Nhân vật - Sự kiện

Quốc dân Đại hội Tân Trào - ý nghĩa và giá trị lịch sử

25/08/2025 18:55

(LLCT) - Quốc dân Đại hội Tân Trào là một sự kiện lịch sử quan trọng, thể hiện ý chí kiên cường, tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc trong thời khắc quyết định vận mệnh đất nước, quyết tâm tiến hành Tổng khởi nghĩa, xóa bỏ chế độ thực dân và phong kiến, đặt nền móng pháp lý cho chế độ mới. Đây là thắng lợi to lớn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh trong việc đánh giá đúng tình hình trong nước và thế giới, nắm bắt thời cơ giành chính quyền. Từ những quyết sách của Quốc dân Đại hội Tân Trào, nhân dân cả nước đã nhất tề đứng lên, đồng loạt tiến hành Tổng khởi nghĩa, đánh đổ ách thống trị của đế quốc, phát xít, giành lại độc lập, tự do cho dân tộc.

TS NGUYỄN QUANG HÒA
Viện Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

TS ĐINH ĐỨC DUY

Học viện Cán bộ thành phố Hồ Chí Minh

Đình Tân Trào, huyện Sơn Dương cũ (Tuyên Quang), nơi diễn ra Đại hội Quốc dân do Việt Minh triệu tập, ngày 16/8/1945, thông qua “10 chính sách lớn của Việt Minh”; thông qua “Lệnh tổng khởi nghĩa”; quy định quốc kỳ, quốc ca; thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, tức Chính phủ Lâm thời do đồng chí Hồ Chí Minh làm Chủ tịch. (Ảnh: Tư liệu TTXVN)
Đình Tân Trào (huyện Sơn Dương cũ, tỉnh Tuyên Quang) nơi diễn ra Quốc dân Đại hội do Việt Minh triệu tập tháng 8-1945, quyết định Tổng khởi nghĩa, bầu ra Ủy ban dân tộc giải phóng do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch_ Ảnh tư liệu

1. Quá trình chuẩn bị và diễn biến của Quốc dân Đại hội Tân Trào

Sau khi ra khỏi nhà tù của Tưởng Giới Thạch, ngày 20-9-1944, lãnh tụ Hồ Chí Minh về đến Pác Bó. Lúc này cục diện Chiến tranh thế giới thứ II đang chuyển biến hết sức khẩn trương, cả trên chiến trường châu Âu và châu Á - Thái Bình Dương. Trong thư gửi đồng bào toàn quốc (tháng 10-1944), lãnh tụ Hồ Chí Minh viết: “Cơ hội cho dân tộc ta giải phóng chỉ trong một năm hoặc một năm rưỡi nữa. Thời gian rất gấp. Ta phải làm nhanh”(1).

Trung tuần tháng 2-1945, Người từ Pác Bó lên đường đi Côn Minh - Trung Quốc nhằm tranh thủ sự giúp đỡ của Đồng minh, thông qua đại diện của Mỹ là tướng Claire L.Chennault, tư lệnh Không đoàn 14 của Mỹ ở Hoa Nam. Giữa lúc đó, ở trong nước, đêm ngày 9-3-1945, quân đội Nhật đã thực hiện cuộc đảo chính lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương - đây là một thời cơ lớn đối với cách mạng Việt Nam. Cuộc gặp gỡ Hồ Chí Minh - Claire L.Chennault diễn ra ngày 29-3. Sau khi thống nhất kế hoạch cùng hợp tác chiến đấu chống Nhật giữa Việt Minh và đại diện Đồng minh, Hồ Chí Minh khẩn trương về nước. Tình hình chuyển biến mau lẹ từng ngày, đòi hỏi phải hết sức tranh thủ thời gian. Về đến Hà Quảng (Cao Bằng) cuối tháng 4, Người được biết các đơn vị Giải phóng quân đang tỏa rộng đi khắp nơi, nhất là xuống phía Bắc Cạn, Thái Nguyên, Tuyên Quang. Phong trào chiến tranh du kích cục bộ đã được phát động, cuộc khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền địa phương đang diễn ra sôi nổi trên các vùng rừng núi Bắc Bộ. Điều mà Trung ương dự kiến trong Hội nghị Trung ương 8 (tháng 5 - 1941) đang trở thành hiện thực. Cả nước đang sống trong những ngày sôi động của cao trào tiền khởi nghĩa.

