Bối cảnh trong nước và quốc tế ảnh hưởng đến phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ
(LLCT) - Đông Nam Bộ là vùng kinh tế trọng điểm, có vị trí đặc biệt quan trọng, là một cực tăng trưởng, đầu tàu mũi nhọn, có đóng góp lớn trong tiến trình phát triển đất nước. Tuy nhiên, gần đây, tốc độ tăng trưởng của vùng có dấu hiệu chững lại. Một trong những nguyên nhân chủ yếu là việc phát triển liên kết kinh tế - xã hội của vùng còn hạn chế, bất cập, thiếu đồng bộ. Để đưa ra những giải pháp hữu hiệu khắc phục tình trạng đó, trước hết cần nhận thức rõ bối cảnh trong nước và quốc tế đang ảnh hưởng đến vấn đề phát triển liên kết kinh tế - xã hội của vùng hiện nay.
TS HOÀNG THỊ KIM OANH
PGS, TS VŨ THỊ THANH XUÂN
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

1. Mở đầu
Vùng Đông Nam Bộ trước ngày 01-7-2025 gồm 6 tỉnh: Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước và Tây Ninh. Hiện nay, vùng được tái cấu trúc thành 3 tỉnh, thành mới là Thành phố Hồ Chí Minh (bao gồm Bà Rịa - Vũng Tàu và Bình Dương), Đồng Nai (bao gồm Bình Phước) và Tây Ninh (bao gồm Long An). Đây là vùng kinh tế đặc biệt năng động, có vị trí thuận lợi, hội tụ nhiều tiềm năng, lợi thế phát triển về công nghiệp, dịch vụ, thương mại, cảng biển, du lịch,…
Đây cũng là một khu vực kinh tế trọng điểm, có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, đóng vai trò đầu tàu trong phát triển kinh tế - xã hội của nước ta. Do đó, nhiều năm qua, Đảng ta rất coi trọng vấn đề phát triển vùng Đông Nam Bộ, đặc biệt là thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng theo hướng đẩy mạnh hợp tác, liên kết, phát huy mạnh mẽ mọi tiềm năng và lợi thế của các tỉnh thành, địa phương, bảo đảm sự gắn kết phát triển cân đối, bền vững của cả vùng; nhanh chóng đưa vùng trở thành trung tâm kinh tế, tài chính, thương mại, dịch vụ, công nghệ cao… của đất nước và khu vực Đông Nam Á, thực sự là đầu tàu mũi nhọn, dẫn dắt, thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển bứt phá; kết hợp cùng các vùng kinh tế trong cả nước nâng tầm vị thế phát triển của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.
Để hiện thực hóa những mục tiêu đó, thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng cần có sự phối kết hợp của nhiều cấp, ngành và nhất là sự nỗ lực, tích cực hợp tác, chủ động phối hợp hành động của các tỉnh thành, địa phương trong vùng. Trong đó, trước hết cần hiểu rõ bối cảnh tình hình quốc tế và trong nước hiện nay đang có những tác động, ảnh hưởng đến quá trình phát triển chung của cả vùng cũng như tác động đến vấn đề thực hiện phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ. Từ đó hoạch định và tổ chức triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách liên kết phát triển kinh tế – xã hội vùng trong thực tiễn.
2. Nội dung
2.1. Về bối cảnh quốc tế
Thứ nhất, tiến trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế tiếp tục mở rộng, tác động nhiều chiều đến quá trình thực hiện phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ.
