Phản bác những luận điệu xuyên tạc việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
(LLCT) - Với âm mưu chống phá, gây bất ổn chính trị ở Việt Nam, mỗi khi Đảng và Nhà nước ta ban hành những chủ trương, chính sách, pháp luật mới thì các thế lực thù địch thường xuyên tạc, hòng làm suy giảm niềm tin của nhân dân vào Đảng, Nhà nước. Việc Đảng ta chủ trương sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đã trở thành một trong những trọng điểm chống phá của các thế lực thù địch. Bài viết góp phần nhận diện các luận điệu xuyên tạc, chống phá việc sửa đổi Hiến pháp, từ đó đưa ra luận cứ đấu tranh, góp phần thực hiện thắng lợi các quyết sách mang tính cách mạng của đất nước trong kỷ nguyên mới.
ThS HÀ ĐỖ QUYÊN
Vụ Các trường chính trị,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Hiến pháp là luật cơ bản của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, có hiệu lực pháp lý cao nhất(1), thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân và là nền tảng cho việc tổ chức quyền lực nhà nước, bảo đảm quyền con người, quyền công dân và xác lập trật tự pháp lý của quốc gia.
Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 28-11-2013 và có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2014, là sự kết tinh trí tuệ tập thể, kế thừa từ các bản hiến pháp trước đó; đồng thời thể hiện sự chủ động, sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta trong việc cập nhật, điều chỉnh đáp ứng yêu cầu bức thiết của tình hình mới, xác lập nền tảng thể chế xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Sau hơn 10 năm thực hiện, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 là hết sức cần thiết, tạo cơ sở hiến định cho việc thực hiện cuộc cách mạng về tinh gọn tổ chức bộ máy; đồng thời thể hiện ý chí và nguyện vọng của nhân dân trong giai đoạn phát triển mới. Với sự đồng thuận của đông đảo quần chúng nhân dân, các cơ quan, đoàn thể, tổ chức chính trị - xã hội..., ngày 16-6-2025, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị quyết số 203/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đây là bước phát triển thể chế tất yếu, nhằm đáp ứng yêu cầu thực tiễn của đất nước.
Tuy nhiên, bên cạnh sự đồng thuận, ủng hộ rộng rãi của các tầng lớp nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội trong nước, một số tổ chức và cá nhân ở nước ngoài đã tung ra những luận điệu xuyên tạc trắng trợn, thiếu căn cứ nhằm khiến quần chúng nhân dân hiểu sai ý nghĩa của việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013; hòng làm lung lay lòng tin của nhân dân vào Đảng, vào Nhà nước; gây bất ổn trong nội bộ, âm mưu thực hiện “diễn biến hòa bình” nhằm làm sụp đổ chế độ XHCN ở nước ta như đã từng làm với nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là điều hết sức nguy hiểm mà cán bộ, đảng viên và nhân dân cần nhận diện, đấu tranh phản bác, đập tan các luận điệu xuyên tạc, chống đối, phản động của các thế lực thù địch về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
2. Nội dung
2.1. Nhận diện các luận điệu xuyên tạc việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp ở Việt Nam
Trong khi nhân dân đồng thuận, thống nhất cao với nội dung sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 cho phù hợp với thực tiễn phát triển của đất nước trong kỷ nguyên mới thì các thế lực thù địch, phản động, chống đối lại ráo riết tung ra các luận điệu xuyên tạc trắng trợn về quá trình sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam. Chúng phát tán những thông tin sai lệch, gieo rắc hoài nghi, gây chia rẽ trong dư luận xã hội. Chúng quy chụp, phủ nhận ý nghĩa nhân văn, vì dân của việc sửa đổi Hiến pháp, cố tình hạ thấp uy tín của Đảng và Nhà nước, xuyên tạc bản chất tốt đẹp của chế độ ta. Những luận điệu phổ biến mà các thế lực thù địch, chống đối tung ra về việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 gồm: Chúng rêu rao rằng đó là sự “đấu đá quyền lực nội bộ”, “thâu tóm quyền lực”. Các tổ chức, cá nhân thù địch, chống đối đã cố tình xuyên tạc, tuyên truyền luận điệu, thậm chí chúng còn trắng trợn vu khống việc sửa Hiến pháp ở Việt Nam là “vi hiến”. Luận điệu mà các thế lực thù địch, chống đối lặp đi lặp lại mỗi khi Đảng, Nhà nước ta có chủ trương sửa đổi Hiến pháp là “nhân dân không được biết, không được tham gia vào quá trình sửa đổi Hiến pháp”; “Hiến pháp không thể hiện ý chí, nguyện vọng của nhân dân”. Từ đó, chúng xảo quyệt tìm cách lồng ghép, đưa ra các đòi hỏi sửa đổi phi lý đối với Hiến pháp Việt Nam, đặc biệt chúng đòi sửa Điều 4 trong Hiến pháp nhằm xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, từ đó tiến tới xóa bỏ chế độ XHCN ở nước ta.