Dừng chân ở Pác Bó chừng một tuần, ngày 4-5-1945, Hồ Chí Minh cùng đoàn cán bộ khoảng 20 người rời Pác Bó bắt đầu cuộc hành trình về phía Nam. Hai nhân viên vô tuyến điện của cơ quan tình báo O.S.S. Mỹ ở Hoa Nam(2) cùng đi với đoàn. Ngày 16-5, đồng chí Võ Nguyên Giáp nhận được thư hỏa tốc của Ban Việt Minh Liên tỉnh Cao - Bắc - Lạng báo tin lãnh tụ Hồ Chí Minh đang trên đường về xuôi, có thể đã đến phía Nam Chợ Đồn. Đồng chí Võ Nguyên Giáp đã lên đường đi đón và ngày 17 gặp Người cùng đoàn đang dừng chân ở Nà Kiến (Thành Coóc) thuộc xã Nghĩa Tá. Sau khi nghe báo cáo tóm tắt tình hình chung và kết quả hội nghị quân sự ở Hiệp Hòa, Người chỉ thị chọn ngay một địa điểm có cơ sở chính trị quần chúng vững chắc, địa hình thuận lợi, tiện đường liên lạc với miền xuôi, làm trung tâm chỉ đạo phong trào.

Chiều 21-5, các đồng chí Chu Văn Tấn và Song Hào cùng một số cán bộ địa phương đón Người ở trước đình Hồng Thái (thuộc xã Kim Trận). Người hài lòng khi được báo cáo: cấp xã như Thanh La, cấp châu (huyện) như Sơn Dương, là trong số các địa phương giành chính quyền sớm nhất tỉnh(3). Lãnh tụ Hồ Chí Minh nghỉ tạm ở nhà ông Nguyễn Tiến Sự, chủ nhiệm Việt Minh xã Kim Long, mấy ngày sau, Người chuyển lên ở lán Nà Lừa. Ngày 4-6, tại lán đơn sơ đã diễn ra cuộc hội nghị đặc biệt quan trọng. Dự hội nghị có các đồng chí Trường Chinh, Nguyễn Lương Bằng, Hoàng Quốc Việt, Võ Nguyên Giáp. Sau khi nghe đồng chí Trường Chinh báo cáo chủ trương của Trung ương từ đầu năm 1945, nhất là Chỉ thị Nhật Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta (ngày 12-3-1945), tình hình cách mạng các địa phương trong cả nước, nghe đồng chí Võ Nguyên Giáp báo cáo về Hội nghị quân sự ở Hiệp Hòa và cao trào tiền khởi nghĩa trên địa bàn Việt Bắc, Hồ Chí Minh nhận xét rằng, Chỉ thị ngày 12 -3 là “kịp thời”, việc thống nhất lực lượng vũ trang thành Việt Nam giải phóng quân là “rất đúng” và nêu ý kiến sửa đổi một vài điểm trong Nghị quyết Hội nghị quân sự Bắc Kỳ, đặc biệt là nên sớm sáp nhập hai chiến khu Cao - Bắc - Lạng và Tuyên - Thái cùng một số vùng lân cận thành một căn cứ địa kháng Nhật, địa thế liên hoàn để hiệu triệu toàn quốc.

Tháng 6 -1945, Khu giải phóng ra đời. Tân Trào trở thành Thủ đô của Khu giải phóng, trung tâm liên lạc giữa lãnh tụ Hồ Chí Minh với Tổng Bí thư Trường Chinh ở miền xuôi, với các chiến khu trong cả nước, đồng thời cũng là trung tâm liên lạc giữa Tổng hành dinh của cách mạng Việt Nam với phái bộ Đồng minh ở Côn Minh. Tuyên Quang trở thành “Thủ đô” cách mạng, Tân Trào là “trung tâm đầu não chính trị”.

Mùa Hè năm 1945, cục diện chiến tranh thế giới chuyển biến hết sức khẩn trương. Trên chiến trường châu Âu, với sự thất thủ Beclin ngày 2-5, chiến tranh đã kết thúc. Trên mặt trận châu Á - Thái Bình Dương, với việc Hồng quân Liên Xô gấp rút chuẩn bị mở mặt trận phía Đông, quân đội phát xít Nhật đang bị dồn vào bước đường cùng.

