Dưới ánh sáng độc lập, Việt Nam vững bước trên con đường xã hội chủ nghĩa
(LLCT) - Từ ánh sáng Tuyên ngôn Độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhân dân ta đã kiên định đi theo con đường XHCN, giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trên tất cả các lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại. Trên cơ sở phân tích làm rõ giá trị lý luận và thực tiễn to lớn của Tuyên ngôn Độc lập ngày 2-9-1945, bài viết khẳng định những bài học từ hành trình 80 năm cách mạng của Đảng và nhân dân ta đối với việc khơi dậy, hiện thực hóa khát vọng vươn tới tương lai vì một nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng.
TS THÁI DOÃN VIỆT
Trường Chính trị tỉnh Nghệ An

1. Mở đầu
Ngày 2-9-1945 là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam - đã đi vào lịch sử nhân loại như, mở ra kỷ nguyên mới của độc lập, tự do và chủ quyền quốc gia Việt Nam. Trên quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh long trọng đọc bản Tuyên ngôn Độc lập, chính thức khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, đập tan ách thống trị của đế quốc thực dân và sự sụp đổ hoàn toàn của chế độ phong kiến tồn tại suốt hàng nghìn năm, giải phóng dân tộc Việt Nam khỏi ách nô lệ, khẳng định quyền làm chủ của nhân dân, và là sự kiện mang tầm vóc thời đại khi kết tinh và lan tỏa những giá trị phổ quát của văn minh nhân loại về quyền con người, quyền dân tộc tự quyết, khát vọng tự do và công lý. Sự kết hợp hài hòa giữa tinh thần dân tộc và giá trị nhân loại đó đã làm nên tầm vóc vượt thời đại của bản Tuyên ngôn Độc lập, khiến nó không chỉ thuộc về riêng dân tộc Việt Nam mà còn trở thành tiếng nói chung của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới.
Từ ánh sáng Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, nhân dân Việt Nam đã kiên định con đường cách mạng XHCN - một sự lựa chọn khách quan của lịch sử, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi giai đoạn cách mạng, là điều kiện tiên quyết để xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(1).
80 năm đã trôi qua kể từ mùa Thu lịch sử ấy, đất nước Việt Nam đã vượt qua muôn vàn thử thách, giành những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, bảo vệ Tổ quốc và tiến hành công cuộc đổi mới toàn diện. Những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử trên mọi lĩnh vực đã khẳng định bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên của dân tộc Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh.
Độc lập dân tộc gắn liền với CNXH trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong mọi giai đoạn cách mạng, là điều kiện tiên quyết để xây dựng nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu quan trọng ấy, Việt Nam cũng đang đứng trước không ít thách thức trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế sâu rộng và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đòi hỏi cấp thiết đặt ra là phải tiếp tục kiên định con đường đi lên CNXH, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, đẩy mạnh đổi mới sáng tạo, nâng cao nội lực, bản lĩnh và tầm vóc quốc gia, hiện thực hóa khát vọng xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng vào giữa thế kỷ XXI như mục tiêu đã được Đại hội XIII của Đảng xác định.
Việc nhìn lại chặng đường 80 năm, khẳng định giá trị thời đại và sức sống mãnh liệt của ánh sáng độc lập, làm rõ con đường đi lên CNXH trong bối cảnh mới, có ý nghĩa sâu sắc, nhằm củng cố niềm tin, khơi dậy khát vọng cống hiến, xây dựng đất nước của toàn dân tộc Việt Nam.
2. Nội dung
2.1. Ánh sáng Tuyên ngôn Độc lập - Nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho sự phát triển của dân tộc
Tuyên ngôn Độc lập do Chủ tịch Hồ Chí Minh soạn thảo và công bố ngày 2-9-1945 không chỉ là văn kiện khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mà còn chứa đựng hệ giá trị tư tưởng sâu sắc, đặt nền móng cho đường lối phát triển của dân tộc trong suốt kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của độc lập dân tộc gắn liền với quyền con người, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Trước hết, Hồ Chí Minh khẳng định mạnh mẽ quyền thiêng liêng, chính đáng và bất khả xâm phạm của mỗi dân tộc về tự do và độc lập. Người viết: “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã trở thành một nước tự do và độc lập”(2).