Đây không phải là những luận điệu mới mẻ của các thế lực thù địch, phản động, cũng không phải lần đầu chúng sử dụng những thủ đoạn xuyên tạc trắng trợn này. Trên thực tế, mỗi khi Đảng và Nhà nước ta có chủ trương đổi mới, điều chỉnh về pháp luật hoặc chính sách thì các thế lực thù địch đều tìm cách chống phá. Về ngắn hạn, mục tiêu của chúng là phá hoại các chủ trương mới của Đảng, chính sách mới của Nhà nước; gây ra những khó khăn cho quá trình chuyển đổi thể chế, ngăn trở sự phát triển của đất nước và dân tộc. Về lâu dài, những luận điệu xuyên tạc mà các thế lực thù địch đưa ra hòng gây mất niềm tin trong quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước; tạo ra sự phân tán về mặt tư tưởng; khoét sâu thêm những vấn đề còn yếu kém; qua đó chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong đội ngũ cán bộ, đảng viên và nhân dân để từ đó thông qua “diễn biến hòa bình” làm sụp đổ chế độ XHCN ở nước ta. Đặc biệt, trong bối cảnh đất nước quyết liệt triển khai thực hiện những quyết sách mới mang tính chiến lược, đòi hỏi sự thống nhất về nhận thức, sự đồng thuận của đông đảo cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân thì các tổ chức, cá nhân chống đối, thù địch lại càng tăng cường xuyên tạc, tuyên truyền các luận điệu sai trái.
Hiện nay, toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đang tổ chức Đại hội Đảng các cấp, tiến tới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIV của Đảng - kỳ đại hội ghi dấu sự phát triển của đất nước trong kỷ nguyên phát triển mới, trong đó có một nhiệm vụ then chốt là: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo; thượng tôn Hiến pháp và pháp luật; tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ hiệu quả quyền con người, quyền công dân; có nền hành chính, tư pháp chuyên nghiệp, pháp quyền, hiện đại; bộ máy nhà nước tinh gọn, trong sạch, hoạt động hiệu lực, hiệu quả; đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, dốc toàn tâm, toàn lực phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân”(2). Vì vậy, yêu cầu đổi mới, hoàn thiện thể chế nhằm phát huy tối đa nguồn lực, phù hợp với tổ chức mô hình chính quyền hai cấp, phát triển đất nước nhanh và bền vững là chủ trương hết sức đúng đắn, thể hiện tư duy lãnh đạo và tầm nhìn sáng suốt của Đảng và Nhà nước ta. Điều này càng khiến cho các cá nhân, tổ chức phản động, chống đối thêm điên cuồng và ra sức chống phá bằng những âm mưu, thủ đoạn xảo quyệt nhằm hạ thấp uy tín của Đảng, Nhà nước ta; kích động sự bất ổn từ bên trong để tạo điều kiện cho các thế lực thù địch can thiệp từ bên ngoài vào nước ta.
