tạo bao gồm: cách sử dụng điện thoại thông minh (nhắn tin, gọi video), truy cập thông tin sức khỏe, ngân hàng điện tử cơ bản. Các khóa huấn luyện này cần được hỗ trợ từ ngân sách địa phương hoặc viện trợ xã hội (mô hình CSO hỗ trợ người cao tuổi). Kết hợp tuyên truyền trong quá trình đào tạo để phòng chống lừa đảo trực tuyến (các bước nhận biết, xử lý tình huống).

Ba là, bảo vệ người cao tuổi trên không gian mạng

Điều chỉnh các quy định truyền thông hiện hành để yêu cầu nội dung phòng chống lừa đảo phải tính đến đối tượng nạn nhân người già. Xây dựng bộ tài liệu, clip ngắn ngôn ngữ gần gũi dạy người già cảnh giác khi giao dịch trực tuyến. Các đài phát thanh tại địa phương nên phát chương trình giáo dục “an toàn mạng cho người cao tuổi” định kỳ. Hỗ trợ kỹ thuật cho các hãng viễn thông - công nghệ tập trung phát hiện sim rác, truy xuất nguồn gốc thuê bao bị mua bán để bảo vệ người cao tuổi khi tạo tài khoản ngân hàng hay đăng ký sim mới

Bốn là, quảng bá “kinh tế bạc” thông qua truyền thông và tăng cường hợp tác liên ngành

Truyền thông cần định vị “kinh tế bạc” là lĩnh vực tăng trưởng quan trọng. Có thể tổ chức các diễn đàn, hội thảo, truyền hình thực tế khởi nghiệp, chăm sóc người cao tuổi nhằm khuyến khích doanh nghiệp và nhà đầu tư nhìn nhận cơ hội. Chương trình khuyến khích phát triển sản phẩm dành riêng cho người già (chẳng hạn như thiết bị công nghệ có thể đeo/mang trên người (wearable) - là các thiết bị như đồng hồ thông minh, vòng đeo sức khỏe, kính thông minh, hoặc các thiết bị đeo có khả năng ghi nhận dữ liệu và tương tác với người dùng) nên được tuyên truyền rộng rãi, kết hợp tài trợ truyền thông. Quảng bá câu chuyện thành công của các doanh nhân tuổi cao để “đặt hàng” tâm lý xã hội tích cực cho khái niệm tuổi già chủ động và sáng tạo.

Truyền thông hiệu quả đòi hỏi sự tham gia của nhiều bên. Bộ Y tế và Bộ Nội vụ, Bộ Khoa học và Công nghệ và các đài truyền hình quốc gia phối hợp chặt chẽ. Ví dụ, báo đài địa phương nên có chuyên mục “Cuộc sống tuổi vàng” định kỳ. Bộ Khoa học và Công nghệ cần phát động chương trình “Người cao tuổi yêu công nghệ” như chương trình “Chuyển đổi số quốc gia”, gắn với việc phát triển nội dung chuyên biệt trên truyền hình trực tuyến cho người cao tuổi. Hội Người cao tuổi có thể ký kết với các báo lớn (Nhân Dân, Lao động) chuyên mục thường kỳ để giám sát thực thi chính sách và truyền thông. Các cấp ủy, chính quyền cần chủ động lồng ghép tuyên truyền về giá trị người già trên các diễn đàn dân vận và phương tiện địa phương.

Năm là, hoàn thiện cơ chế chính sách

Cần bổ sung văn bản quy phạm về giáo dục đại chúng cho người cao tuổi sử dụng công nghệ; hỗ trợ tài chính (vay ưu đãi, giảm thuế) cho doanh nghiệp khởi nghiệp tập trung vào thị trường người già cũng nên được tuyên truyền để thu hút nguồn lực; chính sách y tế, trợ cấp nên tuyên truyền thường xuyên và minh bạch, tránh kỳ thị tuổi tác.

