Diễn đàn

Tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thúc đẩy phát triển nhanh và bền vững

12/09/2025 14:52

(LLCT) - Trong quá trình thực hóa khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, hoàn thiện thể chế nền kinh tế đóng vai trò nền tảng, quyết định hiệu quả vận hành các yếu tố thị trường và bảo đảm định hướng phát triển bền vững. Bài viết phân tích, làm rõ vai trò của hoàn thiện thể chế, đồng thời chỉ ra các thách thức thể chế hiên nay. Trên cơ sở đó, đề xuất một số giải pháp trọng tâm nhằm tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế, tạo nền tảng vững chắc cho phát triển nhanh, bền vững nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa trong bối cảnh mới.

ThS NGUYỄN MINH THẮNG
Trường Chính trị Nguyễn Văn Linh, tỉnh Hưng Yên

kttt.jpg
Bốc, xếp hành hóa xuất - nhâp khẩu tại cảng Cần Thơ _Nguồn: nhiepanhvadoisong.vn

1. Mở đầu

Hoàn thiện thể chế là yêu cầu khách quan, tất yếu trong tiến trình phát triển của quốc gia, nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, cạnh tranh chiến lược diễn biến phức tạp và tác động đa chiều của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư. Công cuộc đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay là một dấu mốc có ý nghĩa lịch sử, mở ra bước ngoặt mang tính đột phá trong tư duy phát triển, cơ cấu thể chế từ đó là phương thức quản trị quốc gia. Thể chế không chỉ là khung khổ pháp lý và chính sách điều tiết hoạt động kinh tế, mà còn là động lực thúc đẩy sáng tạo, cạnh tranh và hội nhập. Sau gần bốn thập kỷ đổi mới, Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng về tăng trưởng, xóa đói giảm nghèo và hội nhập quốc tế. Tuy nhiên, quá trình phát triển kinh tế thị trường vẫn còn những “nút thắt” thể chế chưa được tháo gỡ triệt để, làm hạn chế hiệu quả vận hành của các yếu tố thị trường.

2. Nội dung

2.1. Những thành tựu về đổi mới thể chế kinh tế

Trong bối cảnh mới, với sự chuyển dịch mạnh mẽ của kinh tế toàn cầu, sự phát triển nhanh chóng của kinh tế số, và yêu cầu nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, việc tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế không chỉ là nhiệm vụ cấp bách mà còn là điều kiện tiên quyết để bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường. Bài viết này tập trung phân tích vai trò của thể chế kinh tế trong quá trình phát triển kinh tế thị trường ở Việt Nam, làm rõ những chuyển biến tư duy gần đây, và đề xuất một số định hướng hoàn thiện thể chế phù hợp với yêu cầu thực tiễn.

Thực tiễn gần bốn thập niên đổi mới đã khẳng định vai trò nền tảng của thể chế kinh tế trong việc kiến tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam. Những cải cách thể chế, từng bước tháo gỡ các rào cản, thúc đẩy vận hành các yếu tố thị trường, từ đó tạo ra những thành tựu phát triển toàn diện và có ý nghĩa lịch sử. Giai đoạn 1991–2019, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân đạt khoảng 6,72 %/năm, đưa Việt Nam trở thành một trong những nền kinh tế tăng trưởng nhanh nhất khu vực(1). Dù chịu tác động của đại dịch Covid-19, nền kinh tế vẫn duy trì mức tăng trưởng dương 2,91 % năm 2020 và phục hồi mạnh mẽ với mức 8,02 % năm 2022 - cao nhất trong gần một thập niên(2).

Quy mô nền kinh tế không ngừng mở rộng, đạt 433,7 tỷ USD năm 2023 và dự báo lên 462,3 tỷ USD năm 2024, đưa Việt Nam vào nhóm các quốc gia có GDP lớn hàng đầu Đông Nam Á(3). Thu nhập bình quân đầu người tăng từ hơn 100 USD năm 1990 lên 4.324 USD năm 2023, tiến gần ngưỡng thu nhập trung bình cao theo tiêu chí của Ngân hàng Thế giới(4). Cùng với đó, hội nhập kinh tế quốc tế được đẩy mạnh thông qua việc ký kết và thực thi các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP…, góp phần nâng kim ngạch thương mại lên 786 tỷ USD năm 2024, với xuất khẩu đạt 405,5 tỷ USD và xuất siêu gần 25 tỷ USD(5).

