Nghiên cứu lý luận

Tự soi, tự sửa - việc thường xuyên của cán bộ, chiến sĩ công an nhân dân

25/08/2025 15:26

(LLCT) - Bài viết làm rõ quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng ta về “tự soi, tự sửa”, từ đó, tự soi, tự sửa là cách thức cơ bản nhất để phòng, chống tham nhũng, biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong cán bộ, chiến sĩ công an hiện nay; trên cơ sở đó nêu một số giải pháp để cán bộ, chiến sĩ công an làm tốt việc tự soi, tự sửa, góp phần đáp ứng yêu cầu xây dựng lực lượng Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại trong tình hình mới.

ThS HÀ NAM THẮNG
Cục Khoa học, Chiến lược và Lịch sử Công an, Bộ Công an

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CẢNH SÁT NHÂN DÂN
Tự soi, tự sửa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng con người mới XHCN và càng quan trọng hơn đối với mỗi cán bộ, chiến sĩ công an_Ảnh minh họa: IT

1. Mở đầu

Ngày nay, với những tiến bộ vượt bậc, khoa học - công nghệ đã trở thành một thành tố, động lực quan trọng trong sự phát triển của các quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng, song chúng ta đều không thể phủ nhận rằng, yếu tố con người vẫn chiếm vị trí hàng đầu không thể thay thế trong mọi công việc. Nhìn lại lịch sử cách mạng của Đảng, của dân tộc hơn 95 năm qua đều cho thấy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”(1); “Muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”(2). Bởi vì, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ví: “Cán bộ là cái dây chuyền của bộ máy. Nếu dây chuyền không tốt, không chạy thì động cơ dù tốt, dù chạy, toàn bộ máy cũng tê liệt. Cán bộ là những người đem chính sách của Chính phủ, của Đoàn thể thi hành trong nhân dân, nếu cán bộ dở thì chính sách hay cũng không thể thực hiện được”(3).

2. Nội dung

2.1. Quan điểm, chủ trương của Chủ tịch Hồ Chí Minh, Đảng ta về tự soi, tự sửa

Dưới sự lãnh đạo của Đảng, dân tộc ta đã đi từng thắng lợi này đến thắng lợi khác, tiềm lực ngày càng vươn lên mạnh mẽ, nhân dân ngày càng hạnh phúc, ấm no. “Đất nước ta chưa bao giờ có được cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay(4). Tuy nhiên, bên cạnh hầu hết đội ngũ cán bộ thật sự là “đày tớ” của nhân dân, toàn tâm, toàn ý cống hiến trí tuệ và sức lực nhằm thực hiện cho được mục tiêu, lý tưởng của Đảng, thì vẫn còn một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái, tha hóa, biến chất. Hành vi của họ nhẹ thì gây thất thoát tài sản của cơ quan, đơn vị, nặng thì gây thiệt hại lớn cho Nhà nước về kinh tế, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với vai trò lãnh đạo của Đảng. Bộ phận cán bộ suy thoái, tha hóa này ở từng thời kỳ đều có. Trong lực lượng Công an nhân dân cũng có những “con sâu làm rầu nồi canh” như vậy. Đây là một nguy cơ lớn đe dọa đến sự tồn vong của Đảng, mà Đảng cũng đã nhận thức, chỉ ra qua nhiều kỳ đại hội gần đây.

Đảng đã đề ra nhiều cách thức, biện pháp; đặc biệt, trong 5 năm trở lại đây, Trung ương đã ban hành nhiều nghị quyết, chỉ thị, quy định để lãnh đạo, chỉ đạo trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, như: Ban Chấp hành Trung ương ban hành Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 “Về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa””; Quy định số 37-QĐ/TW ngày 25-10-2021 “Về những điều đảng viên không được làm”; Quy định số 22-QĐ/TW ngày 28-7-2021 “Về công tác kiểm tra, giám sát và kỷ luật của Đảng”; Bộ Chính trị ban hành Quy định số 41-QĐ/TW ngày 03-11-2021 “Về việc miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ”; Quy định số 80-QĐ/TW ngày 18-8-2022 “Về phân cấp quản lý cán bộ và bổ nhiệm, giới thiệu cán bộ ứng cử”; Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09-5-2024 “Về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên giai đoạn mới”...

