Nhân vật - Sự kiện

Giá trị độc lập, tự do nhìn từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám 1945

Nguyễn Thị Thùy Linh 18/08/2025 11:28

(LLCT) - Dưới sự lãnh đạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã làm nên cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945 “long trời, lở đất”, cởi bỏ gông cùm, xiềng xích nô lệ, “rũ bùn đứng dậy” làm chủ vận mệnh của mình. Kỷ nguyên mới độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được bắt đầu từ đây. Giá trị của độc lập, tự do vẫn luôn là thành quả to lớn nhất, vĩ đại nhất mà Cách mạng Tháng Tám đã đem lại cho nhân dân Việt Nam và luôn sáng ngời chân lý của thời đại.

TS TRẦN TUẤN SƠN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

THS LÊ THỊ HUYỀN

Trường Đại học Chính trị - Bộ Quốc phòng

Những ngày tháng tám năm 1945 sôi sục ở Thủ đô Hà Nội_Ảnh: Tư liệu TTXVN

1. Mở đầu

Độc lập, tự do là giá trị thiêng liêng và phổ quát của toàn nhân loại. Độc lập là cơ sở, nền tảng để mỗi quốc gia - dân tộc tự mình tồn tại, phát triển mà không phụ thuộc vào một quốc gia - dân tộc nào khác. Dưới góc độ chính trị, độc lập có thể hiểu là “trạng thái của một nước hoặc một dân tộc có chủ quyền về chính trị, không phụ thuộc vào nước khác hoặc dân tộc khác”(1). Với vị trí địa lý có tính chiến lược quan trọng về nhiều mặt, nên trong lịch sử, Việt Nam thường xuyên phải chống giặc ngoại xâm để bảo vệ đất nước và giữ vững chủ quyền, giành độc lập, tự do. Vì vậy, hơn bất cứ quốc gia, dân tộc nào trên thế giới, nhân dân Việt Nam luôn hiểu và trân trọng giá trị của độc lập, tự do, “quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mệnh và của cải để giữ vững quyền tự do và độc lập ấy”(2).

2. Nội dung

2.1. Độc lập, tự do là chân lý chỉ dẫn nhân dân Việt Nam sẵn sàng hiến dâng máu xương để bảo vệ

Ngày 02-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam) và trịnh trọng tuyên bố trước thế giới: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thực đã thành một nước tự do và độc lập”(3). Điều đó khẳng định Việt Nam hoàn toàn bình đẳng với các quốc gia khác trên thế giới về chủ quyền pháp lý - chính trị và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế như quyền tự quyết mọi vấn đề đối nội, đối ngoại,…

Nhưng nền độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa mới giành được đã bị đe dọa nghiêm trọng. Ngày 23-9-1945, theo chân quân đội Anh, thực dân Pháp đã gây hấn ở Sài Gòn nhằm âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta một lần nữa. Nhiệm vụ trọng yếu của cách mạng lúc này là phải giữ được nền độc lập cho dân tộc. Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định và phát huy chủ quyền về pháp lý - chính trị và quyền độc lập trong quan hệ quốc tế để tăng cường, đẩy mạnh các hoạt động đấu tranh nhằm loại trừ mưu đồ của thực dân Pháp. Nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã giúp dân tộc ta trì hoãn song không thể dập tắt được tham vọng xâm lược, chia cắt đất nước ta của thực dân Pháp. Không thể để giá trị độc lập, tự do bị chà đạp, nhân dân Việt Nam quyết tâm đứng lên: “Thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”(4).

Sức mạnh của độc lập, tự do đã tập hợp toàn dân đứng lên đánh đuổi thực dân, đế quốc bằng mọi thứ vũ khí: “Ai có súng dùng súng. Ai có gươm dùng gươm, không có gươm thì dùng cuốc, thuổng, gậy gộc. Ai cũng phải ra sức chống thực dân Pháp cứu nước”(5) và bằng tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh” để bảo vệ Tổ quốc. Tinh thần ấy đã giúp dân tộc ta vượt qua 9 năm kháng chiến trường kỳ, làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc thực dân Pháp phải ký Hiệp định Giơnevơ, công nhận và cam kết tôn trọng độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam. Rõ ràng, khi người dân thấu hiểu và trân trọng giá trị của độc lập, tự do thì luôn sẵn sàng hy sinh, quyết tâm giành lại độc lập, tự do cho dân tộc. Lần đầu tiên, quyền độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam được ghi nhận trong một bản Hiệp định, được thế giới thừa nhận.