Với lời khẳng định ngắn gọn nhưng đanh thép, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tuyên bố trước toàn thế giới về sự ra đời của một nhà nước độc lập, thoát khỏi ách thống trị thực dân đế quốc kéo dài hàng thế kỷ.
Điều đặc sắc trong Tuyên ngôn Độc lập là sự kết tinh nhuần nhuyễn giữa tinh thần yêu nước Việt Nam và những giá trị phổ quát của nhân loại. Hồ Chí Minh đã dẫn lại những nguyên lý cơ bản của Tuyên ngôn Độc lập Hoa Kỳ (1776): “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đẳng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được; trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc”(3).
Bằng việc trích dẫn văn kiện nổi tiếng này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khéo léo đặt cuộc đấu tranh giành độc lập chính nghĩa của Việt Nam trong mối liên hệ với phong trào tiến bộ của nhân loại, làm sáng tỏ tính hợp pháp và hợp lý của cách mạng Việt Nam dưới ánh sáng của những giá trị phổ quát. Đồng thời, Hồ Chí Minh chỉ ra mối quan hệ không thể tách rời giữa quyền dân tộc và quyền con người. Người khẳng định: “Nếu nước mất đi, dân tộc mất đi thì quyền con người cũng bị tước đoạt, cho nên độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện quyền con người”(4).
Quan điểm này chính là sự mở rộng sáng tạo nguyên lý Mác - Lênin về quyền dân tộc tự quyết, gắn bó hữu cơ với quyền con người - điều mà Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc là sự kết tinh cao độ của quyền dân tộc và quyền con người trong điều kiện mới”(5).
Như vậy, Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 chấm dứt chế độ thực dân phong kiến ở Việt Nam, định hướng lâu dài cho con đường phát triển của dân tộc trong kỷ nguyên mới. Chính sự kết tinh giữa giá trị dân tộc và giá trị nhân loại đã làm nên sức sống mãnh liệt của Tuyên ngôn Độc lập - kim chỉ nam cho cách mạng Việt Nam.
Tuyên ngôn Độc lập - Khởi đầu con đường cách mạng đi lên chủ nghĩa xã hội
Tuyên ngôn Độc lập đánh dấu mốc son lịch sử chói lọi khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, mở ra một thời đại mới của dân tộc - thời đại phát triển độc lập, tự chủ, tiến lên CNXH. Từ đây, con đường cách mạng Việt Nam được xác định rõ ràng: độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Tuyên ngôn Độc lập không chỉ mục tiêu giải phóng dân tộc mà còn đặt nền móng để xây dựng một nước Việt Nam mới, nơi người dân là chủ nhân đích thực của đất nước, được bảo đảm đầy đủ các quyền tự do, dân chủ. Thông điệp xuyên suốt Tuyên ngôn Độc lập là khẳng định quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc của mỗi người dân Việt Nam trong một quốc gia độc lập, có chủ quyền, bình đẳng với các dân tộc trên thế giới.
Quan điểm này đặt ra yêu cầu tất yếu của cách mạng Việt Nam là không chỉ giành được độc lập mà còn phải xây dựng một chế độ xã hội mới, đáp ứng các quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân lao động. Đây là tiền đề để Đảng ta bước tiếp trên con đường đi lên CNXH - con đường phù hợp với điều kiện lịch sử, khát vọng của dân tộc và xu thế tiến bộ của nhân loại, Hồ Chí Minh đã khẳng định: “Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản”(6).
Như vậy, con đường cách mạng Việt Nam là một quá trình phát triển liên tục và biện chứng, bắt đầu từ sự nghiệp giành độc lập dân tộc đến nhiệm vụ xây dựng xã hội mới - xã hội XHCN, nơi bảo đảm đầy đủ các giá trị công bằng, dân chủ, văn minh. Hồ Chí Minh khẳng định rõ, độc lập dân tộc phải gắn liền với tự do, ấm no, hạnh phúc của nhân dân; chỉ có CNXH mới tạo nền tảng vững chắc để hiện thực hóa đầy đủ và bền vững các quyền ấy, đáp ứng nguyện vọng sâu xa của toàn thể nhân dân Việt Nam.
Đường lối cách mạng ấy đã được Đảng ta kiên trì thực hiện và từng bước hoàn thiện. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, bị tàn phá bởi chiến tranh, Việt Nam đã vươn lên trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, với nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, hệ thống chính trị ổn định, đời sống nhân dân ngày càng được nâng cao. Thành quả đó là sự kế thừa và phát triển sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về con đường đi lên CNXH. Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là nền tảng tư tưởng, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt đường lối đổi mới”(7).