Ở chiều tích cực, toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế mở ra những cơ hội lớn cho các địa phương vùng Đông Nam Bộ tiếp nhận những cơ hội, nguồn lực quan trọng cho thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội như: Tạo ra thị trường rộng lớn hơn, gia tăng cơ hội thu hút đầu tư nước ngoài cho xây dựng, phát triển kết cấu hạ tầng, mở rộng, phát triển, kết nối các khu công nghiệp, chế xuất lớn của vùng; Gia tăng cơ hội để các tỉnh, thành, địa phương trong vùng thông thương, liên kết quảng bá, tiêu thụ, xuất khẩu các sản phẩm hàng hóa, dịch vụ; Giúp các địa phương có cơ hội cùng tham gia sâu hơn, hiệu quả hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu; tiếp cận chuyển giao, ứng dụng các thành tựu phát triển khoa học công nghệ tiên tiến, hiện đại thúc đẩy phát triển sản xuất kinh doanh, nâng cao chất lượng, giá trị sản phẩm, thương hiệu; Chia sẻ, học tập kinh nghiệm phát triển các mô hình kinh tế tiến bộ, văn minh, hiện đại, như kinh tế số, kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế chia sẻ,…
Đặc biệt, thông qua tiến trình hội nhập, các tỉnh, thành, địa phương trong vùng có thể tham khảo, học hỏi, cùng chia sẻ kinh nghiệm từ các quốc gia phát triển cách thức hợp tác, điều phối, liên kết phát triển kinh tế - xã hội bền vững của vùng, để có thể khai thác, phát huy được tối đa những tiềm năng, lợi thế của mỗi địa phương, cũng như sức mạnh tổng hợp của cả vùng, khắc phục những hạn chế, bất cập trong thực hiện liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng hiện nay.
Tiến trình hội nhập quốc tế cũng tiếp tục tạo cơ hội cho những doanh nghiệp, tập đoàn quốc tế vốn có nhiều lợi thế về nguồn vốn, trình độ, kinh nghiệm tổ chức, quản lý,… gia tăng mở rộng đầu tư, phát triển sản xuất, chiếm lĩnh thị trường, thị phần trong vùng Đông Nam Bộ; khai thác, sử dụng nhiều nguồn lực sẵn có dẫn đến nguy cơ bị xói mòn, cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên đa dạng, phong phú của vùng; cạnh tranh khai thác, tận dụng nguồn nhân công giá rẻ, gây khó khăn cho nhiều doanh nghiệp, tập đoàn kinh tế trong vùng...
Đi đôi với đó là hàng loạt những vấn đề bất ổn, nguy cơ mất an toàn về an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh năng lượng,… đe dọa đời sống người dân trong vùng. Đặc biệt, các địa phương vùng Đông Nam Bộ không chỉ phải đối diện với nguy cơ tài nguyên thiên nhiên bị khai thác kiệt quệ, mà còn phải hứng chịu những hệ lụy về ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu... ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương, cũng như hiệu quả thực hiện các mục tiêu phát triển liên kết kinh tế - xã hội bền vững vùng Đông Nam Bộ.
Bên cạnh đó, quá trình hội nhập cũng dễ khiến các doanh nghiệp có nguy cơ phải hứng chịu nhiều rủi ro, bị áp đặt, chèn ép, đối xử bất công, bất bình đẳng trong các mối quan hệ hợp tác kinh tế quốc tế, có thể phải hứng chịu thua thiệt, tổn thất, khó trụ vững trong môi trường cạnh tranh khu vực và toàn cầu. Thậm chí, nguy hại và nghiêm trọng hơn, nếu không cẩn trọng có thể bị “mắc bẫy”, bị đánh đổi tài nguyên, an ninh, chủ quyền lãnh thổ, … khi thực hiện các dự án hợp tác, liên kết quốc tế.
Ngoài ra, quá trình hội nhập cũng làm nảy sinh, gia tăng nhiều vấn đề xã hội phức tạp, tạo thêm gánh nặng cho các tỉnh thành trong vùng khi xử lý, giải quyết, ảnh hưởng đến quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng.
Thứ hai, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư diễn ra mạnh mẽ trên phạm vi toàn cầu, ảnh hưởng đến mọi mặt đời sống xã hội các tỉnh vùng Đông Nam Bộ, đồng thời tác động không nhỏ đến việc thực hiện phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang tạo điều kiện cho các tình thành vùng Đông Nam Bộ cơ hội thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh, ứng dụng khoa học, công nghệ tiên tiến, hiện đại để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm hàng hóa, dịch vụ,… Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng giúp các tỉnh thành trong vùng có thể khai thác tốt hơn những tiềm năng, lợi thế cho phát triển kinh tế - xã hội theo những mục tiêu đề ra.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư sẽ giúp các tình thành vùng Đông Nam Bộ có thể tăng cường kết nối, chia sẻ thông tin, gắn kết, thiết lập mạng lưới sản xuất, kinh doanh, quảng bá, tiêu thụ sản phẩm, hỗ trợ nhau cùng phát triển… hoàn thành tốt các mục tiêu phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng.