Môi trường thể chế ngày càng minh bạch và thuận lợi đã thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), với 38,2 tỷ USD vốn đăng ký mới và 25,35 tỷ USD vốn thực hiện năm 2024, nâng tổng vốn FDI đăng ký lũy kế lên gần 503 tỷ USD với hơn 42.000 dự án còn hoạt động(6). Những thành tựu nổi bật này không chỉ phản ánh hiệu quả của đổi mới thể chế kinh tế, mà còn minh chứng cho sức bật vượt bậc của mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa - một mô hình đang từng bước khẳng định tính ưu việt trong thực tiễn phát triển đất nước.

2.2. Một số hạn chế, bất cập, thách thức

Mặc dù quá trình hoàn thiện thể chế kinh tế đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song thực tiễn vẫn cho nhiều thách thức đan xen, đòi hỏi phải tiếp tục cải cách mạnh mẽ và đồng bộ hơn.

Thứ nhất, thách thức, bất cập lớn và mang tính nền tảng hiện nay là sự thiếu đồng bộ, thậm chí mâu thuẫn giữa các yếu tố cấu thành thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Khung pháp lý cho nền kinh tế thị trường hiện đại, hội nhập vẫn chưa hoàn chỉnh; nhiều quy định còn chồng chéo, thiếu tính ổn định và khó dự báo, cản trở cho môi trường đầu tư và kinh doanh. Việc thực thi các nguyên tắc thị trường như cạnh tranh bình đẳng, minh bạch thông tin, bảo vệ quyền tài sản và hợp đồng vẫn chưa hiệu quả, làm giảm niềm tin của doanh nghiệp và nhà đầu tư. Cơ chế phối hợp giữa trung ương và địa phương trong hoạch định và thực thi chính sách kinh tế còn thiếu linh hoạt, dẫn đến phân tán nguồn lực và hạn chế liên kết vùng.

Tư duy quản lý kinh tế thị trường hiện đại chưa được thấm nhuần đầy đủ trong cán bộ, công chức, dẫn đến còn tình trạng trì trệ, né tránh trách nhiệm và thiếu sáng tạo trong thực thi công vụ. Trong bối cảnh kinh tế số, kinh tế tuần hoàn và các mô hình kinh doanh mới phát triển nhanh, sự chậm trễ trong hoàn thiện thể chế có thể khiến Việt Nam rơi vào thế bị động trong cạnh tranh toàn cầu.

Đồng thời, trong bối cảnh Việt Nam hiện nay vẫn chưa hình thành đầy đủ thị trường các yếu tố sản xuất. Thị trường đất đai còn bị chi phối bởi cơ chế quản lý hành chính, chưa thực sự vận hành theo nguyên tắc thị trường, việc định giá đất, chuyển nhượng, tích tụ ruộng đất còn nhiều vướng mắc pháp lý. Thị trường lao động chưa linh hoạt, thiếu kết nối giữa đào tạo và nhu cầu thực tế. Chính sách bảo vệ người lao động chưa bao phủ đầy đủ khu vực phi chính thức. Thị trường vốn còn lệch về tín dụng ngân hàng, trong khi thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp chưa phát triển bền vững. Thị trường khoa học – công nghệ chưa được định hình rõ nét, thiếu cơ chế thương mại hóa kết quả nghiên cứu, chưa khuyến khích doanh nghiệp đầu tư nghiên cứu và phát triển - R&D.

Đây là thách thức thể chế cốt lõi, vì nếu các yếu tố sản xuất không được thị trường hóa đúng hướng, nền kinh tế sẽ thiếu động lực cạnh tranh và sáng tạo.

Thứ hai, thách thức trong chuyển đổi mô hình tăng trưởng. Việc chuyển đổi từ mô hình tăng trưởng dựa trên khai thác tài nguyên và lao động giá rẻ sang mô hình dựa trên đổi mới sáng tạo và năng suất chất lượng vẫn gặp nhiều khó khăn. Hệ sinh thái thể chế hỗ trợ đổi mới sáng tạo chưa đủ mạnh, trong khi chất lượng nguồn nhân lực và trình độ công nghệ còn hạn chế. Mặc dù số lượng doanh nghiệp nhỏ và vừa tăng, nhưng năng suất lao động vẫn thấp so với các nước trong khu vực. Việc ứng dụng khoa học công nghệ, đặc biệt là chuyển đổi số, còn tập trung chủ yếu ở các doanh nghiệp FDI hoặc quy mô lớn, trong khi khu vực tư nhân trong nước chưa tiếp cận đầy đủ với chính sách hỗ trợ và hạ tầng công nghệ. Hệ thống giáo dục - đào tạo chưa theo kịp yêu cầu thị trường lao động mới, dẫn đến mất cân đối cung - cầu lao động, đặc biệt trong các ngành nghề mới như công nghệ thông tin, kỹ thuật số, năng lượng tái tạo…