Từ ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập năm 1945, lý tưởng về một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” đã trở thành khát vọng của toàn dân tộc. Trong bối cảnh mới, khát vọng ấy đang tiếp tục được hiện thực hóa thông qua sự nghiệp đổi mới, hội nhập quốc tế sâu rộng và chuyển đổi mô hình tăng trưởng gắn với khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo.
2.2. 80 năm kiên định con đường cách mạng xã hội chủ nghĩa
80 năm qua, từ ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng Việt Nam đã đi qua nhiều chặng đường đầy gian khổ nhưng cũng vô cùng vẻ vang, giành được những thành tựu to lớn, toàn diện.
Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân tộc giành thắng lợi trong các cuộc kháng chiến chống xâm lược, bảo vệ vững chắc nền độc lập, thống nhất Tổ quốc. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và CNXH; Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954 “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”; Đại thắng mùa Xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Tiếp đó, Đảng đã lãnh đạo cả nước bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH, tiến hành công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong điều kiện vô cùng khó khăn: nền kinh tế nghèo nàn, lạc hậu, bị tàn phá nặng nề bởi chiến tranh; bị bao vây cấm vận kéo dài. Với đường lối đổi được khởi xướng tại Đại hội VI (năm 1986), đất nước đã vượt qua khủng hoảng kinh tế - xã hội nghiêm trọng, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, từng bước phát triển kinh tế, cải thiện đời sống nhân dân. Những thành tựu to lớn Việt Nam đã đạt được nổi bật trên các lĩnh vực:
Về kinh tế, từ một nước nghèo trở thành quốc gia đang phát triển có thu nhập trung bình, với tốc độ tăng trưởng GDP trung bình giai đoạn 1986 - 2023 đạt khoảng 6,5 - 7%/năm. Quy mô GDP năm 2024 ước đạt 476,3 tỷ USD, tương đương khoảng 11.511,9 nghìn tỷ đồng theo giá hiện hành. Tăng trưởng GDP đạt 7,09% so với năm trước, trong đó quý IV tăng 7,55%. GDP bình quân đầu người đạt khoảng 4.700 USD, tăng 377 USD so với năm 2023(8). Mô hình kinh tế thị trường định hướng XHCN được khẳng định.
Về chính trị - xã hội, xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; bảo đảm các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được cải thiện rõ rệt; tỷ lệ hộ nghèo theo chuẩn nghèo đa chiều giảm mạnh còn dưới 3%; tuổi thọ trung bình của người dân đạt trên 73 tuổi(9).
Về quốc phòng - an ninh, thế trận quốc phòng toàn dân gắn với thế trận an ninh nhân dân được củng cố vững chắc, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, biển đảo quốc gia được giữ vững; an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được bảo đảm; đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực đạt nhiều kết quả quan trọng.
Về đối ngoại và hội nhập quốc tế, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với hơn 190 quốc gia, tham gia tích cực, có trách nhiệm vào các tổ chức quốc tế và khu vực, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước, nâng cao vị thế, uy tín quốc tế của Việt Nam trên trường quốc tế. “Chưa bao giờ đất nước ta có cơ đồ, tiềm lực, vị thế và uy tín quốc tế như ngày nay”(10).
Thành tựu to lớn đó là minh chứng sinh động khẳng định tính đúng đắn của con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH; đồng thời thể hiện sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh của bản lĩnh, trí tuệ và khát vọng vươn lên của nhân dân Việt Nam.
Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn: “Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình”(11). Chính sự đoàn kết ấy đã tạo nên nguồn sức mạnh vô địch để Việt Nam vững bước trên hành trình xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh - hiện thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc trong thế kỷ XXI.
Chặng đường 80 năm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN dưới ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập và sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã để lại nhiều bài học quý báu, có ý nghĩa phương pháp luận sâu sắc đối với sự nghiệp cách mạng hiện nay và tương lai.
Thứ nhất, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH là nguyên tắc bất di bất dịch, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ tiến trình cách mạng Việt Nam. Đây là sự vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào thực tiễn Việt Nam, phù hợp với quy luật phát triển của thời đại. Hồ Chí Minh khẳng định: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại khỏi cảnh nghèo nàn, đói khổ, mới đem lại hạnh phúc cho loài người”(12).