Tại Việt Nam, phong trào cứu quốc từ nông thôn đến thành thị, từ rừng núi đến đồng bằng, đang từ khởi nghĩa từng phần, giành chính quyền trong từng địa phương phát triển thành Tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước. Toàn quốc đang mong đợi một chính phủ lâm thời cách mạng nước Việt Nam độc lập.

Tháng 8-1945, phát xít Nhật đầu hàng Đồng minh. Quân Nhật ở Đông Dương mất tinh thần, chính phủ Trần Trọng Kim hoang mang, tê liệt. Theo nhận định của lãnh tụ Hồ Chí Minh, thời cơ đã đến, việc gấp rút Đại hội Quốc dân là cực kỳ cấp thiết trong lúc này. Người giục chuẩn bị cho kịp họp hai hội nghị quan trọng này từ tháng bảy, bởi tình hình đã rất khẩn trương. Người chỉ thị: Có thể còn thiếu một số đại biểu nào đó chưa về kịp cũng họp, nếu không thì không kịp được với tình hình chung. Mặc dù thời gian gấp rút và Người đã chỉ thị viết nhiều thư hỏa tốc, tung giao thông đặc biệt đi các hướng để thúc giục các đại biểu, nhưng tình hình giao thông khó khăn, nhiều đại biểu đã cố gắng đi cho chóng, mà mãi tới ngày 13, 14-8 mới lên tới Tân Trào. Có những đoàn đại biểu ngày 16, 17, 18 mới đến kịp. Trung ương và Tổng bộ Việt Minh quyết định không thể đợi lâu hơn nữa(4).

Từ ngày 14-8 đến ngày 15-8-1945, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp tại Tân Trào. Hội nghị nhận định: “Những điều kiện khởi nghĩa ở Đông Dương như đã chín muồi”, “quân lính Nhật tan rã, mất tinh thần; bọn Việt gian thân Nhật hoảng sợ”, “Toàn dân tộc đang sôi nổi đợi giờ khởi nghĩa, giành quyền độc lập”(5). Hội nghị đề ra ba nguyên tắc để bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trong Tổng khởi nghĩa thắng lợi:

“a) Tập trung - tập trung lực lượng vào những việc chính.

b) Thống nhất - thống nhất về mọi phương diện quân sự, chính trị, hành động và chỉ huy.

c) Kịp thời - kịp thời hành động, không bỏ lỡ cơ hội”(6).

Hội nghị đã kịp thời phát lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, thi hành Mười chính sách của Việt Minh, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn quốc, ra quân lệnh số 1, hạ lệnh tổng khởi nghĩa trong toàn quốc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa hoàn toàn độc lập trước khi quân Đồng minh kéo vào Đông Dương giải giáp quân Nhật.

Sau khi Hội nghị toàn quốc của Đảng bế mạc, Quốc dân Đại hội đã được tổ chức tại Tân Trào (Tuyên Quang) vào ngày 16-8. Hơn 60 đại biểu ở Bắc, Trung, Nam; đại biểu kiều bào ở nước ngoài; đại biểu các đảng phái; các đoàn thể, dân tộc, tôn giáo đã quy tụ tại Đại hội. Tại Đại hội, Tổng Bí thư Trường Chinh đọc báo cáo, nhấn mạnh hai vấn đề lớn: Tổng khởi nghĩa giành chính quyền và bầu Ủy ban Dân tộc Giải phóng Việt Nam. Đại hội thông qua chủ trương của Đảng (được quyết định tại Hội nghị toàn quốc của Đảng từ ngày 14 đến 15-8-1945) là: lãnh đạo quần chúng nổi dậy giành chính quyền từ tay Nhật, lật đổ chính quyền bù nhìn của Nhật, chủ động đón quân Đồng minh giải giáp quân đội Nhật với tư cách và năng lực của lực lượng thống trị, làm chủ đất nước. Đại hội quyết định lấy Cờ đỏ Sao vàng làm Quốc kỳ, nhạc Tiến quân làm Quốc ca và thi hành “Mười chính sách của Việt Minh” gồm:

“1. Giành lấy chính quyền, xây dựng một nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà trên nền tảng hoàn toàn độc lập.