Nhưng đế quốc Mỹ đã ngang nhiên phá hoại Hiệp định và dùng mọi thủ đoạn để thay thế thực dân Pháp, thực hiện chia cắt lâu dài đất nước ta, xâm phạm nghiêm trọng nền độc lập dân tộc. Toàn dân tộc lại đoàn kết một lòng, tiến hành hai chiến lược cách mạng ở cả hai miền Nam - Bắc. Với ý chí “Không có gì quý hơn độc lập, tự do”(6), quân và dân ta đã làm nên thắng lợi trong trận “Hà Nội - Điện Biên Phủ trên không”, buộc đế quốc Mỹ phải ký vào Hiệp định Paris năm 1973, chấp nhận rút quân về nước, tôn trọng quyền độc lập dân tộc… Một lần nữa, quyền độc lập, tự do của nhân dân Việt Nam được thừa nhận trong bản Hiệp định. Nhưng phải đến năm 1975, với thắng lợi của Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, cuộc kháng chiến trường kỳ 21 năm mới kết thúc, non sông thu về một mối, Bắc - Nam sum họp một nhà. Công cuộc khắc phục hậu quả chiến tranh để lại và kiến thiết nước nhà được bắt đầu trong độc lập, tự do và thống nhất.

2.2. Độc lập, tự do - động lực để Việt Nam đạt nhiều thành tựu trong xây dựng và phát triển đất nước

Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”(7). Điều này cho thấy mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc với giai cấp, giữa độc lập dân tộc với sự phát triển xã hội, giữa phục hưng dân tộc với sự phát triển của tự do và hạnh phúc cho con người. Quyền dân tộc (độc lập), quyền con người (tự do) còn biểu thị mối quan hệ hữu cơ giữa vấn đề dân tộc với vấn đề con người. Trong đó, quyền, lợi ích của dân tộc được đặt lên trước và khẳng định: “Độc lập của dân tộc Việt Nam là thiêng liêng nhất, là trên hết, trước hết và là tiền đề, là cơ sở cho tự do của con người Việt Nam”(8). Không có độc lập dân tộc thì không có tự do thực sự cho con người. Nói cách khác, “tự do chính là nội dung của độc lập dân tộc, làm hoàn chỉnh ý nghĩa của độc lập dân tộc và độc lập dân tộc là điều kiện bảo đảm để ngày càng hoàn thiện các giá trị tự do và hạnh phúc của con người Việt Nam”(9). Đường lối, chính sách đúng đắn của Đảng, Nhà nước ta đã thực sự làm cho nhân dân được hưởng hạnh phúc, xứng đáng với vị thế là người dân tự do, là chủ và làm chủ một nước độc lập.

Phát huy giá trị độc lập, tự do, từ một nước bị tàn phá sau nhiều cuộc chiến tranh, nghèo nàn, lạc hậu, thiếu đói, bị bao vây, cấm vận, nhân dân Việt Nam đã “đoàn kết phấn đấu, xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh”(10) và “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(11). Ở vị thế của một đất nước độc lập, Việt Nam đã lựa chọn và tự quyết định con đường phát triển của mình, đó là xây Nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Để khơi nguồn sáng tạo không ngừng của nhân dân, Đảng ta đã quán triệt sâu sắc quan điểm “dân là gốc”, thật sự tin tưởng, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, kiên trì thực hiện phương châm “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra, dân giám sát, dân thụ hưởng”(12).

Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế khu vực và thế giới. “Tốc độ tăng trưởng, quy mô và sự phát triển của nền kinh tế đạt được ở mức cao, từ năm 1986 đến năm 2025 đạt bình quân 6%/năm. Quy mô nền kinh tế năm 2025 đạt khoảng 510 tỷ USD, tăng hơn 110 lần so với năm 1986 (4,5 tỷ USD), đưa Việt Nam tham gia vào nhóm 35 nền kinh tế lớn nhất thế giới; thu nhập bình quân đầu người đạt 5.000 USD”(13).

Lĩnh vực văn hóa, xã hội, con người ngày càng phát triển. Hoạt động giao lưu, quảng bá văn hóa Việt Nam được thực hiện chủ động, tích cực. Chất lượng dịch vụ y tế, giáo dục, đào tạo và dạy nghề được nâng lên; tuổi thọ trung bình tăng từ 65,5 tuổi năm 1993 lên 74,5 tuổi năm 2023(14); chỉ số phát triển con người (HDI) liên tục được cải thiện, năm 2023, Việt Nam đạt HDI là 0,766, xếp hạng 93/193, thuộc nhóm các nước có mức phát triển con người trung bình cao của thế giới(15); tiềm lực khoa học, công nghệ quốc gia được tăng cường; chỉ số đổi mới, sáng tạo toàn cầu (GII) của Việt Nam xếp hạng 46/132 năm 2023(16), tăng 13 bậc so với năm 2016; năm 2025, Việt Nam đứng ở vị trí số 46 toàn cầu trong Báo cáo Hạnh phúc Thế giới(17).

Với đường lối đối ngoại đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam đã phá vỡ được thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù địch trên thế giới, thiết lập quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia là thành viên của Liên hợp quốc; đã xây dựng được các mối quan hệ đối tác, hợp tác chiến lược, đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các cường quốc trên thế giới và khu vực. “Công tác đối ngoại đã góp phần giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, nâng cao vị thế và uy tín của đất nước; bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ; giải quyết được nhiều vấn đề biên giới trên bộ và trên biển với các nước có liên quan, góp phần củng cố hòa bình, ổn định trong khu vực”(18).

Có được thành tựu trên là do sự “Kiên định, vận dụng, phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh…; kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; tập trung xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện; xây dựng Nhà nước tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; thực hành và phát huy rộng rãi dân chủ xã hội chủ nghĩa; phát huy cao độ sức mạnh tổng hợp, sức sáng tạo, ý chí và khát vọng của toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị kết hợp với sức mạnh thời đại, chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, đất nước ta nhất định sẽ phát triển ngày càng đàng hoàng hơn, to đẹp hơn, Nhân dân ta nhất định sẽ có cuộc sống ấm no, hạnh phúc hơn”(19).

2.3. Độc lập, tự do - kim chỉ nam đưa Việt Nam vững bước trong kỷ nguyên phát triển mới

Gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới, những thành tựu mà Đảng, Nhà nước và nhân dân đã đạt được sẽ tạo lập nền tảng vững chắc để Việt Nam tiến bước vào kỷ nguyên phát triển thịnh vượng. Đó là “kỷ nguyên phát triển, kỷ nguyên giàu mạnh dưới sự lãnh đạo, cầm quyền của Đảng, xây dựng thành công nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Đích đến của kỷ nguyên vươn mình là dân giàu, nước mạnh, xã hội xã hội chủ nghĩa, sánh vai với các cường quốc năm châu”(20). Trong kỷ nguyên mới, Việt Nam cần tranh thủ tối đa thời cơ, thuận lợi, đẩy lùi nguy cơ, thách thức, đưa đất nước phát triển mạnh mẽ, toàn diện. Chúng ta phải kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tuân thủ “các nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế, bình đẳng, hợp tác cùng có lợi để xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”(21). Đó cũng là “nguyên tắc, có ý nghĩa sống còn đối với chế độ ta, là nền tảng vững chắc của Đảng ta, không cho phép ai được ngả nghiêng, dao động”(22).