2.2. Luận cứ phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực thù địch về sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013
Một là, mục đích sửa đổi Hiến pháp là xây dựng hệ thống pháp luật phục vụ yêu cầu phát triển đất nước và hiện thực hóa quyền làm chủ của nhân dân chứ không phải là công cụ “đấu đá quyền lực nội bộ”, “thâu tóm quyền lực”.
Trước hết, Nghị quyết số 203/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung các điều số 9, 10, 110, 111 của Hiến pháp năm 2013 với các nội dung liên quan đến tổ chức Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội như Công đoàn Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh…; tổ chức chính quyền địa phương hai cấp(3). Tất cả những thay đổi này đều nhằm nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, đáp ứng yêu cầu cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy để phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới. Nội dung sửa đổi Hiến pháp năm 2013 hoàn toàn không có bất kỳ nội dung nào liên quan đến việc chuyển đổi mô hình chính trị, cấu trúc quyền lực nhà nước hay vai trò lãnh đạo của Đảng(4).
Bên cạnh đó, cũng như các lần sửa đổi Hiến pháp trước đó, lần sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 này cũng được triển khai dựa trên yêu cầu khách quan; không phải “Đảng tự quyết”, “chiêu bài đấu đá nội bộ” hay “củng cố quyền lực” như các thế lực thù địch, chống đối rêu rao.
Thứ nhất, đó là yêu cầu tiếp tục đổi mới tổ chức bộ máy nhà nước. Sau hơn 10 năm thực hiện Hiến pháp năm 2013, mô hình tổ chức chính quyền địa phương ba cấp (tỉnh - huyện - xã) đã bộc lộ nhiều bất cập, trùng lặp chức năng, lãng phí nguồn lực, cản trở hiệu quả quản lý. Việc sửa đổi Hiến pháp để hiến định mô hình chính quyền địa phương hai cấp là điều kiện bắt buộc để thể chế hóa đường lối cải cách bộ máy nhà nước, đã được xác định tại các nghị quyết của Trung ương.
Thứ hai, sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 nhằm tăng cường quyền làm chủ của nhân dân. Thực tiễn quản lý cho thấy, muốn người dân thực sự làm chủ thì bộ máy công quyền phải tinh gọn, gần dân, minh bạch và chịu trách nhiệm giải trình. Việc chuyển đổi sang mô hình chính quyền địa phương hai cấp không chỉ đơn thuần là sắp xếp tổ chức, mà là tái cấu trúc mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân theo hướng Nhà nước phục vụ.
Thứ ba, sửa đổi Hiến pháp nhằm làm rõ vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, nhất là Mặt trận Tổ quốc và Công đoàn. Hiến pháp sửa đổi ghi nhận vai trò của Mặt trận là tổ chức liên minh chính trị, liên hiệp tự nguyện của tổ chức chính trị, các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức xã hội và các cá nhân tiêu biểu trong các giai cấp, tầng lớp xã hội, dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài; đồng thời khẳng định Công đoàn Việt Nam là tổ chức chính trị - xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động; đại diện, chăm lo và bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng cho đoàn viên công đoàn và người lao động; là đại diện duy nhất của người lao động ở cấp quốc gia trong quan hệ lao động và quan hệ quốc tế về công đoàn(5).
Ngoài ra, việc sửa đổi Hiến pháp còn được định hướng bởi Nghị quyết số 27-NQ/TW ngày 09-11-2022 Hội nghị Trung ương 6 (khóa XIII) về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong giai đoạn mới. Nghị quyết 27-NQ/TW đã xác định các nhiệm vụ và giải pháp trọng tâm, trong đó có việc hoàn thiện thể chế pháp luật, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước, cải cách tư pháp và tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng.