Các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng những năm gần đây vừa có tính bao trùm, vừa có tính cụ thể, định hướng rất rõ cho các cấp ủy đảng và đảng viên thực hiện phù hợp với tính chất, đặc điểm của cơ quan, đơn vị, tổ chức mình và thực sự đã chấn chỉnh một bước lớn về nhận thức chính trị, trách nhiệm với công việc và tác phong, đạo đức, lối sống, văn hóa ứng xử của cán bộ, đảng viên trong thời gian qua. Công cuộc xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã đạt được nhiều kết quả quan trọng, song vẫn cần phải tiếp tục, quyết liệt hơn nữa. Các biện pháp, giải pháp mà Đảng đề ra đã khá cơ bản, đầy đủ, hệ thống, toàn diện. Vấn đề là quá trình tổ chức thực hiện phải bảo đảm nghiêm túc, đồng bộ từ trên xuống dưới, phải đạt được sự nhất trí, đồng lòng trong từng tổ chức đảng và đảng viên, phát huy cao độ nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong Đảng, trong đó đề cao vai trò của cấp ủy và người đứng đầu cấp ủy.

Một trong những vấn đề có ý nghĩa then chốt là “tự soi, tự sửa” của cán bộ, đảng viên bởi vì như trên đã đề cập, “muôn việc thành công hoặc thất bại, đều do cán bộ tốt hoặc kém”, mà để cán bộ thật sự tốt thì phải tốt từ bên trong, chính là phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống. Để đạt được điều đó, bên cạnh việc học tập thật tốt chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước thì cán bộ phải thường xuyên “tự soi, tự sửa”, thường xuyên phải tự cảnh tỉnh, nhắc nhở mình để có nhận thức, hành động chuẩn mực.

Trong tác phẩm Sửa đổi lối làm việc, năm 1947, Người đưa vấn đề “phê bình và sửa chữa” lên hàng đầu và khẳng định: “Cán bộ và đảng viên ta, vì bận việc hành chính hoặc quân sự, mà xao nhãng việc học tập. Đó là một khuyết điểm rất to. Khác nào người thầy thuốc chỉ đi chữa người khác, mà bệnh nặng trong mình thì quên chữa. Từ nay, chúng ta cần phải thiết thực học tập, sửa chữa các khuyết điểm. Vì có tẩy sạch khuyết điểm, công việc mới có thể tiến bộ”(5). Tiếp đó, trên báo Nhân dân ngày 20-5-1951, trong bài Tự phê bình, Bác đã viết: “Tự mình không đánh thắng được khuyết điểm của mình mà muốn đánh thắng kẻ địch, tự mình không cải tạo được mình mà muốn cải tạo xã hội, thì thật là vô lý. Vì vậy, người cách mạng nhất định phải thật thà tự phê bình và kiên quyết sửa chữa khuyết điểm”.

“Tự soi, tự sửa” là mỗi cán bộ, đảng viên phải tự kiểm điểm, tự soi lại mình, cái gì tốt thì phát huy, cái gì khuyết điểm thì tự điều chỉnh, cái gì xấu thì tự gột rửa, tự sửa chữa. “Tự soi, tự sửa” là việc làm của cá nhân tự đánh giá, nhận xét về mình trong cả nhận thức và hành động. Đó là việc đấu tranh quyết liệt với cái tôi của bản thân. Soi đúng thì sẽ sáng hơn, sửa đúng thì sẽ đẹp hơn.

2.2. Những biểu hiện suy thoái trong cán bộ, đảng viên

Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 30-10-2016 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ đã chỉ rõ 27 biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong hệ thống chính trị, đội ngũ cán bộ, đảng viên(6). Đối với lực lượng Công an nhân dân cũng có thể điểm ra một số dấu hiệu suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” vẫn còn xuất hiện đâu đó ở từng thời điểm trong một số đơn vị, bộ phận đảng viên, cán bộ, chiến sĩ, đó là:

Lười học tập lý luận chính trị, nghiên cứu không thấu đáo tư tưởng Hồ Chí Minh, không dành thời gian để cập nhật, nghiên cứu chủ trương, đường lối, nghị quyết, chính sách, pháp luật mới của Đảng, Nhà nước và chỉ đạo của cấp ủy cấp trên, dẫn đến không đủ “vốn liếng” lý luận để phản biện, đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, sai trái của các thế lực thù địch, phản động.