Cũng nhờ các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các tỉnh thành trong vùng có thể học hỏi, chia sẻ các mô hình, cách thức sản xuất, kinh doanh mới, cách thức quản trị số thông minh, các chương trình phát triển kinh tế hiện đại, như kinh tế tri thức, kinh tế số, thương mại điện tử...; thực hiện liên kết các chuỗi cung ứng, chia sẻ tài nguyên, nhân lực, liên kết, hợp tác trong quản lý khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường, ứng phó với biến đổi khí hậu, thiên tai, dịch bệnh,… giúp bảo đảm mục tiêu phát triển nhanh, bền vững của cả vùng.
Tuy nhiên, cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đưa lại những khó khăn, thách thức, ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã hội vùng cũng như việc triển khai các chính sách liên kết phát triển vùng. Nếu không có kế hoạch và chuẩn bị kỹ lưỡng, các tỉnh thành trong vùng rất khó bắt kịp, thích ứng với tốc độ thay đổi, phát triển không ngừng của trình độ khoa học kỹ thuật, công nghệ mới.
Cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng dễ khiến khoảng cách chênh lệch phát triển giữa các tỉnh thành trong vùng có nguy cơ gia tăng. Với thành phố lớn như Thành phố Hồ Chí Minh có thể thuận lợi hơn trong tiếp cận, chuyển giao, ứng dụng các thành tựu phát triển khoa học công nghệ hiện đại và có sự phát triển mạnh mẽ hơn. Ngược lại, những tỉnh thành có trình độ nguồn nhân lực, hạ tầng… còn hạn chế, không thích ứng kịp với trình độ khoa học công nghệ mới có thể bị tụt hậu xa hơn, không thể phát triển. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư cũng đặt ra yêu cầu, đòi hỏi các tỉnh thành trong vùng phải nhanh nhạy đổi mới, ứng dụng khoa học công nghệ, chuyển đổi số trong liên kết, hợp tác phát triển kinh tế - xã hội vùng. Song, thực tế sẽ có nhiều vấn đề bất cập nảy sinh do sự khác biệt về điều kiện kinh tế, kết cấu hạ tầng, trình độ nguồn nhân lực của các tỉnh thành trong vùng,
Thứ ba, những biến động của tình hình chính trị thế giới và hệ lụy từ những cuộc cạnh tranh, xung đột kinh tế, chính trị, quân sự ngày càng gay gắt giữa các nước lớn với nhiều biểu hiện mới, phức tạp, ảnh hưởng mạnh mẽ đến quá trình triển khai thực hiện các chính sách liên kết phát triển kinh tế - xã hội của vùng.
Bối cảnh tình hình chính trị thế giới hiện nay đang diễn biến rất phức tạp. Trung Quốc và nhiều cường quốc tầm trung đang nỗ lực gia tăng tầm ảnh hưởng, làm cho thế giới đang từ đơn cực do Mỹ dẫn đầu chi phối, dẫn dắt có xu hướng chuyển dần sang đa cực, đa trung tâm với hai siêu cường là Mỹ, Trung Quốc và nhiều cường quốc lớn khác như Nhật Bản, Nga, Ấn Độ,… cũng muốn tham gia chia sẻ quyền lực và định hình lại trật tự toàn cầu.
Đặc biệt, Trung Quốc đang tìm mọi cách để chiếm lấy vị trí số một thế giới. Dự báo trong nhiều thập niên tới, cuộc cạnh tranh chiến lược này vẫn sẽ tiếp tục có nhiều biến động sâu sắc, khó lường, thậm chí có thể làm thay đổi cục diện thế giới, ảnh hưởng lớn đến tình hình an ninh chính trị thế giới và mọi quốc gia.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam nói chung, vùng Đông Nam Bộ nói riêng sẽ có nguy cơ phải chịu nhiều sức ép, nếu không cẩn trọng thì dễ bị cuốn vào vòng xoáy đua tranh của các nước lớn, bị “vạ lây” và phải hứng chịu những tổn thất, thiệt hại không mong muốn.