Nhằm khơi dậy, phát huy sức sáng tạo không giới hạn của nhân dân trong mọi hoạt động, trên mọi lĩnh vực, tạo đòn bẩy phát triển, tranh thủ tận dụng nhiều cơ hội từ cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phát triển bứt phá, Đảng đã ban hành các nghị quyết quan trọng tạo nên một chỉnh thể thống nhất về tư duy và hành động chiến lược cho sự phát triển đất nước, đó là: Nghị quyết số 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 59-NQ/TW ngày 24-01-2025 về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04-5-2025 về phát triển kinh tế tư nhân và Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Điểm đột phá chung của cả 4 nghị quyết là tư duy phát triển mới: từ “quản lý” sang “phục vụ”, từ “bảo hộ” sang “cạnh tranh sáng tạo”, từ “hội nhập bị động” sang “hội nhập chủ động”, từ “cải cách phân tán” sang “đột phá toàn diện, đồng bộ và sâu sắc”. Đây là bước chuyển tư duy căn bản, kế thừa thành tựu đổi mới 40 năm qua và phù hợp với xu thế toàn cầu trong kỷ nguyên số.

Năng lực lãnh đạo của Đảng đã quy tụ được khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhân dân ta tin tưởng, quyết tâm, trách nhiệm bảo vệ giá trị thiêng liêng “độc lập, tự do” và không ngừng bổ sung, phát triển, hoàn thiện để “độc lập, tự do” luôn là chân lý của thời đại. Mỗi người dân Việt Nam cần có trách nhiệm cùng với Đảng và cả hệ thống chính trị xây dựng đất nước giàu mạnh, hùng cường, sánh vai với các cường quốc năm châu, hiện thực hóa khát vọng của Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Tiếp tục xây dựng, phát triển, hoàn thiện hệ giá trị quốc gia: “Hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ, giàu mạnh, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc”(23) để giá trị thiêng liêng của độc lập, tự do từ thắng lợi to lớn mà Cách mạng Tháng Tám năm 1945 mang lại tiếp tục được phát huy và giàu sức sống.

3. Kết luận

Có thể khẳng định, niềm tin của nhân dân với Đảng là yếu tố then chốt bảo đảm mọi thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Việc thực hiện đồng bộ, hiệu quả cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ sẽ tiếp tục tạo nền tảng vững chắc để đất nước hiện thực hóa các mục tiêu chiến lược: “đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng, là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao; đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(24). Với quyết tâm chính trị cao, sự đồng thuận xã hội và niềm tin sắt son, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam sẽ vững vàng và thắng lợi.

_________________

Ngày nhận bài: 23-6-2025; Ngày bình duyệt:14-8-2025; Ngày duyệt đăng:15-8-2025.

Email tác giả: tuansonlsd@gmail.com

(1) Trung tâm Từ điển học: Từ điển Tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng, 2015, tr.541.

(2), (3), (4), (5), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.4, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.3, 3, 534, 534, 64.

(6), (10) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđd, tr.130, 614.

(8), (9) Viện Sử học: Cách mạng tháng Tám 1945 với sự nghiệp đổi mới, hội nhập và phát triển, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2016, tr.16, 16.

(11), (12), (21), (22), (24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.25, 27, 33, 33, 112.

(13), (18), (23) ĐCSVN: Dự thảo Các văn kiện trình Đại hội XIV của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2025, tr.206, 208, 34.

(14) Tuổi thọ trung bình của người Việt Nam đạt 74,5 tuổi. https://baochinhphu.vn, ngày 11-7-2024.

(15) UNDP: Viet Nam stands out in human development amid global slowdown, says UNDP. https://www.undp.org, May 12, 2025.

(16) Global Innovation Index 2023: Viet Nam ranking in the Global Innovation Index 2023. https://www.wipo.int/, September 2023.

(17) Vietnam ranks second in Southeast Asia in happiness index. https://en.vietnamplus.vn, March 21, 2025.

(19) Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay. https://baochinhphu.vn, ngày 27-7-2024.

(20) Một số nội dung cơ bản về kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc; những định hướng chiến lược đưa đất nước bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc. https://www.tapchicongsan.org.vn, ngày 01-11-2024.

Nguyễn Thị Thùy Linh