Giảm sút ý chí phấn đấu, làm việc cầm chừng, qua loa, đại khái, thiếu trách nhiệm, không làm tròn chức trách, nhiệm vụ được giao, thậm chí chỉ làm khi có lợi ích.

Không thường xuyên tự phê bình, giấu giếm, không dám nhận khuyết điểm; khi có khuyết điểm thì thiếu thành khẩn, không tự giác nhận kỷ luật. Trong phê bình thì nể nang, né tránh va chạm, thấy đúng không dám bảo vệ, thấy sai không dám đấu tranh; thiếu sự ghi nhận, tôn vinh, ủng hộ nhau.

Nói không đi đôi với làm; nói một đằng, làm một nẻo; hứa nhiều làm ít; nói trong hội nghị khác, nói ngoài hội nghị khác.

Bố trí sử dụng cán bộ theo cảm tính, không khách quan, không đúng năng lực, chuyên môn trình độ đào tạo của cán bộ. Sử dụng quyền lực được giao để phục vụ lợi ích cá nhân hoặc để người thân, người quen lợi dụng chức vụ, quyền hạn của mình để trục lợi.

Sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi; chỉ lo thu vén cá nhân, không quan tâm đến lợi ích tập thể; ganh ghét, đố kỵ, so bì, tị nạnh, không muốn người khác hơn mình. Kê khai tài sản không trung thực.

Vi phạm nguyên tắc tập trung dân chủ, thiếu tinh thần xây dựng đơn vị; đoàn kết xuôi chiều, dân chủ hình thức, cục bộ, bè phái; thiếu dân chủ trong chỉ đạo, điều hành, thậm chí duy ý chí, áp đặt, bảo thủ, chỉ làm theo ý mình; thiếu tinh thần cầu thị, lắng nghe ý kiến trái chiều, tiếp thu ý kiến hợp lý của người khác.

Háo danh, phô trương, thổi phồng thành tích, “đánh bóng” tên tuổi.

Quan liêu, xa rời quần chúng, không sâu sát cơ sở, không nắm chắc tình hình địa phương, cơ quan, đơn vị mình; thờ ơ, vô cảm, thiếu trách nhiệm trước những khó khăn, bức xúc và đòi hỏi chính đáng của nhân dân.

Quyết định hoặc tổ chức thực hiện gây lãng phí, thất thoát tài chính, tài sản, ngân sách nhà nước; mua sắm, sử dụng tài sản công vượt mức quy định. Sử dụng lãng phí nguồn nhân lực, phí phạm thời gian lao động.

Tham ô, tham nhũng, lợi dụng chức vụ, quyền hạn cấu kết với doanh nghiệp, với đối tượng khác để trục lợi.

Những biểu hiện, hành vi nêu trên có thể ví như những tế bào lạ trong một cơ thể lành lặn, nếu cơ thể không kịp thời có chất đề kháng đủ mạnh để tiêu diệt nó thì những tế bào ấy sẽ nhanh chóng phát triển, nhân lên.

Nguyên nhân của những biểu hiện nêu trên có tác động của các yếu tố khách quan từ diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới, khu vực; mặt trái của cơ chế thị trường; thủ đoạn hoạt động nham hiểm của các thế lực thù địch, phản động và các loại tội phạm; nhưng chủ yếu là nguyên nhân chủ quan, như: lãnh đạo, chỉ đạo thiếu quyết liệt, kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, nhất là tự kiểm tra; công tác quản lý, nắm tình hình tư tưởng đảng viên, dư luận xã hội ở đơn vị chưa kịp thời. Người đứng đầu một số ít đơn vị chưa thật sự gương mẫu, nêu gương. Một số ít đảng viên, cán bộ, chiến sĩ chưa chủ động, tích cực trong nghiên cứu, học tập để nâng cao năng lực, kinh nghiệm công tác, thiếu tu dưỡng, rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống(7).