Thứ ba, thách thức trong bảo đảm công bằng xã hội. Theo Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011): “Phát triển kinh tế thị trường phải gắn với tiến bộ và công bằng xã hội”, vì vậy phát triển kinh tế thị trường hiện đại đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ tư duy phân phối, chính sách an sinh và điều tiết xã hội để bảo đảm hài hòa giữa hiệu quả kinh tế và công bằng xã hội. Khoảng cách giàu nghèo giữa các vùng miền, nhóm dân cư vẫn còn lớn; cơ hội tiếp cận giáo dục, y tế, hạ tầng cơ bản giữa nông thôn - đô thị, miền núi - đồng bằng chưa được thu hẹp hiệu quả. Các vấn đề mới như già hóa dân số, an ninh lương thực, năng lượng, biến đổi khí hậu, chuyển đổi việc làm… đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với hệ thống thể chế xã hội, trong khi nguồn lực và năng lực quản lý nhà nước còn hạn chế.

Đổi mới thể chế kinh tế không chỉ là yêu cầu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là động lực nền tảng để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và bao trùm trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số.

Thứ tư, thách thức từ hội nhập quốc tế sâu rộng. Việc tham gia các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, UKVFTA, RCEP… mở ra cơ hội lớn nhưng cũng đặt ra yêu cầu cao về hoàn thiện thể chế để đáp ứng các cam kết quốc tế. Áp lực cạnh tranh, tiêu chuẩn chất lượng và yêu cầu minh bạch thể chế ngày càng gia tăng. Trong khi đó, nhiều doanh nghiệp trong nước còn yếu về năng lực quản trị, công nghệ và thương hiệu, dễ bị tổn thương trong môi trường cạnh tranh khốc liệt. Khu vực FDI chiếm tỷ trọng lớn trong xuất khẩu và sản xuất công nghiệp nhưng chưa có sự lan tỏa đủ mạnh sang khu vực doanh nghiệp trong nước, làm gia tăng nguy cơ lệ thuộc vào công nghệ và chuỗi cung ứng nước ngoài nếu không có giải pháp thể chế phù hợp để thúc đẩy liên kết và nâng cao năng lực nội tại.

Thứ năm, thách thức về năng lực quản lý rủi ro và ổn định vĩ mô trong môi trường biến động kinh tế vĩ mô. Các công cụ điều tiết vĩ mô như chính sách tài khóa, tiền tệ, quản lý nợ công… còn thiếu tính linh hoạt và chưa được phối hợp hiệu quả. Thể chế quản lý rủi ro tài chính, rủi ro hệ thống và khủng hoảng kinh tế chưa được thiết kế đầy đủ, đặc biệt trong bối cảnh biến động địa chính trị, dịch bệnh và biến đổi khí hậu. Nếu không nâng cao năng lực thể chế quản lý rủi ro, nền kinh tế sẽ dễ bị tổn thương trước các cú sốc bất thường, không thể thúc đẩy mạnh mẽ vai trò của kinh tế tập thể và tư nhân cũng như phát huy hiệu quả cho các thành phần kinh tế, làm giảm năng lực nội sinh và tính đa dạng của nền kinh tế thị trường.

2.3. Một số giải pháp tiếp tục hoàn thiện thể chế nhằm phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Trước yêu cầu phát triển nhanh và bền vững trong bối cảnh mới, việc tiếp tục thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa cần được triển khai một cách toàn diện, đồng bộ, gắn với mục nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Một số nhóm giải pháp trọng tâm bao gồm:

Một là, tiếp tục hoàn thiện thể chế phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa theo hướng đồng bộ, hiện đại, hội nhập và vận hành đầy đủ các yếu tố thị trường. Đây là giải pháp nền tảng, giữ vai trò định hình mô hình phát triển đặc thù của Việt Nam. Đây không chỉ là yêu cầu mang tính lý luận, mà còn là điều kiện tiên quyết để giải phóng nguồn lực, khơi thông động lực tăng trưởng và cụ thể hóa định hướng xã hội chủ nghĩa trong điều kiện phát triển theo cơ chế thị trường. Theo đó, cần đẩy mạnh rà soát, sửa đổi và đồng bộ hóa hệ thống pháp luật, đặc biệt là các đạo luật trụ cột như Luật Đất đai (2024), Luật Đầu tư công, Luật Doanh nghiệp, Luật Đấu thầu, Luật Kinh doanh bất động sản,… theo hướng đơn giản, dễ thực thi, hài hòa với thông lệ quốc tế và phù hợp với thực tiễn. Đồng thời, phải gắn với chuyển đổi tư duy từ “quản lý” sang “kiến tạo phát triển”. Nhà nước cần chủ động thiết lập môi trường thể chế thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh, sáng tạo, liên kết và chuyển đổi số. Cần nâng cao chất lượng xây dựng chính sách bằng cơ chế phản biện độc lập, đánh giá tác động chính sách kỹ lưỡng, mở rộng kênh tham vấn xã hội.

Hai là, hoàn thiện thể chế theo hướng đổi mới mô hình tăng trưởng, nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh dựa trên khoa học - công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, điều chỉnh thể chế sử dụng nguồn lực theo hướng linh hoạt, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu của nền kinh tế số và kinh tế xanh. Đây là định hướng trọng tâmtrong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam đang chuyển dần từ giai đoạn phát triển dựa trên lợi thế chi phí thấp, tài nguyên và lao động sang giai đoạn phát triển dựa trên năng suất và đổi mới sáng tạo. Việc đổi mới không chỉ là sự điều chỉnh trong cách thức huy động và sử dụng nguồn lực, mà còn thể hiện bước chuyển căn bản về tư duy phát triển, gắn với yêu cầu xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, có năng lực thích ứng cao trong nền kinh tế số và kinh tế xanh. Chính vì vậy, cần quan tâm các chính sách xây dựng và phát triển mạnh mẽ hệ sinh thái đổi mới sáng tạo quốc gia, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo chính sách, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ, ưu đãi đầu tư cho R&D, còn doanh nghiệp, đặc biệt là khu vực tư nhân giữ vai trò trung tâm trong ứng dụng và thương mại hóa công nghệ. Chính sách phát triển hệ thống viện nghiên cứu, trường đại học phải gắn kết chặt chẽ với nhu cầu thực tiễn sản xuất, kinh doanh, chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực chất lượng cao. Chuyển đổi số cần được đẩy mạnh toàn diện trong các lĩnh vực trụ cột như công nghiệp, nông nghiệp, dịch vụ, y tế, giáo dục và quản lý nhà nước, thông qua các chương trình quốc gia về chính phủ số, kinh tế số, xã hội số.

Ba là, hoàn thiện thể chế bảo đảm phát triển bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, trên cơ sở cạnh tranh lành mạnh và có sự điều tiết hợp lý của Nhà nước. Việc phát triển đầy đủ, bình đẳng và hiệu quả các thành phần kinh tế trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa không chỉ là yêu cầu khách quan, mà còn là giải pháp chiến lược nhằm khai thác tối đa tiềm năng nội sinh, khơi thông các nguồn lực xã hội và hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững, bao trùm. Chính vì vậy, cần đặc biệt coi trọng thực thi nghiêm túc nguyên tắc bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực - gồm đất đai, tín dụng, thông tin và cơ hội kinh doanh - giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước cần xóa bỏ triệt để các “đặc quyền ngầm”, hành chính hóa trong phân bổ nguồn lực, đồng thời đẩy mạnh cải cách hành chính, minh bạch hóa chính sách và phòng chống lợi ích nhóm. Kinh tế tư nhân cần được ưu tiên hỗ trợ phát triển thông qua các chính sách tài chính, tín dụng ưu đãi, phát triển hạ tầng số, đào tạo nhân lực chất lượng cao và kết nối thị trường. Doanh nghiệp nhà nước cần tiếp tục tái cơ cấu toàn diện theo tinh thần Nghị quyết số 12-NQ/TW (năm 2017), thu hẹp lĩnh vực hoạt động, tập trung vào các ngành thiết yếu, áp dụng mô hình quản trị hiện đại, phân định rõ chức năng công ích và kinh doanh. Kinh tế tập thể cần được củng cố theo hướng hình thành các hợp tác xã kiểu mới, ứng dụng công nghệ, gắn kết chuỗi giá trị, phát triển theo vùng, ngành hàng trọng điểm.