2. Võ trang nhân dân. Phát triển Quân Giải phóng Việt Nam.

3. Tịch thu tài sản của giặc nước và của Việt gian, tuỳ từng trường hợp sung công làm của quốc gia hay chia cho dân nghèo.

4. Bỏ các thứ thuế do Pháp, Nhật đặt ra; đặt một thứ thuế công bằng và nhẹ.

5. Ban bố những quyền của dân cho dân.

- Nhân quyền

- Tài quyền (quyền sở hữu)

- Dân quyền: quyền phổ thông đầu phiếu, quyền tự do dân chủ (tự do tín ngưỡng, tự do tư tưởng, ngôn luận, hội họp, đi lại), dân tộc bình quyền, nam nữ bình quyền.

6. Chia lại ruộng công cho công bằng, giảm địa tô, giảm lợi tức, hoãn nợ, cứu tế nạn dân.

7. Ban bố luật lao động: ngày làm 8 giờ, định lương tối thiểu, đặt xã hội bảo hiểm.

8. Xây dựng nền kinh tế quốc dân, phát triển nông nghiệp. Mở quốc gia ngân hàng.

9. Xây dựng nền quốc dân giáo dục; chống nạn mù chữ, phổ thông và cưỡng bách giáo dục đến bậc sơ cấp. Kiến thiết nền văn hóa mới.

10. Thân thiện và giao hảo với các nước Đồng minh và các nước nhược tiểu dân tộc để giành lấy sự đồng tình và sức ủng hộ của họ”(7).

Đại hội thành lập Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam do Hồ Chí Minh làm Chủ tịch, Trần Huy Liệu làm Phó Chủ tịch và các ủy viên: Nguyễn Lương Bằng, Đặng Xuân Khu, Võ Nguyên Giáp, Phạm Văn Đồng, Dương Đức Hiền, Chu Văn Tấn, Nguyễn Văn Xuân, Cù Huy Cận, Nguyễn Đình Thi, Lê Văn Hiến, Nguyễn Chí Thanh, Phạm Ngọc Thạch, Nguyễn Hữu Đang. Ban Thường trực gồm 5 người: Hồ Chí Minh, Trần Huy Liệu, Phạm Văn Đồng, Nguyễn Lương Bằng, Dương Đức Hiền. Ủy ban Dân tộc giải phóng được giao nhiệm vụ: “thay mặt quốc dân mà giao thiệp với các nước ngoài và chủ trì mọi công việc trong nước”(8).

Về không khí của Đại hội, đồng chí Nguyễn Lương Bằng kể lại: “Từ khi về nước, đây là lần đầu tiên Bác tiếp xúc với một Đại hội đại biểu nhân dân. Hôm ấy, ban tổ chức (cụ thể là đồng chí Phạm Văn Đồng - TG) giới thiệu Bác là Hồ Chí Minh, một nhà cách mạng lão thành, nhiều đại biểu không khỏi ngạc nhiên vì chưa nghe thấy tên Hồ Chí Minh bao giờ. Một số người cũng đã thì thầm bàn tán về Bác mà người ta gọi là ông Ké Tân Trào. Mấy đại biểu kháo nhau: Cụ Nguyễn Ái Quốc đấy. Hồi ấy chưa có tục vỗ tay, nhưng khi nghe giới thiệu Bác, các đại biểu đều rất hân hoan”(9).

Đại hội đang họp thì Đoàn đại biểu nhân dân Tân Trào, gồm cả gái trai, già trẻ đến chào mừng Đại hội. Người chỉ vào các cháu bé gầy gò vàng vọt, nói với các đại biểu: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải làm sao cho các em bé có cơm no, có áo ấm, được đi học, không lam lũ thế này mãi”. Câu nói giản dị khiến các đại biểu hết sức cảm động(10).