2.3. Giải pháp “tự soi, tự sửa”

Để khắc phục, loại bỏ dần những biểu hiện nêu trên, bên cạnh các giải pháp nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chỉ huy các cấp trong Công an nhân dân làm tốt vấn đề “tự soi, tự sửa” ở mỗi đảng viên, cán bộ, chiến sĩ công an có ý nghĩa tiên quyết, thể hiện ở một số nội dung sau:

Thứ nhất, tự soi, tự sửa về nhận thức chính trị, lập trường tư tưởng

Trong mỗi con người, nhận thức chính trị, lập trường tư tưởng được ví như đầu tàu trong một đoàn tàu, sẽ quyết định đích đến của con người đó. Cán bộ chiến sĩ công an vừa là công dân của một đất nước XHCN do Đảng Cộng sản lãnh đạo, hơn nữa lại là thành viên của lực lượng chuyên chính vô sản, “thanh bảo kiếm” sắc bén của Đảng, thì càng phải có lập trường chính trị, tư tưởng rõ ràng, đó là tuyệt đối tin tưởng và thực hành chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tin tưởng vào mục tiêu, lý tưởng, chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an. Muốn vậy, từng đảng viên, cán bộ chiến sĩ công an phải có ý thức thường xuyên tự nghiên cứu, trau dồi, nâng cao trình độ lý luận về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh để ngày càng tin tưởng, coi đó là “kim chỉ nam” cho tư duy và hành động của mình; có đủ khả năng để nhận diện và phản bác các quan điểm sai trái của các thế lực thù địch, phản động, các âm mưu phá hoại nền tảng tư tưởng, vai trò lãnh đạo duy nhất của Đảng, phá hoại đường lối phát triển kinh tế - văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước ta. Đặc biệt, việc thực hiện sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị theo hướng tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả, lực lượng công an nhân dân cũng bố trí lại theo ba cấp, không tổ chức công an cấp huyện, cùng với việc sáp nhập đơn vị hành chính tỉnh, xã; nhiều cán bộ phải bố trí giữ chức vụ thấp hơn, thậm chí nghỉ hưu trước tuổi, do vậy, cán bộ chiến sĩ công an cũng phải tự làm công tác tư tưởng cho chính mình để công việc của tổ chức được thuận lợi, đồng thời nắm vững để vận động, thuyết phục, giải thích cho người thân và nhân dân hiểu. Đây cũng chính là làm tốt việc tự soi, tự sửa.

Thứ hai, tự soi, tự sửa về ý thức trách nhiệm với công việc

Trong Sáu điều Chủ tịch Hồ Chí Minh dạy Công an nhân dân, Bác chỉ dùng hai từ để căn dặn cán bộ chiến sĩ về ý thức trách nhiệm đối với công việc, đó là: “Tận tụy”. Tận tụy được hiểu là tỏ ra hết lòng hết sức với trách nhiệm, không nề gian khổ, không ngại hy sinh. Thực hành tận tuỵ trong cuộc sống rất quan trọng. Nó không chỉ giúp cá nhân phát triển kỹ năng, tạo dựng uy tín và lòng tin từ người khác mà còn góp phần xây dựng một môi trường làm việc tích cực, nơi mọi người cảm thấy được hỗ trợ và tôn trọng. Người cán bộ nói chung, cán bộ chiến sĩ công an nói riêng, rất cần thường xuyên tự soi, tự sửa về sự tận tụy đối với công việc của mình. Để làm điều này, trong và sau mỗi nhiệm vụ, mỗi kết quả, mỗi ngày làm việc, từng cán bộ chiến sĩ cần suy nghĩ, tự kiểm điểm lại xem mình đã cố gắng hết sức chưa về cả công sức, trí tuệ và phương pháp làm việc, còn có thể rút kinh nghiệm gì từ công việc này để bổ trợ, đổi mới cho công việc tương tự lần sau sẽ làm nhanh hơn, chất lượng cao hơn. Ý thức trách nhiệm với công việc còn thể hiện ở chỗ, cán bộ là đảng viên phải thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng nhưng không được đoàn kết kiểu “xuôi chiều” mà cần có tư duy, chính kiến theo hướng đặt lợi ích của tập thể lên trên lợi ích cá nhân, thực hiện theo lẽ phải, bảo vệ cái đúng; nếu phát hiện mệnh lệnh, chỉ đạo không đúng của cấp trên cần kịp thời phản ánh theo quy định. Thực hiện đúng lời dạy của Bác: “Lề lối làm việc phải dân chủ. Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp trên. Giúp nhau kinh nghiệm và sáng kiến, giúp nhau tiến bộ. Tự phê bình và phê bình nhau theo tinh thần thân ái và lập trường cách mệnh”(8).