Bốn là, tăng cường vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước nhằm bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa cho nền kinh tế thị trường, thông qua hệ thống chính sách tài khóa, tiền tệ, phúc lợi xã hội và bảo vệ môi trường. Trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, vai trò điều tiết vĩ mô của Nhà nước là yếu tố then chốt để bảo đảm phát triển bền vững, công bằng và mang bản sắc riêng biệt của mô hình kinh tế Việt Nam. Nhà nước không chỉ thực hiện chức năng “trọng tài” điều phối hoạt động thị trường một cách công khai, minh bạch, mà còn đóng vai trò “kiến tạo phát triển”, điều tiết các quan hệ kinh tế - xã hội, khắc phục mặt trái của cơ chế thị trường và hướng đến thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Để giải quyết tốt vấn đề nêu trên, cần tiếp tục đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách tài khóa, tiền tệ, đầu tư công theo hướng chủ động, linh hoạt, phản ứng kịp thời với biến động thị trường, đồng thời giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô và bảo đảm phân phối công bằng. Chính sách thuế cần được điều chỉnh theo hướng lũy tiến hợp lý, cải cách thuế tài sản, thuế thu nhập cao, trong khi chi tiêu công cần hướng đến trợ giúp nhóm yếu thế, vùng khó khăn và thúc đẩy phát triển xanh, tuần hoàn, bao trùm. Bên cạnh đó, hệ thống an sinh xã hội phải được củng cố toàn diện, với cơ chế trợ giúp xã hội có trọng tâm, linh hoạt và ứng dụng công nghệ trong quản lý, phân phối. Chính sách bảo hiểm y tế, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cần được tích hợp hiệu quả, bảo đảm bao phủ toàn dân và khả năng tiếp cận thuận lợi. Nhà nước cần chủ động điều tiết thị trường lao động, thị trường nhà ở, thị trường giáo dục - y tế nhằm bảo đảm cơ hội phát triển công bằng, nhất là cho người nghèo và nhóm yếu thế. Đồng thời, các công cụ kiểm soát thị trường tài chính, thị trường bất động sản, phòng chống đầu cơ, bong bóng giá và bảo vệ người tiêu dùng cần được áp dụng linh hoạt, có dự báo và cảnh báo sớm.

Năm là, đổi mới thể chế kinh tế ứng phó với hội nhập quốc tế sâu rộng. Hoàn thiện thể chế pháp lý phù hợp với cam kết quốc tế, rà soát, sửa đổi và ban hành các văn bản pháp luật để tương thích với các cam kết trong FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA, RCEP… Xây dựng cơ chế thực thi cam kết minh bạch, có trách nhiệm, đồng thời bảo đảm không làm suy giảm định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển. Tăng cường năng lực thể chế hỗ trợ doanh nghiệp trong nước. Thiết lập các trung tâm hỗ trợ pháp lý, tư vấn tiêu chuẩn kỹ thuật, sở hữu trí tuệ và chuyển giao công nghệ cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, giảm chi phí tuân thủ thể chế, tạo môi trường kinh doanh thuận lợi và dễ tiếp cận. Thúc đẩy thể chế liên kết giữa khu vực FDI và doanh nghiệp trong nước. Ban hành cơ chế khuyến khích FDI chuyển giao công nghệ, đào tạo nhân lực, sử dụng nhà cung cấp nội địa. Xây dựng thể chế hỗ trợ hình thành cụm liên kết ngành, chuỗi giá trị nội địa, qua đó giảm phụ thuộc vào chuỗi cung ứng nước ngoài. Phát triển thể chế bảo vệ thị trường nội địa và người tiêu dùng. Áp dụng các công cụ phòng vệ thương mại đúng luật quốc tế để bảo vệ ngành sản xuất trong nước. Tăng cường thể chế kiểm tra chất lượng, an toàn sản phẩm, bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong môi trường cạnh tranh mở.