Trên hết, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 dựa trên cơ sở nền tảng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây không phải là lần đầu tiên nước ta tiến hành sửa đổi Hiến pháp. Cũng như các lần sửa đổi Hiến pháp trước, Đảng và Nhà nước ta đều dựa trên bối cảnh tình hình thực tiễn, gắn với những chuyển đổi mang tính cách mạng của đất nước. Điều này thể hiện nhận thức sâu sắc của Đảng và Nhà nước ta về mối quan hệ biện chứng giữa tồn tại xã hội và ý thức xã hội.
Thực tiễn trên thế giới đã chứng minh rằng, sửa đổi Hiến pháp là điều phổ biến ở nhiều quốc gia. Ngay cả các quốc gia có trình độ phát triển cao cũng nhiều lần sửa đổi hiến pháp để phù hợp với tình hình thực tiễn của đất nước trong những thời điểm lịch sử cụ thể(6). Như vậy, việc sửa đổi Hiến pháp ở Việt Nam cũng dựa trên sự thay đổi và phát triển của tồn tại xã hội, tuân theo quy luật tất yếu khách quan chứ không phải theo ý kiến chủ quan của bất kể cá nhân, tổ chức nào như các thế lực thù địch vẫn tuyên truyền xuyên tạc.
Một nghịch lý trong các luận điệu của các thế lực chống đối, thù địch là: chúng cho rằng Việt Nam “tập quyền hóa”, “thâu tóm quyền lực” thông qua việc sửa đổi Hiến pháp; trong khi thực tế, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 chính là để phân quyền, phân cấp. Mô hình chính quyền hai cấp trong Hiến pháp sửa đổi (gồm cấp tỉnh và đơn vị hành chính dưới tỉnh) giúp giảm trung gian, rút ngắn quy trình thủ tục hành chính, tăng tính tự chủ cho địa phương, trao thêm trách nhiệm cho chính quyền cơ sở. Điều này giúp người dân giám sát hiệu quả hơn, tăng cường minh bạch, cải thiện chất lượng dịch vụ công. Đồng thời, quyền đề xuất luật được mở rộng cho các tổ chức chính trị - xã hội, thể hiện xu hướng dân chủ hóa trong lập pháp, tạo điều kiện cho tiếng nói của các nhóm xã hội yếu thế, đại diện nhân dân được đưa vào nghị trình lập pháp quốc gia.
Hai là, việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 xuất phát từ yêu cầu cấp bách của thực tiễn và không “vi hiến”.
Trước hết, thực tiễn hơn 10 năm thi hành Hiến pháp năm 2013 cho thấy, đến nay nhiều quy định đã không còn phù hợp với tình hình hiện tại và các yêu cầu mới của quá trình phát triển đất nước. Mô hình chính quyền địa phương ba cấp đã trở nên cồng kềnh, thiếu linh hoạt. Trước ngày 01-7-2025, cả nước có 63 tỉnh, thành phố với 696 đơn vị hành chính cấp huyện, 10.035 đơn vị cấp xã với hàng chục nghìn cán bộ chuyên trách(7). Sau khi sáp nhập, cả nước có 34 đơn vị hành chính cấp tỉnh (gồm 28 tỉnh, 6 thành phố); bỏ hoàn toàn cấp huyện(8). Việc bỏ cấp huyện không làm giảm hiệu quả quản lý, mà ngược lại, giúp nâng cao chất lượng điều hành, tiết kiệm chi phí ngân sách, giảm tầng nấc trung gian. Mặt khác, đời sống xã hội, khoa học, công nghệ, kinh tế đang phát triển nhanh chóng. Các vấn đề như đô thị hóa, chuyển đổi số, kinh tế xanh… đòi hỏi Hiến pháp phải cập nhật kịp thời, tạo khung khổ pháp lý vững chắc để tiếp tục xây dựng, bổ sung, hoàn thiện hệ thống pháp luật. Do đó, việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp là đáp ứng yêu cầu cấp bách từ thực tiễn phát triển đất nước.