Thứ ba, tự soi, tự sửa về phẩm chất đạo đức, lối sống

Theo Bác: “Đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu tranh cho Đảng, cho cách mạng. Đó là điều chủ chốt nhất. Ra sức làm việc cho Đảng, giữ vững kỷ luật của Đảng, thực hiện tốt đường lối, chính sách của Đảng. Đặt lợi ích của Đảng và của nhân dân lao động lên trên, lên trước lợi ích của cá nhân mình”(9). Quy định số 144-QĐ/TW ngày 09-5-2024 của Bộ Chính trị về chuẩn mực đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên trong giai đoạn mới, yêu cầu cán bộ, đảng viên phải: (1) Yêu nước, tôn trọng nhân dân, tuyệt đối trung thành với Đảng, với Tổ quốc; (2) Bản lĩnh, đổi mới, sáng tạo, hội nhập; (3) Cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; (4) Đoàn kết, kỷ cương, tình thương, trách nhiệm; (5) Gương mẫu, khiêm tốn, tu dưỡng rèn luyện, học tập suốt đời. Như vậy, mỗi cán bộ chiến sĩ công an cần phải nắm vững các nội dung này và thường xuyên liên hệ với tư tưởng, suy nghĩ và hành động của bản thân để thực hiện cho đúng, phải coi đó là những mực thước, lẽ sống của mình trong quá trình công tác, chiến đấu.

Thứ tư, tự soi, tự sửa về văn hóa ứng xử trong các mối quan hệ

“Văn hoá phải soi đường cho quốc dân đi”(10), đó là lời khẳng định của Chủ tịch Hồ Chí Minh tại Hội nghị Văn hóa toàn quốc năm 1946. Luận điểm này đã trở thành nguyên tắc cơ bản, chiến lược, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình phát triển văn hóa, con người Việt Nam trong công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước cũng như trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước đề ra mục tiêu: “Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người và xây dựng con người để phát triển văn hóa. Trong xây dựng văn hóa, trọng tâm là chăm lo xây dựng con người có nhân cách, lối sống tốt đẹp, với các đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù, sáng tạo”(11). Cụ thể hóa quan điểm, chủ trương của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, Bộ Công an đã ban hành Thông tư số 27/2017/TT-BCA ngày 22-8-2017 quy định về quy tắc ứng xử của Công an nhân dân, bao gồm: quy tắc ứng xử chung; ứng xử trong nội bộ; ứng xử với nhân dân; ứng xử với người vi phạm pháp luật; ứng xử với cá nhân, tổ chức nước ngoài; ứng xử trong gia đình; ứng xử nơi cư trú; ứng xử nơi công cộng; ứng xử với môi trường tự nhiên; ứng xử, giao tiếp qua điện thoại và phương tiện điện tử khác. Đồng thời, Bộ Công an cũng phát động cuộc vận động xây dựng “Đơn vị văn hóa, gương mẫu chấp hành điều lệnh công an nhân dân” và “Xây dựng phong cách người công an nhân dân bản lĩnh, nhân văn, vì nhân dân phục vụ”. Tự soi, tự sửa về văn hóa ứng xử, mỗi cán bộ chiến sĩ công an cần đặc biệt chú ý ba mối quan hệ thường xuyên, phổ biến là: với đồng sự, với nhân dân và với người vi phạm pháp luật, tội phạm.

Đối với đồng sự, cán bộ chiến sĩ công an cần ghi nhớ lời dạy của Bác: “thân ái, giúp đỡ”. Có nghĩa phải tâm niệm, đồng sự là những người cùng chung chiến hào, cùng chung mục tiêu là đấu tranh trấn áp các loại tội phạm, do vậy, phải đối đãi nhau bằng tấm lòng chân thành, thân ái; giúp đỡ nhau cùng tiến bộ trên tinh thần vô tư, trong sáng.

Đối với nhân dân, phải kính trọng, lễ phép. Nhân dân chính là cội nguồn sức mạnh của lực lượng công an nhân dân. Có nhân dân ủng hộ, giúp đỡ thì lực lượng công an mới có thể hoàn thành nhiệm vụ của mình. Do vậy, từng cán bộ chiến sĩ công an luôn phải tâm niệm “vì nhân dân phục vụ”, trong giải quyết công việc cho người dân phải luôn có thái độ niềm nở, kính trọng, lễ phép, ứng xử theo đúng quy tắc văn hóa công vụ và quy định của Bộ Công an, tuyệt đối tránh các biểu hiện hách dịch, cửa quyền.