Ngày 17-8-1945, Đại hội bế mạc, thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng Việt Nam, lãnh tụ Hồ Chí Minh đọc lời tuyên thệ: “Chúng tôi là những người được Quốc dân đại biểu bầu vào Ủy ban Dân tộc giải phóng để lãnh đạo cuộc cách mạng của nhân dân. Trước lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc, chúng tôi nguyện kiên quyết lãnh đạo nhân dân tiến lên, ra sức chiến đấu chống quân thù, giành lại độc lập cho Tổ quốc. Dù phải hy sinh đến giọt máu cuối cùng, không lùi bước”. Thay mặt Ủy ban Dân tộc giải phóng, trong thời khắc quyết liệt và khẩn trương, lãnh tụ Hồ Chí Minh đã gửi thư kêu gọi đồng bào cả nước, trong đó có đoạn viết:

“… Hỡi đồng bào yêu quý!

Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy đứng dậy đem sức ta mà tự giải phóng cho ta.

Nhiều dân tộc bị áp bức trên thế giới đang ganh nhau tiến bước giành quyền độc lập. Chúng ta không chậm trễ.

Tiến lên! Tiến lên! Dưới lá cờ Việt Minh, đồng bào hãy dũng cảm tiến lên!”(11).

2. Ý nghĩa và giá trị lịch sử

Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa như Hội nghị Diên Hồng thời đại mới, chuẩn bị thế và lực cho cuộc Tổng khởi nghĩa giành chính quyền, phát đi một thông điệp, hiệu lệnh dẫn dắt toàn bộ cuộc Tổng khởi nghĩa cũng như tạo nền tảng cho định hình thể chế dân chủ cộng hòa. Quốc dân Đại hội Tân Trào thành công tốt đẹp thể hiện sự đoàn kết nhất trí của toàn thể dân tộc Việt Nam trong giờ phút quyết định vận mệnh của đất nước. Đại hội thể hiện lòng tin tưởng tuyệt đối của toàn thể dân tộc ta đối với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và quyết tâm của mọi tầng lớp nhân dân ta thực hiện Tổng khởi nghĩa thắng lợi, giành độc lập cho Tổ quốc. Quốc dân Đại hội Tân Trào đóng vai trò vô cùng quan trọng trong việc đưa cuộc Cách mạng Tháng Tám đến thắng lợi, dẫn đến sự ra đời của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quốc dân Đại hội Tân Trào đã là hình ảnh tiêu biểu của khối đại đoàn kết toàn dân dưới sự lãnh đạo của Đảng. Thành công của Đại hội chính là kết quả quá trình phát triển của phong trào cách mạng của nhân dân ta dưới sự lãnh đạo tài tình, sáng suốt của Đảng với chủ trương đoàn kết toàn dân, động viên sức mạnh của toàn thể dân tộc nhằm mục tiêu thiêng liêng là giải phóng đất nước khỏi ách thống trị của kẻ thù xâm lược và tay sai, giành độc lập và tự do cho Tổ quốc.

Quốc dân Đại hội Tân Trào có ý nghĩa to lớn trong lịch sử Việt Nam, đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc. Đây là tiền thân của Quốc hội Việt Nam, thể hiện tinh thần đoàn kết, ý chí quyết tâm của toàn dân tộc, và là cơ sở pháp lý đầu tiên cho chính quyền cách mạng khi chưa thể tiến hành tổng tuyển cử bầu quốc hội. Danh xưng “Quốc dân” đã thể hiện tính dân tộc mạnh mẽ, phản ánh rằng đại biểu Quốc dân không chỉ giới hạn ở việc đại diện cho một giai cấp hay một tầng lớp, mà đại diện cho toàn thể dân tộc Việt Nam. Nó mang ý nghĩa rộng hơn khái niệm nhân dân và công dân, thể hiện ý chí và quyết tâm chính trị của toàn dân tộc trong cách mạng.

Quốc dân Đại hội bầu Ủy ban Dân tộc giải phóng, do Hồ Chí Minh là chủ tịch, được xem như chính phủ lâm thời. Quốc dân Đại hội Tân Trào được xem như một hình thức “tiền Quốc hội” - là bước quá độ, tiền đề cho việc thành lập Quốc hội chính thức sau này.