Điều 120 Hiến pháp năm 2013 quy định, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền quyết định việc sửa đổi Hiến pháp, khi có ít nhất 2/3 tổng số đại biểu tán thành. Đồng thời, quyền đề xuất sửa đổi thuộc về Chủ tịch nước, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội(9). Theo đó, để sửa đổi Hiến pháp năm 2013, Quốc hội đã thực hiện đầy đủ các bước theo đúng quy trình pháp lý: Thông qua chủ trương, thành lập Ủy ban dự thảo, tổ chức lấy ý kiến nhân dân, tiếp thu, chỉnh lý và biểu quyết công khai với sự tán thành tuyệt đối của toàn thể đại biểu có mặt. Bộ Chính trị, với vai trò là cơ quan lãnh đạo của Đảng, có thể định hướng chính sách, trong đó có định hướng thể chế, nhưng không thay thế Quốc hội trong hoạt động lập hiến. Do đó, việc gán ghép trách nhiệm sửa Hiến pháp cho Bộ Chính trị để kết luận “vi hiến” là sự ngụy biện, xuyên tạc và thiếu hiểu biết nghiêm trọng về cấu trúc quyền lực Nhà nước Việt Nam.
Thực tiễn ở Việt Nam cho thấy, việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 được Quốc hội thông qua vào tháng 6-2025 đã được tiến hành một cách bài bản, dân chủ, công khai và đúng quy trình pháp luật.
Thực hiện chủ trương của Đảng, tại Kỳ họp thứ 9, Quốc hội khoá XV, 100% các đại biểu tham gia biểu quyết đã tán thành, thông qua Nghị quyết của Quốc hội về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 và Nghị quyết về việc thành lập Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013(10). Ủy ban đã tổ chức nghiên cứu, xây dựng một hệ thống tài liệu đa dạng, phong phú(11) lấy ý kiến nhân dân về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013; giúp các cơ quan, tổ chức, chính quyền các cấp và người dân dễ dàng nắm bắt thông tin về việc sửa đổi Hiến pháp. Toàn bộ các tài liệu liên quan tới sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đều được công bố trên Cổng thông tin điện tử của Quốc hội, Chính phủ, Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
Sau khi hoàn thành bản Dự thảo, Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đã tổ chức lấy ý kiến góp ý của nhân dân và các ngành, các cấp về dự thảo nghị quyết một cách dân chủ, khoa học, công khai, minh bạch, thực chất, bảo đảm tiến độ, chất lượng và tiết kiệm. Nội dung sửa đổi Hiến pháp 2013 đã được tiến hành lấy ý kiến rộng rãi của người dân thông qua ứng dụng VNeID và trang http://vneid.gov.vn với 5 bước được các cấp chính quyền, Bộ Công an hướng dẫn cụ thể(12). Việc tiếp thu ý kiến được thực hiện công khai. Hai phiên họp toàn thể của Quốc hội trong tháng 5 và 6-2025 đã dành thời lượng lớn để thảo luận, giải trình chi tiết việc tiếp thu các ý kiến đóng góp của các cơ quan, tổ chức và các tầng lớp nhân dân về bản Dự thảo Hiến pháp sửa đổi.
Trên cơ sở kết quả tổng hợp ý kiến của nhân dân và ý kiến của các đại biểu Quốc hội, Ủy ban dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 đã khẩn trương, tổ chức nghiên cứu, tiếp thu, giải trình đầy đủ, kỹ lưỡng để hoàn thiện Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp trình Quốc hội thông qua. Ngày 16-6-2025, với 100% đại biểu có mặt biểu quyết tán thành (470/470 phiếu)(13), Quốc hội đã thông qua Nghị quyết số 203/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Như vậy, quy trình sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 đã tuân thủ chặt chẽ quy định của pháp luật; thể hiện sự thống nhất tuyệt đối; phản ánh sự ủng hộ, đồng thuận trong toàn hệ thống chính trị và các tầng lớp nhân dân về việc sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 2013 tại Việt Nam; là bằng chứng hùng hồn đập tan luận điệu “sửa Hiến pháp là vi hiến” mà các thế lực thù địch, chống đối vẫn rêu rao.