Thứ hai, sự lãnh đạo tuyệt đối, toàn diện của Đảng Cộng sản Việt Nam là nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc Việt Nam. Như Hồ Chí Minh khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên và cán bộ phải thật sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thật sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư”(13).
Xây dựng Đảng vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức, tổ chức và cán bộ là điều kiện tiên quyết để thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Thứ ba, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn lực nội sinh to lớn, mang tính quyết định đối với mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng. Đoàn kết không chỉ là truyền thống quý báu của Đảng và dân tộc, mà còn là nhân tố then chốt bảo đảm sự thống nhất ý chí và hành động trong toàn Đảng, toàn dân. Chính vì vậy, việc giữ gìn, củng cố và phát huy tinh thần đoàn kết phải trở thành nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của mỗi cán bộ, đảng viên, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo các cấp, nhằm xây dựng một khối thống nhất bền chặt từ Trung ương đến cơ sở, tạo nền tảng vững chắc để thực hiện thắng lợi mọi mục tiêu cách mạng đã đề ra.
Thực tiễn 80 năm qua chứng minh: mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều bắt nguồn từ sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Thứ tư, coi trọng việc gắn kết giữa độc lập, tự chủ với chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Việt Nam đã đúc rút bài học về việc phải biết tranh thủ thời cơ, vượt qua thách thức, phát huy nội lực đi đôi với thu hút ngoại lực, bảo đảm phát triển bền vững, giữ vững độc lập tự chủ. Đại hội XIII của Đảng đã khẳng định: “Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế”(14) là yêu cầu của sự nghiệp đổi mới.
Thứ năm, thường xuyên đổi mới tư duy lý luận, bám sát thực tiễn, phát huy tính sáng tạo, dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích của nhân dân, của dân tộc. Đổi mới không phải là thay đổi mục tiêu, nguyên tắc mà là làm cho mục tiêu đó phù hợp hơn với yêu cầu của thời đại. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn tiến bộ thì phải học, phải tiến, phải đổi mới, không thể cứ mãi lặp lại cái cũ”(15).
Những bài học lớn từ hành trình 80 năm cách mạng dưới ánh sáng của Tuyên ngôn Độc lập chính là cẩm nang lý luận và thực tiễn vô giá để toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta vững bước trên con đường xây dựng nước Việt Nam hùng cường, phồn vinh, hạnh phúc.
2.3. Khát vọng vươn tới tương lai - Vì một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, sánh vai cường quốc năm châu
Việt Nam đang đứng trước ngưỡng cửa của một giai đoạn phát triển mới - giai đoạn hiện thực hóa khát vọng vươn lên trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao vào giữa thế kỷ XXI. Đó không chỉ là đích đến về kinh tế, mà còn là yêu cầu phát triển toàn diện về chính trị, xã hội, văn hóa, môi trường và con người.
Hồ Chí Minh đặt nền tảng cho khát vọng đó khi Người khẳng định: “Chúng ta phải xây dựng lại đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”(16).
Từ di huấn đó, Đại hội XIII của Đảng tiếp tục cụ thể hóa khát vọng phát triển đất nước đến năm 2045: Việt Nam trở thành nước phát triển, theo định hướng xã hội chủ nghĩa; nhân dân có cuộc sống ấm no, hạnh phúc; độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế và uy tín quốc tế ngày càng được nâng cao(17).
Để hiện thực hóa khát vọng lớn lao ấy, cần quán triệt và thực hiện tốt những định hướng chiến lược sau:
Thứ nhất, tiếp tục kiên định con đường XHCN trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với CNXH. Đây là con đường duy nhất bảo đảm phát triển bền vững, giữ vững chủ quyền quốc gia, xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, phát triển nhanh và bền vững đi đôi với tiến bộ, công bằng xã hội.
Thứ hai, phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, sức mạnh của thể chế dân chủ XHCN. Đoàn kết là cội nguồn của mọi thắng lợi, là giá trị tinh thần vô giá, đã được hun đúc suốt chiều dài lịch sử dân tộc. Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Đoàn kết là sức mạnh vô địch của chúng ta”(18). Cùng với đó là phát huy vai trò chủ thể của nhân dân, xác định con người là trung tâm, là mục tiêu và động lực của sự phát triển.