Tình hình địa chính trị thế giới đầy bất ổn và vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp như vậy sẽ khiến việc tìm kiếm các cơ hội từ hội nhập cho thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng gặp nhiều khó khăn.
Hơn thế, trong nhiệm kỳ nắm quyền của Tổng thống Donald Trump hiện nay với chính sách ưu tiên bảo hộ lợi ích tối cao của nước Mỹ sẽ đem đến cả “nguy” và “cơ” lớn đối với Việt Nam nói chung và vùng Đông Nam Bộ nói riêng. Chẳng hạn như vùng Đông Nam Bộ có cơ hội lớn để thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội khi nhiều công ty nước ngoài gia tăng đầu tư, mở chi nhánh, trụ sở, chuyển dịch sản xuất, kinh doanh sang các khu công nghiệp lớn ở các tỉnh Đông Nam Bộ; Hay, mức thuế đối ứng của Việt Nam hiện thấp hơn nhiều quốc gia trong khu vực cũng là lợi thế cạnh tranh, tạo cơ hội để các tỉnh thành trong vùng chớp thời cơ liên kết gia tăng xuất khẩu, mở rộng thị trường, gia tăng thị phần tại Mỹ…
Tuy nhiên, vùng Đông Nam bộ cũng là địa bàn chịu nhiều tác động từ các chính sách bảo hộ kinh tế Mỹ, gia tăng thuế suất khiến cho việc thực hiện các chính sách liên kết phát triển kinh tế – xã hội vùng có thể khó khăn hơn như: nguy cơ bị áp đặt tăng thuế quan; bị giám sát hoặc hạn chế các mặt hàng xuất khẩu nhằm giảm thâm hụt thương mại với Mỹ hoặc ngăn chặn gian lận thương mại từ phía Trung Quốc qua Việt Nam; bị đặt ra những yêu cầu cao về tiêu chuẩn lao động và bảo vệ môi trường đối với các sản phẩm của Việt Nam...
Đặc biệt, nếu không kiểm soát được nguồn gốc, xuất xứ hàng hóa, phụ kiện… từ Trung Quốc, các doanh nghiệp trong vùng sẽ phải hứng chịu những tổn thất, thiệt hại nặng nề, ảnh hưởng xấu đến tiến trình phát triển chung cũng như việc thực hiện mục tiêu phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ.
Ngoài ra, hiện nay thế giới cũng đang gia tăng các cuộc chiến tranh, xung đột lợi ích, tôn giáo, sắc tộc, thậm chí có nguy cơ xảy ra chiến tranh thế giới nếu có thêm nhiều quốc gia tham gia, hoặc các bên thiếu kiềm chế và không tuân thủ luật pháp quốc tế.
Trong khu vực, tình hình Biển Đông vẫn tiếp tục diễn biến phức tạp và tiềm ẩn những nguy cơ gia tăng xung đột, leo thang căng thẳng. Thêm nữa, những căng thẳng, xung đột chính trị gia tăng giữa các nước trong khu vực như Thái Lan-Campuchia… cũng ảnh hưởng không nhỏ đến tiến trình phát triển các tỉnh Đông Nam Bộ.
Những bất ổn về tình hình chính trị thế giới, căng thăng trên Biển Đông… có thể dẫn đến nguy cơ đứt gãy chuỗi thương mại trong mạng lưới kinh tế khu vực và toàn cầu, gây khó khăn trực tiếp đến việc thực hiện các chính sách liên kết, thúc đẩy phát triển kinh tế – xã hội các tỉnh thành vùng Đông Nam Bộ.
Thứ tư, nền kinh tế thế giới hiện nay vẫn chưa hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng khủng hoảng thời kỳ hậu Covid với nhiều khó khăn, bất ổn, rủi ro, đồng thời tiềm ẩn nguy cơ gia tăng khủng hoảng, suy thoái kinh tế ở nhiều quốc gia bởi thiên tai, dịch bệnh, chiến tranh, bạo động, xung đột,...