Ba là, quá trình sửa đổi Hiến pháp là sự thống nhất giữa ý Đảng, lòng dân nên không có chuyện “Đảng áp đặt, dân không được biết”.
Thực tiễn đã chứng minh, từ năm 1946 đến nay, Đảng và Nhà nước Việt Nam luôn nhận thức rõ: Lấy ý kiến nhân dân khi sửa đổi Hiến pháp là yêu cầu có tính nguyên tắc của Nhà nước pháp quyền và là biểu hiện sinh động của nền dân chủ XHCN ở Việt Nam. Và trong các lần sửa đổi Hiến pháp kể từ khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa được thành lập tới nay, nhân dân luôn là lực lượng quan trọng, có ý nghĩa quyết định, đóng góp ý kiến xây dựng, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp.
Ngày 03-9-1945, chỉ 1 ngày sau khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, tại phiên họp đầu tiên của Chính phủ, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã xác định một trong sáu nhiệm vụ cấp bách của Chính phủ là xây dựng một bản hiến pháp dân chủ. Ban dự thảo Hiến pháp của Chính phủ lâm thời do Chủ tịch Hồ Chí Minh đứng đầu đã công bố dự thảo rộng rãi để nhân dân cả nước tham gia góp ý. Hàng triệu người dân tích cực đóng góp ý kiến, thể hiện khát vọng về một nhà nước độc lập, dân chủ. Quốc hội khóa I sau đó thành lập Ban dự thảo mới, tổng hợp các ý kiến và hoàn thiện dự thảo, trình Quốc hội thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào ngày 09-11-1946. Đây là minh chứng cho truyền thống dân chủ, tôn trọng quyền làm chủ của nhân dân trong quá trình lập hiến ngay từ buổi đầu độc lập.
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ năm 1954, tình hình cách mạng thay đổi, đòi hỏi phải sửa đổi Hiến pháp năm 1946 cho phù hợp. Quốc hội khóa I đã thành lập Ban dự thảo sửa đổi và đến tháng 7-1958, bản Dự thảo đầu tiên được thảo luận trong đội ngũ cán bộ chủ chốt. Ngày 01-4-1959, Dự thảo được công bố rộng rãi, nhận được sự tham gia góp ý tích cực của nhân dân trong vòng 4 tháng. Ngày 31-12-1959, Quốc hội khóa I thông qua bản Hiến pháp sửa đổi và ngày 01-01-1960, Chủ tịch Hồ Chí Minh ký Sắc lệnh công bố chính thức Hiến pháp mới.
Sau khi đất nước hoàn toàn thống nhất năm 1975, cả nước bước vào giai đoạn quá độ lên CNXH. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, Quốc hội đã tổ chức dự thảo bản Hiến pháp mới, tiếp thu ý kiến của các cơ quan, tổ chức chính trị - xã hội, đặc biệt là trong giới cán bộ, đảng viên, trí thức. Bản dự thảo Hiến pháp đã được thảo luận kỹ lưỡng trước khi Quốc hội khóa VI thông qua ngày 18-12-1980; trong đó xác định rõ bản chất giai cấp của Nhà nước ta là nhà nước chuyên chính vô sản, có sứ mệnh lịch sử là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, động viên và tổ chức nhân dân xây dựng thắng lợi CNXH, tiến lên chủ nghĩa cộng sản.
Trước yêu cầu đổi mới toàn diện đất nước theo tinh thần Đại hội VI của Đảng, Quốc hội khóa VIII đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1980. Ủy ban sửa đổi Hiến pháp đã họp nhiều phiên và thông qua toàn văn Dự thảo Hiến pháp sửa đổi. Đầu năm 1992, bản Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1980 đã được đưa ra trưng cầu ý kiến nhân dân. Sau nhiều ngày thảo luận sôi nổi với những bổ sung, chỉnh lý nhất định, ngày 15-4-1992, Quốc hội đã nhất trí thông qua Hiến pháp năm 1992. Điểm mới của Hiến pháp năm 1992 là nhấn mạnh quyền con người, quyền công dân và bổ sung quy định về kiểm soát quyền lực nhà nước, nhằm bảo đảm các cơ quan nhà nước thực thi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn theo Hiến pháp và pháp luật.