Thứ ba, tiếp tục đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội nhanh, bền vững. Đổi mới tư duy phát triển, xây dựng nền kinh tế tự chủ, hiện đại, tích cực tham gia vào mạng sản xuất và chuỗi giá trị toàn cầu, khai thác tối đa thành quả của Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Đẩy mạnh chuyển đổi số quốc gia, xây dựng kinh tế số, xã hội số, chính phủ số nhằm tạo bứt phá về năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh. Bên cạnh đó, bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội, thực hiện chính sách an sinh xã hội bền vững, nâng cao chất lượng cuộc sống mọi mặt cho nhân dân.
Thứ tư, xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện. Tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng; kiên quyết, kiên trì đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực; bảo đảm kỷ luật, kỷ cương trong Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Muốn lãnh đạo nhân dân tốt thì trước hết Đảng phải gương mẫu trước nhân dân”(19). Việc xây dựng đội ngũ cán bộ, nhất là cán bộ cấp chiến lược, có phẩm chất, năng lực, uy tín ngang tầm nhiệm vụ, là yếu tố then chốt.
Thứ năm, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định; chủ động, tích cực hội nhập quốc tế sâu rộng. Tiếp tục thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, đa phương hóa, đa dạng hóa; là bạn, là đối tác tin cậy, thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế; bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển.
Hành trình đi tới một Việt Nam hùng cường, thịnh vượng không phải là con đường bằng phẳng mà đầy thử thách, song cũng có nhiều cơ hội. Dưới ánh sáng bất diệt của Tuyên ngôn Độc lập, với bản lĩnh kiên cường của dân tộc, với vai trò lãnh đạo sáng suốt của Đảng, với khát vọng cháy bỏng của cả dân tộc, mục tiêu “Việt Nam hùng cường, sánh vai cường quốc năm châu” nhất định sẽ trở thành hiện thực trong thế kỷ XXI.
3. Kết luận
Tinh thần của Tuyên ngôn Độc lập, những giá trị tư tưởng lớn lao của Hồ Chí Minh về quyền dân tộc, quyền con người là ngọn đuốc soi đường cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta trong suốt hành trình cách mạng vẻ vang 80 năm qua.
Chặng đường lịch sử ấy đã chứng minh chân lý: chỉ có đi lên CNXH mới bảo đảm độc lập dân tộc gắn liền với tự do, hạnh phúc của nhân dân; chỉ có kiên định mục tiêu lý tưởng XHCN mới bảo đảm sự phát triển bền vững, phồn vinh, hùng cường của đất nước. Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, Việt Nam đã vươn mình trở thành quốc gia đang phát triển năng động, có vị thế ngày càng quan trọng ở khu vực và trên thế giới. Đại hội XIII của Đảng đã xác định rõ tầm nhìn đến năm 2045: xây dựng nước Việt Nam trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh(20).
Tuy nhiên, trước mắt là không ít khó khăn, thách thức đan xen với những thời cơ lớn. Cạnh tranh chiến lược giữa các nước lớn, biến động địa chính trị, tác động của biến đổi khí hậu và cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư... đang đặt ra yêu cầu cấp thiết phải tiếp tục đổi mới tư duy, nâng cao năng lực lãnh đạo, năng lực quản trị quốc gia, phát huy mạnh mẽ nội lực dân tộc gắn với ngoại lực thời đại.
Hơn lúc nào hết, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta phải phát huy cao độ khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, biến khát vọng ấy thành hiện thực sinh động trong từng chiến lược, chính sách, hành động cụ thể. Đó chính là sự kế thừa trung thành và sáng tạo tinh thần Tuyên ngôn Độc lập.
_________________
Ngày nhận: 8-7-2025; Ngày bình duyệt: 7-8-2025; Ngày duyệt đăng: 5-8-2025
Email tác giả: vietlong75@gmail.com
(1), (5), (7), (10), (14), (17), (20) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 111, 145, 122, 23, 169, 111, 111.
(2), (3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t. 4, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 3, 3.
(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.534.
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.2, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.280.
(8) https://tuoitre.vn/nam-2024-tang-truong-hon-7-quy-mo-gdp-nen-kinh-te-khoang-476-ti-usd.
(9) UNDP: Báo cáo Phát triển con người UNDP Việt Nam, 2023.
(11), (12) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.12, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.615, 310.
(13), (16) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.612, 612 .
(15) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.6, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.270.
(18) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.593.
(19) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.308.