Sáu là, nâng cao năng lực thể chế quản lý rủi ro và ổn định vĩ mô. Xây dựng thể chế quản lý rủi ro kinh tế toàn diện, thiết lập khung pháp lý về quản lý rủi ro tài chính, rủi ro hệ thống, rủi ro chuỗi cung ứng và khủng hoảng kinh tế, tăng cường năng lực dự báo, cảnh báo sớm và phản ứng chính sách nhanh trong bối cảnh biến động toàn cầu. Đổi mới thể chế điều tiết tài khóa – tiền tệ linh hoạt và phối hợp hiệu quả. Hoàn thiện cơ chế phối hợp giữa chính sách tài khóa và tiền tệ để bảo đảm ổn định vĩ mô, kiểm soát lạm phát và hỗ trợ tăng trưởng. Thiết kế chính sách tài khóa theo hướng chủ động, có dư địa ứng phó với khủng hoảng, đồng thời bảo đảm kỷ luật ngân sách. Tăng cường thể chế quản lý nợ công và đầu tư công hiệu quả. Ban hành khung pháp lý kiểm soát nợ công bền vững, minh bạch hóa thông tin nợ và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn vay. Cải cách thể chế đầu tư công theo hướng lựa chọn dự án chiến lược, ưu tiên phát triển hạ tầng xanh, số và thích ứng biến đổi khí hậu. Phát triển thể chế bảo hiểm rủi ro và an sinh xã hội linh hoạt, mở rộng các loại hình bảo hiểm rủi ro kinh tế, bảo hiểm thiên tai, bảo hiểm thất nghiệp linh hoạt cho doanh nghiệp và người lao động, ứng dụng công nghệ số trong quản lý an sinh xã hội, bảo đảm phân phối công bằng và hỗ trợ kịp thời cho nhóm dễ tổn thương.

3. Kết luận

Đổi mới thể chế kinh tế không chỉ là yêu cầu khách quan trong tiến trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mà còn là động lực nền tảng để Việt Nam hiện thực hóa mục tiêu phát triển nhanh, bền vững và bao trùm trong bối cảnh toàn cầu hóa và chuyển đổi số. Thực tiễn gần bốn thập niên đổi mới đã cho thấy, những cải cách thể chế phù hợp có thể tạo ra bước chuyển mạnh mẽ về năng lực cạnh tranh, hiệu quả vận hành thị trường và khả năng thích ứng của nền kinh tế. Tuy nhiên, quá trình đổi mới thể chế kinh tế hiện nay vẫn đang đối mặt với nhiều thách thức đan xen: từ sự thiếu đồng bộ trong cấu trúc thể chế, hạn chế trong hỗ trợ doanh nghiệp nội địa, áp lực hội nhập quốc tế, đến yêu cầu nâng cao năng lực quản lý rủi ro vĩ mô. Những thách thức này đòi hỏi phải có cách tiếp cận cải cách thể chế toàn diện, đồng bộ và có chiều sâu, trong đó Nhà nước đóng vai trò kiến tạo phát triển, doanh nghiệp là trung tâm đổi mới, và xã hội là đối tượng thụ hưởng. Trong thời gian tới, việc hoàn thiện thể chế kinh tế cần tập trung vào các trụ cột: thúc đẩy mô hình tăng trưởng dựa trên đổi mới sáng tạo; bảo đảm bình đẳng giữa các thành phần kinh tế; nâng cao năng lực điều tiết vĩ mô; thích ứng với hội nhập quốc tế sâu rộng và xây dựng hệ thống thể chế quản lý rủi ro hiệu quả. Chỉ khi thể chế kinh tế thực sự trở thành nền tảng vận hành thị trường một cách minh bạch, công bằng và hiệu quả, thì mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa mới có thể phát huy đầy đủ giá trị, góp phần xây dựng một Việt Nam phát triển phồn vinh, hạnh phúc và bền vững trong kỷ nguyên mới.

_________________

Ngày nhận bài: 29-8-2025; Ngày bình duyệt: 9-9-2025; Ngày quyết định đăng: 12-9-2025.

Email tác giả: minhthang.tct@gmail.com

(1) https://nhandan.vn/tang-cuong-noi-luc-de-thuc-day-tang-truong-post886529.html.

(2) https://www.nso.gov.vn/tin-tuc-thong-ke/2023/12/thong-cao-bao-chi-ve-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2023

(3) https://www.gso.gov.vn/bai-top/2023/12/bao-cao-tinh-hinh-kinh-te-xa-hoi-quy-iv-va-nam-2023

(4) https://topi.vn/gdp-binh-quan-dau-nguoi-cua-viet-nam-qua-cac-nam.html.

(5) https://baochinhphu.vn/nam-2024-von-fdi-giai-ngan-cao-ky-luc-102250106101728669.htm.

(6) https://www.mpi.gov.vn/portal/Pages/2025-1-6/Tinh-hinh-thu-hut-dau-tu-nuoc-ngoai-nam-2024-5ihdt0.aspx.