Hơn thế, nhiều quốc gia đang có xu hướng gia tăng bảo hộ thương mại, bảo vệ lợi ích quốc gia nên sẽ cân nhắc, dè dặt, cẩn trọng hơn khi thực hiện các chương trình, dự án đầu tư, hợp tác, hỗ trợ các nước khác. Điều này sẽ gây những khó khăn, bất lợi không nhỏ cho các tỉnh vùng Đông Nam Bộ khi huy động các nguồn lực quốc tế để thực hiện các mục tiêu phát triển liên kết kinh tế - xã hội của vùng.
Trong bối cảnh nền kinh tế toàn cầu còn nhiều khó khăn, suy thoái, bất ổn, vì mục tiêu lợi nhuận, nhiều quốc gia chỉ muốn hợp tác, đầu tư vào một số tỉnh thành có tiềm năng, lợi thế phát triển, dễ thu được lợi ích kinh tế. Hoặc, bản thân một số tỉnh thành, địa phương trong vùng cũng muốn tranh thủ chớp cơ hội hợp tác quốc tế để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội địa phương mình mà bỏ qua mục tiêu, nhiệm vụ phát triển liên kết kinh tế - xã hội bền vững chung của cả vùng. Điều này sẽ ảnh hưởng bất lợi cho việc thực hiện các mục tiêu liên kết, điều phối phát triển kinh tế – xã hội bền vững chung của cả vùng Đông Nam Bộ.
2.2. Về bối cảnh trong nước
Bối cảnh trong nước hiện nay cũng đang có cả những thuận lợi và khó khăn, tác động đến việc thực hiện thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế – xã hội vùng Đông Nam Bộ.
Trước hết là những thuận lợi lớn: Đất nước đang trong giai đoạn phát triển mạnh mẽ, tạo được thế và lực mới trong tiến trình phát triển. Qua gần 40 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt nhiều thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, đất nước giữ vững độc lập chủ quyền, bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định; nền kinh tế duy trì được đà tăng trưởng tốt kể cả trong khủng hoảng toàn cầu; cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế của Việt Nam ngày càng được khẳng định, củng cố và nâng cao.
Năm 2023, quy mô nền kinh tế Việt Nam đạt 430 tỷ USD (tăng gấp 96 lần so với năm 1986). Việt Nam đã được xếp hạng thuộc nhóm 40 nước có nền kinh tế lớn nhất thế giới và 20 nền kinh tế hàng đầu về thương mại và thu hút đầu tư nước ngoài với mức tăng trưởng kinh tế tăng đều trong nhiều năm và cao so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Đời sống của các tầng lớp nhân dân được cải thiện rõ rệt với GDP bình quân đầu người tăng lên 4.300 USD (tăng 58 lần so với những năm đầu đổi mới).
Năm 2024 Việt Nam vẫn tiếp tục duy trì đà tăng trưởng trên 7%, qui mô nền kinh tế đạt trên 476 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người khoảng 4.700 USD(1). Tiềm lực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học - công nghệ, quốc phòng, an ninh… không ngừng được nâng cao.
Những thành tựu phát triển đất nước đang tạo những tiền đề thuận lợi cho vùng Đông Nam Bộ thiết lập các quan hệ hợp tác toàn cầu, tìm kiếm, khai thác được nhiều hơn các cơ hội, nguồn lực cho thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng, đồng thời giúp củng cố niềm tin của nhân dân các tỉnh, thành đối với Đảng, Nhà nước và công cuộc xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, cũng như chủ trương liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ hướng đến mục tiêu phát triển bền vững chung của cả vùng.