Đối với người vi phạm pháp luật, tội phạm. Giữ được nét văn hóa, chuẩn mực trong ứng xử với người vi phạm pháp luật, tội phạm là trở ngại đối với nhiều cán bộ chiến sĩ, vì trên thực tế nhiều đối tượng đã gây ra những hành vi có tính chất phản cảm, trái với thuần phong, mỹ tục của dân tộc, gây bất bình trong dư luận xã hội. Tuy nhiên, là những người trực tiếp đối diện, tiếp xúc, làm việc với người vi phạm pháp luật, tội phạm, người cán bộ chiến sĩ công an cần giữ cho mình “trái tim nóng và cái đầu lạnh” để không bị tác động bởi yếu tố tâm lý, tình cảm cản trở hiệu quả công việc. Cán bộ công an cần xác định “mọi hành vi phạm tội đều sẽ bị pháp luật trừng trị”, “không để lọt tội phạm” nhưng cũng phải luôn có ý thức “không để làm oan người vô tội”. Do vậy, chỉ có thực hành đúng theo quy tắc ứng xử văn hóa với người vi phạm pháp luật, tội phạm mà Bộ Công an đã quy định mới có thể giúp cho cán bộ công an bình tâm, tĩnh trí, khám phá hiệu quả tội phạm để xử lý người phạm tội tương xứng với tính chất hành vi, hậu quả đã gây ra.

Thứ năm, tự soi, tự sửa về thực hiện trách nhiệm nêu gương

Trách nhiệm nêu gương được Ban Bí thư quy định tại Quy định số 101-QĐ/TW ngày 07-6-2012 về trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo chủ chốt các cấp. Theo đó, có 07 nội dung cán bộ, đảng viên phải thực hiện nêu gương là: (1) Về tư tưởng chính trị; (2) Về đạo đức, lối sống, tác phong; (3) Về tự phê bình, phê bình; (4) Về quan hệ với nhân dân; (5) Về trách nhiệm trong công tác; (6) Về ý thức tổ chức kỷ luật; (7) Về đoàn kết nội bộ.

Tiếp đó, ngày 19-12-2016, Bộ Chính trị ban hành Quy định số 55-QĐ/TW về một số việc cần làm ngay để tăng cường trách nhiệm nêu gương; ngày 25-10-2018, Ban Chấp hành Trung ương ban hành Quy định số 08-QĐi/TW quy trịnh trách nhiệm nêu gương của cán bộ, đảng viên, trước hết là Ủy viên Bộ Chính trị, Ủy viên Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương.

3. Kết luận

Người cán bộ chiến sĩ công an cần hiểu và thực hành đúng ý nghĩa của nêu gương. Theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nêu gương trước hết là phải làm gương trong mọi công việc, từ nhỏ đến lớn, thể hiện thường xuyên về mọi mặt; mỗi cán bộ, đảng viên phải làm kiểu mẫu trong công tác và lối sống, trong mọi lúc, mọi nơi, nói đi đôi với làm để quần chúng nhân dân noi theo.

Như vậy, tự soi, tự sửa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng con người mới XHCN và càng quan trọng hơn đối với mỗi cán bộ chiến sĩ công an, những người “chỉ biết sống chết với Đảng, chỉ biết còn Đảng thì còn mình”(12).

_________________

Ngày nhận: 25-7-2025; Ngày bình duyệt: 25-7-2025; Ngày duyệt đăng: 21-5-2025.

Email tác giả: thangcom20@gmail.com

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.309.

(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.5, Sđd, tr.280, 68.

(4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.1, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021 tr.25.

(5) Hồ Chí Minh: Sửa đổi lối làm việc, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2015, tr.11.

(6) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 04-NQ/TW “Về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, Hà Nội, 2016.

(7) Đảng ủy Công an Trung ương: Báo cáo đánh giá kết quả 03 năm thực hiện Kết luận số 21-KL/TW Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá XIII về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong công an nhân dân, Hà Nội, 2025.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Sđd, tr.312.

(9) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Sđd, tr.603.

(11) Ban Chấp hành Trung ương: Nghị quyết số 31-NQ/TW Hội nghị Trung ương 9 khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước, Hà Nội, 2014.

(12) Lê Duẩn: Phát biểu tại Hội nghị Công an toàn quốc lần thứ 13 (năm 1959).