3. Kết luận

Việt Nam đang đứng trước cơ hội và thách thức song song của quá trình già hóa dân số nhanh. Truyền thông giữ vai trò then chốt trong việc định hình cách cộng đồng nhìn nhận người cao tuổi: họ có thể là lực lượng tích cực đóng góp cho sự phát triển “kinh tế bạc” hay chỉ là nhóm cần được chăm sóc. Kết quả phân tích cho thấy, hiện có khoảng cách lớn về thông tin, giáo dục, và truyền thông cho người cao tuổi; truyền thông hiện tại chưa tối ưu trong việc phát huy tiềm năng của họ và bảo vệ họ khỏi rủi ro công nghệ. Để tiến tới phát triển “kinh tế bạc” toàn diện, cần xây dựng hệ sinh thái truyền thông gắn liền với chiến lược phát triển dân số già: khung chính sách cụ thể, chiến lược truyền thông đa kênh, và sự hợp tác liên ngành. Các khuyến nghị trong bài hướng tới mục tiêu này, với kỳ vọng sẽ khai thác tốt hơn nguồn lực người cao tuổi - không chỉ giải quyết thách thức an sinh, mà còn tạo nhiều giá trị cho nền kinh tế Việt Nam trong thời gian tới.

_________________

Ngày nhận bài: 25-7-2025; Ngày bình duyệt: 29-7-2025; Ngày duyệt đăng: 5-8-2025.

(1) Nguyễn Thanh Bình: “Già hóa dân số nhanh ở Việt Nam và khuyến nghị chính sách”, https://nhandan.vn/gia-hoa-dan-so-nhanh-o-viet-nam-va-khuyen-nghi-chinh-sach-post756305.html, ngày 6-6-2023.

(2), (5), (10) Thuy Bich Tran: “Bridging the digital divide in an ageing Vietnam”, United Nations Economic and Social Commission for Asia and the Pacific, https://www.unescap.org/sites/default/d8files/event-documents/Thuy%20Tran%20-Vietnam-UNESCAP-digital%20divide-Nov%2023_for_website.pdf, truy cập ngày 27-7-2025.

(3) Già hóa trong thế kỷ XXI: Thành tựu và thách thức - Điều tra quốc gia về người cao tuổi Việt Nam (VNAS 2021), Tổng cục Thống kê và Quỹ Dân số Liên hợp quốc, https://unfpa.org/sites/default/files/pub-pdf/UNFPA-Exec-Summary_VN.pdf. truy cập ngày 27-7-2025

(4) Liu Ming: “Silver economy' offers great biz potential”, https://english.www.gov.cn, truy cập ngày 27-7-2025.

(6), (8), (9) Người Cao tuổi Việt Nam: Phân tích từ Điều tra biến động dân số và Kế hoạch hóa gia đình năm 2021, Quỹ Dân số Liên hợp quốc. https://vietnam.unfpa.org/vi/publications/nguoi-cao-tuoi-viet-nam-phan-tich-tu-dieu-tra-bien-dong-dan-so-va-ke-hoach-hoa-gia-dinh , truy cập ngày 27-7-2025.

(7) Hoàng Hạnh: “Nền “kinh tế bạc” Việt Nam: Nhìn từ hiện tại và tương lai”, https://nguoidothi.net.vn/nen-kinh-te-bac-viet-nam-nhin-tu-hien-tai-va-tuong-lai-45520.html, ngày 9-10-2024 .

(10), Hồng Minh: “Để người cao tuổi tự tin dùng công nghệ: Cần hoàn thiện khung chính sách”, https://baophapluat.vn/de-nguoi-cao-tuoi-tu-tin-dung-cong-nghe-can-hoan-thien-khung-chinh-sach-post528331.html, ngày 13-10-2024.

(11) Phúc Quân: “Bảo vệ người cao tuổi trước các thủ đoạn lừa đảo trên internet”, https://nhandan.vn/bao-ve-nguoi-cao-tuoi-truoc-cac-thu-doan-lua-dao-tren-internet-post815932.html, ngày 25-6-2024.