Vùng Đông Nam Bộ, với đặc thù các tỉnh có nhiều tiềm năng, lợi thế vượt trội cho phát triển kinh tế, đồng thời có nguồn nhân lực chất lượng, năng động, nhiệt huyết, sáng tạo,… cho nên, những năm qua các địa phương trong vùng cũng đạt nhiều thành tựu phát triển kinh tế - xã hội, là khu vực có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao nhất cả nước, đóng góp lớn vào tiến trình phát triển giàu mạnh của đất nước. Chỉ tính riêng năm 2024, tổng thu ngân sách của cả vùng đã đạt hơn 733.000 tỷ đồng, chiếm 42,2% tổng thu quốc gia, đóng góp hơn 30% GDP cả nước; thu nhập bình quân đầu người đạt trên 7.500 USD/năm, cao hơn nhiều mức thu nhập trung bình cả nước(2).… Đây chính là lợi thế giúp vùng dễ thu hút thêm nhiều hạng mục đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, du lịch… Đồng thời, tạo tiền đề thuận lợi cho vùng thực hiện các mục tiêu phát triển liên kết kinh tế - xã hội bền vững. Đặc biệt, việc thực hiện chủ trương đổi mới, sáp nhập, sắp xếp tổ chức bộ máy hành chính các tỉnh thành vừa qua đã giúp vùng có thêm lợi thế về hạ tầng, tiềm lực kinh tế, nguồn nhân lực, bộ máy tinh gọn,… để có thể thúc đẩy các chương trình, kế hoạch, mô hình phát triển liên kết kinh tế - xã hội mới hiệu quả hơn.
Tuy nhiên, bối cảnh trong nước và nhất là tình hình thực tế tại các địa phương trong vùng hiện đang có nhiều vấn đề gây khó khăn cho việc thực hiện các chính sách liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng.
Mặc dù được ghi nhận có tốc độ tăng trưởng khá cao so với nhiều nước trong khu vực song tăng trưởng của Việt Nam nói chung, các tỉnh vùng Đông Nam Bộ nói riêng nhìn chung vẫn thiếu tính bền vững. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu vẫn dựa vào tăng vốn đầu tư, nhất là vốn đầu tư nước ngoài, cùng với khai thác tài nguyên sẵn có và sử dụng lao động giá rẻ; hàm lượng khoa học công nghệ trong sản xuất chưa cao, chủ yếu mới chỉ gia công, lắp ráp, phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu nguyên liệu do chưa có ngành công nghiệp phụ trợ đủ mạnh...
Nhiều tiềm năng, thế mạnh phát triển của vùng (tiềm năng về công nghiệp chế tạo, chế biến, nông nghiệp công nghệ cao, kinh tế du lịch sinh thái kết hợp khai thác các giá trị di sản văn hóa, ngành logistics,…) chưa được khai thác, phát huy tối đa. Năng suất lao động và hiệu quả sử dụng vốn nhìn chung còn thấp so với nhiều nước. Chất lượng nguồn nhân lực và trình độ ứng dụng khoa học, công nghệ cao trong sản xuất vẫn còn nhiều hạn chế.
Việc khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và gắn với bảo vệ môi trường trong phát triển kinh tế; việc triển khai thực hiện các mô hình phát triển kinh tế bền vững, hiện đại như kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số… còn những hạn chế, bất cập; việc ứng phó, thích ứng với biến đổi khí hậu toàn cầu còn chậm, bị động, chưa hiệu quả,…
Bên cạnh đó, tình hình trật tự an toàn, an ninh xã hội ở nhiều địa phương đang tiềm ẩn những nguy cơ bất an, bất ổn và tiếp tục có những diễn biến phức tạp; tệ nạn xã hội, tình trạng lừa đảo trên không gian mạng qua ứng dụng AI, tình trạng buôn người qua biên giới có xu hướng gia tăng nghiêm trọng,… Các thách thức từ những vấn đề an ninh phi truyền thống toàn cầu có chiều hướng gia tăng phức tạp, nan giải. Những hiểm họa, nguy cơ về thiên tai, dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, biến đổi khí hậu, cạn kiệt tài nguyên,… vẫn đang hiện hữu và ngày càng gia tăng mức độ nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến các tỉnh vùng Đông Nam Bộ. Tác động của bối cảnh hậu Covid vẫn nặng nề, ảnh hưởng lớn đến các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nước và đời sống của nhiều bộ phận nhân dân, cũng như hiệu quả triển khai các chính sách thúc đẩy liên kết phát triển kinh tế - xã hội chung của cả vùng.