Quốc dân Đại hội Tân Trào đã quyết định thi hành Mười Chính sách của Việt Minh, được coi là “Hiến pháp lâm thời”, thể hiện rõ nét sự linh hoạt, sáng tạo trong lãnh đạo cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam. Mười Chính sách của Việt Minh rất cô đọng, súc tích, nhưng đã bao quát những quyền dân chủ cơ bản của nhân dân, những phương hướng lớn của nền dân chủ cộng hòa mà bất kỳ người dân Việt Nam nào cũng dễ dàng tiếp thu, ghi nhớ và thực hiện. Có thể xem đó là thông điệp chính trị của chế độ mới nhằm tác động, tập hợp và đoàn kết quần chúng, không chỉ đứng lên giành chính quyền mà còn xây dựng chính quyền mới, tổ chức lại đời sống và nhận thức về dân chủ cộng hòa. Vì vậy, sau thành công của Cách mạng Tháng Tám, Mười Chính sách của Việt Minh đã trở thành phương hướng, phương châm chỉ đạo mọi mặt của đời sống, được thể chế hóa trong các sắc lệnh hành pháp của Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.

Quốc dân Đại hội Tân Trào thể hiện sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, một mô hình nhà nước mới được hình thành từ khát vọng độc lập và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó là sáng tạo độc đáo của Đảng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Tổng bộ Việt Minh trong việc phát huy ý chí và sức mạnh của toàn dân tộc vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, nguồn gốc cho những thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong sự nghiệp giành độc lập dân tộc, thống nhất đất nước, xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước sau này.

Quốc dân Đại hội Tân Trào đã để lại những giá trị to lớn cho hoạt động của Quốc hội hiện nay, đặc biệt là bài học về phát huy ý chí, sức mạnh của dân tộc; đáp ứng kịp thời những nhiệm vụ chiến lược trong từng giai đoạn lịch sử; thể hiện tinh thần dân chủ và quyết tâm xây dựng Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân; khẳng định vị trí, vai trò là cơ quan quyền lực cao nhất của nhân dân trong công cuộc xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.

Những giá trị đó tiếp tục được vận dụng sáng tạo trong quá trình xây dựng tổ chức và hoạt động của Quốc hội Việt Nam nhằm xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; kiện toàn tổ chức bộ máy hệ thống chính trị, bảo đảm “tinh, gọn, mạnh, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả”. Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp theo hướng: Tăng cường năng lực lập pháp, giám sát và quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước và địa phương gắn với cuộc sống người dân; hoàn thiện cơ chế bầu cử, tuyển chọn đại biểu thực sự đại diện cho ý chí, nguyện vọng và tiếng nói của nhân dân; củng cố cơ chế phản biện xã hội, công khai - minh bạch trong hoạt động nghị trường; tăng cường hiệu lực - hiệu quả hoạt động, gắn với yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và đổi mới mô hình phát triển quốc gia trong thời đại số và hội nhập quốc tế sâu rộng, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN và xây dựng thành công một nước Việt Nam: hùng cường, phồn vinh, văn minh, hạnh phúc.

_________________

Ngày nhận bài: 15-8-2025; Ngày bình duyệt: 24-8-2025; Ngày duyệt đăng: 25-8-2025.

Email tác giả: nguyenquanghoatclsd@gmail.com

(1), (11) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 538, 554..

(2) Đó là Frank Tann và Mac Shin (người Mỹ gốc Hoa) mới được cơ quan chiến lược Mỹ (OSS) cử theo Hồ Chí Minh sang Việt Nam để giữ liên lạc giữa Bộ tư lệnh Đồng minh ở Côn Minh với Tổng bộ Việt Minh.

(3) Nhân dân xã Thanh La giành chính quyền đêm 10-3-1945, tức chỉ một ngày sau đảo chính Nhật-Pháp. Sau đó ba ngày, nhân dân giành chính quyền ở châu Sơn Dương và từ đó Sơn Dương đổi thành châu Tự Do. Tên này dùng trong suốt cuộc kháng chiến chống Pháp.

(4) Xem: Đại tướng Võ Nguyên Giáp những chặng đường lịch sử, Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2018, tr. 223-225.

(5), (6), (7), (8) ĐCSVN: Văn kiện Đảng toàn tập, t.7, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2000, tr. 424, 425, 560-561, 561.

(9), (10) Dẫn theo: Trần Trọng Trung: Võ Nguyên Giáp danh tướng thời đại Hồ Chí Minh, Nxb Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 133, 133.