Trong bối cảnh tiếp tục đổi mới và hội nhập quốc tế sâu rộng, Quốc hội khóa XIII đã tiến hành sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Từ tháng 1 đến tháng 3-2013, hơn 28.000 hội nghị, tọa đàm được tổ chức, tiếp nhận hơn 26 triệu lượt ý kiến góp ý từ nhân dân cả nước(14). Dự thảo được công bố rộng rãi trên các phương tiện truyền thông đại chúng. Sau quá trình tiếp thu, chỉnh lý nghiêm túc, ngày 28-11-2013, Quốc hội đã thông qua bản Hiến pháp sửa đổi, thể hiện rõ hơn quyền con người, quyền công dân và xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.
Đối với sửa đổi Hiến pháp năm 2013, sau một tháng tổ chức lấy ý kiến (từ ngày 06-5-2025 đến ngày 05-6-2025), đã có hơn 280 triệu lượt ý kiến góp ý thông qua các hình thức trực tiếp, hội nghị, khảo sát, đặc biệt là qua ứng dụng VNeID - điều chưa từng có trong lịch sử pháp lý Việt Nam, với tỷ lệ tán thành là 99,75%(15). Bên cạnh đó, các đợt tuyên truyền, hội thảo, tọa đàm được tổ chức từ Trung ương tới cơ sở, các chuyên mục phổ biến dự thảo sửa đổi được đăng tải trên các phương tiện truyền thông. Các cơ quan dân cử ở địa phương, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội đều tổ chức tiếp xúc cử tri, hội nghị góp ý kiến.
Rõ ràng, trong các lần sửa đổi Hiến pháp tại Việt Nam, nhân dân là lực lượng đông đảo, tích cực đóng góp ý kiến vào các nội dung sửa đổi. Lấy ý kiến nhân dân là biểu hiện sinh động của nền dân chủ thực chất; không phải là dân chủ hình thức như các thế lực thù địch tuyên truyền, mà là nguyên tắc thiết yếu bảo đảm Hiến pháp có sức sống, có tính đại diện và được thực thi hiệu quả trong đời sống xã hội. Thực hiện đầy đủ, công khai và rộng rãi việc lấy ý kiến nhân dân cũng là một minh chứng bác bỏ các luận điệu xuyên tạc về thiếu dân chủ trong quá trình sửa đổi Hiến pháp tại Việt Nam.
Đồng thời, luận điệu của các thế lực phản động, chống đối cho rằng: việc lấy ý kiến nhân dân “chỉ là hình thức” không chỉ phủ nhận nỗ lực của cả hệ thống chính trị, mà còn xúc phạm hàng chục triệu người dân đã nghiêm túc tham gia đóng góp ý kiến. Những nội dung được sửa đổi trong Hiến pháp lần này như: vai trò của Mặt trận, quyền đại diện của Công đoàn, tổ chức lại mô hình chính quyền địa phương… đều là kết quả tiếp thu ý kiến nhân dân, ý kiến chuyên gia, của các đoàn thể và địa phương. Các phiên thảo luận tại Quốc hội thể hiện rõ sự cầu thị và trách nhiệm lập pháp. Không có bản dự thảo nào được Quốc hội thông qua mà không qua chỉnh lý, giải trình, đối thoại. Việc 100% đại biểu biểu quyết thông qua bản Dự thảo không phải là sự “đồng thuận ép buộc” như các thế lực thù địch xuyên tạc, mà là biểu hiện của một quy trình dân chủ chặt chẽ, có sự đồng thuận, nhất trí cao từ cấp cơ sở đến trung ương.