Liên quan trực tiếp đến việc thực hiện liên kết phát triển kinh tế - xã hội của vùng, thực tế đang còn nhiều khó khăn, thách thức, vướng mắc như: Thứ nhất, các chính sách và cơ chế điều phối, phân bổ các nguồn lực cũng như những hướng dẫn cụ thể trong thực hiện liên kết phát triển kinh tế – xã hội vùng chưa thực sự rõ ràng, đầy đủ khiến cho các địa phương trong vùng còn lúng túng trong tổ chức triển khai thực hiện liên kết phát triển kinh tế – xã hội; Thứ hai, các địa phương trong vùng cũng chưa nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng và thực sự chủ động, tích cực, nỗ lực hợp tác, phối kết hợp hiệu quả trong thực hiện các chính sách liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng. Chủ yếu vẫn chú trọng tập trung đầu tư phát triển địa phương, tỉnh mình, thậm chí còn tìm cách tranh thủ lợi thế để thu hút đầu tư, lôi kéo nguồn nhân lực của địa phương khác… thực hiện cạnh tranh cục bộ chưa thực sự lành mạnh trong chính các địa phương của vùng, khiến cho sự chênh lệch phát triển giữa các tỉnh càng gia tăng. Thứ ba, việc hợp tác giữa các địa phương trong giải quyết các điểm nghẽn phát triển, phối hợp, liên kết khai thác các nguồn lực, phát triển nguồn nhân lực, điều tiết, liên kết phát triển các ngành, lĩnh vực thế mạnh của mỗi địa phương trong một chiến lược phát triển chung của vùng còn hạn chế, dẫn đến tình trạng mạnh ai nấy chạy, hoặc tình trạng có ngành, lĩnh vực tỉnh nào cũng đầu tư, cũng làm, nhưng có lĩnh vực lại không địa phương nào làm, gây lãng phí, chồng chéo, xung đột trong quá trình thực hiện các chính sách phát triển bền vững chung của vùng; Thứ tư, sự phối hợp giữa các địa phương của vùng trong liên kết đầu tư phát triển hạ tầng, kết nối hạ tầng giao thông, thực hiện chuyển đổi số, hợp tác đào tạo nguồn nhân lực, ứng phó với biến đổi khí hậu, ngăn chặn khai thác tài nguyên, bảo vệ môi trường,… cũng còn những bất cập, hạn chế và nhìn chung vẫn dừng ở phạm vi mỗi tỉnh thành, ảnh hưởng tiêu cực đến hiệu quả thực hiện mục tiêu phát triển bền vững chung của cả vùng.
3. Kết luận
Liên kết phát triển kinh tế - xã hội vùng Đông Nam Bộ là yêu cầu, nhiệm vụ cấp thiết của tiến trình phát triển tăng tốc bền vững vùng Đông Nam Bộ. Tuy nhiên, bối cảnh quốc tế và trong nước đang có những biến đổi phức tạp, tác động lớn đến việc thực hiện chính sách phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng. Điều đó đòi hỏi các cấp ngành và trực tiếp là các địa phương trong vùng phải nghiêm túc nhìn nhận để có biện pháp ứng phó, xử lý và đưa ra những giải pháp tối ưu thúc đẩy phát triển liên kết kinh tế - xã hội vùng một cách hiệu quả, giúp khai thác được mọi tiềm năng, thế mạnh của mỗi địa phương, đồng thời góp phần thúc đẩy tiến trình phát triển bền vững chung toàn vùng tương xứng với tiềm lực và vị thế đầu tàu phát triển năng động của vùng, tiếp tục đóng góp tích cực cho công cuộc xây dựng, phát triển đất nước ngày càng giàu mạnh, phồn vinh, hạnh phúc, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội.
_________________
Ngày nhận bài: 16-8-2025; Ngày bình duyệt: 22-8-2025; Ngày quyết định đăng: 24-8-2025. Email tác giả: thanhxuan1101@gmail.com.
(1) Báo Nhân dân điện tử: https://special.nhandan.vn/co-do-vi-the-va-uy-tin-quoc-te-cua-Vietnam-khi-buoc-vao-ky-nguyen-vuon-minh/index.html và https://nhandan.vn/gdp-nam-2024-uoc-tinh-tang-709-so-voi-nam-truoc-post854711.html
(2) Thời báo Tài chính, https://thoibaotaichinhvietnam.vn/vung-dong-nam-bo-vung-tin-buoc-vao-ky-nguyen-moi-168843.html