3. Kết luận
Thực tiễn đã chứng minh, việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 tại Việt Nam là kết quả của một quá trình chuẩn bị nghiêm túc, minh bạch, dân chủ, với sự tham gia của các tầng lớp nhân dân, được thực hiện đúng pháp luật, vì mục tiêu xây dựng một Nhà nước kiến tạo, pháp quyền và phục vụ. Những luận điệu sai trái mà các tổ chức thù địch, chống phá rêu rao về việc sửa đổi Hiến pháp năm 2013 không chỉ đi ngược lại thực tế khách quan, mà còn chứa đựng dụng ý chính trị đen tối, nhằm gây mất lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, kích động gây chia rẽ, làm mất ổn định chính trị - xã hội ở Việt Nam, hòng xóa bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Vì vậy, các cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân cần không ngừng nâng cao nhận thức, bản lĩnh và ý chí để nhận diện và đấu tranh, phản bác các luận điệu xuyên tạc của các thế lực chống đối, thù địch về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 ở Việt Nam, đồng thời chủ động tham gia xây dựng pháp luật, góp phần củng cố nền tảng dân chủ, pháp quyền và phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới.
_________________
Email tác giả: doquyen.hcma@gmail.com
Ngày nhận bài: 4-7-2025; Ngày bình duyệt: 15-7-2025; Ngày duyệt đăng: 18-8-2025.
(1), (9) Quốc hội: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 28-11-2013 .
(2) GS, TS Tô Lâm: Văn kiện Đại hội XIV của Đảng góp phần bổ sung, hoàn thiện đường lối đổi mới và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của nước ta trong thời đại mới, https://www.tapchicongsan.org.vn, 13-08-2024.
(3), 4), (5) Quốc hội: Nghị quyết số 203/2025/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, 16-6-2025.
(6) Mỹ đã trải qua 27 lần sửa Hiến pháp trong 255 năm lịch sử lập hiến; Pháp trải quả 24 lần sửa Hiến pháp kể từ năm 1789; Nga trải qua 4 lần sửa đổi Hiến pháp, trong đó lần sửa đổi năm 2020 có tới 206 điểm sửa đổi.
(7) Thành Chung: Sau sáp nhập, Việt Nam hiện có bao nhiêu đơn vị cấp huyện, xã?, https://tuoitre.vn, 22-02-2025.
(8) Vương Trần: Đưa bộ máy cấp tỉnh, cấp xã sau sáp nhập trên toàn quốc hoạt động từ 1-7, https://laodong.vn, 13-06-2025.
(10) Lan Hương, Vũ Hiếu, Cao Hoàng, Thế Anh: 100% đại biểu tham gia biểu quyết tán thành, Quốc hội thông qua Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, Cổng Thông tin điện tử Quốc hội, https://quochoi.vn, 16-06-2025.
(11) Các tài liệu bao gồm: Kế hoạch số 05/KH-UBDTSĐBSHP ngày 5-5-2025 của Ủy ban Dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 về tổ chức lấy ý kiến nhân dân, các ngành, các cấp về dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Dự thảo Nghị quyết sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013; Bản thuyết minh về dự thảo Nghị quyết; Bản so sánh các nội dung dự kiến sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013 với quy định hiện hành của Hiến pháp.
(12) Thông tấn xã Việt Nam: Hướng dẫn chi tiết 5 bước lấy ý kiến nhân dân sửa đổi Hiến pháp năm 2013 trên VneID, https://dhtn.ttxvn.org.vn, 19-05-2025.
(13), (15) Thành Luân: Quốc hội thông qua Nghị quyết của Quốc hội sửa đổi, bổ sung một số điều của Hiến pháp năm 2013, https://bocongan.gov.vn, 16-06-2025.
(14) Phúc Hằng: Báo cáo giải trình, tiếp thu ý kiến sửa đổi Hiến pháp, https://www.baoquangbinh.vn, 21-05-2013.