Vận dụng khoa học liên ngành trong lãnh đạo, quản lý phát triển bền vững vì hạnh phúc con người
(LLCT) - Trên cơ sở phân tích lý thuyết của Malthus và các lý thuyết khoa học liên ngành về phát triển bền vững vì hạnh phúc con người, bài viết giới thiệu mô hình R&D&B (Research, Development, Business -Nghiên cứu, Phát triển, Khởi nghiệp) và các cách thức đo lường “hạnh phúc” trong phát triển bền vững. Từ đó đề xuất việc vận dụng hệ thống lý luận trên trong giáo dục, đào tạo và lãnh đạo, quản lý các loại vốn cho phát triển bền vững vì hạnh phúc con người Việt Nam trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.
GS, TS LÊ NGỌC HÙNG
Đại học Quốc gia Hà Nội

1. Mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang diễn ra mạnh mẽ, phát triển bền vững vì hạnh phúc con người đã trở thành mục tiêu trung tâm của các quốc gia. Việt Nam kiên định lựa chọn con đường phát triển bền vững gắn với tiến bộ và công bằng xã hội, đặt con người ở vị trí trung tâm của chiến lược phát triển. Tuy nhiên, những thách thức lớn như biến đổi khí hậu, già hóa dân số, bất bình đẳng xã hội và những tác động phức tạp của kinh tế thị trường đòi hỏi có cách tiếp cận mới, tổng hợp và toàn diện hơn.
Khoa học liên ngành là phương thức giúp kết nối tri thức của nhiều lĩnh vực, từ kinh tế, chính trị, xã hội học, môi trường, y tế đến công nghệ, qua đó cung cấp luận cứ khoa học cho hoạch định chính sách và tổ chức thực tiễn. Việc vận dụng khoa học liên ngành trong lãnh đạo, quản lý giúp nhận diện các vấn đề phức hợp một cách toàn diện từ đó đưa ra giải pháp cân bằng, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường. Đây là yêu cầu khách quan để bảo đảm sự phát triển bền vững, vì hạnh phúc của nhân dân và sự thịnh vượng của đất nước.
2. Nội dung
2.1. Khái niệm và mô hình phát triển bền vững vì hạnh phúc con người
Năm 1987, thuật ngữ “phát triển bền vững” (sustainable development) được nêu trong Báo cáo về “Tương lai chung của chúng ta” (1987) của Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) Liên Hợp quốc (1). Báo cáo này được xem là một chương trình nghị sự về biến đổi toàn cầu nhằm đạt được “phát triển bền vững” đến năm 2000 và những năm sau đó(2). Từ năm 1987 đến nay, khái niệm “phát triển bền vững” được dùng chủ yếu để chỉ khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu của các thế hệ tương lai. Việc nhấn mạnh sự bền vững của phát triển theo dòng thời gian sống liên tục một chiều từ các thế hệ này đến các thế hệ kế tiếp theo đòi hỏi sự phát triển cần phải đáp ứng các nhu cầu cơ bản của mỗi thành viên của các thế hệ hiện tại. Nói cách khác, phát triển bền vững là phát triển bao trùm, không bỏ lại ai phía sau, không bỏ ai ra ngoài sự phát triển nhằm mục tiêu cuối cùng là vì hạnh phúc con người.
Năm 2015, Liên Hợp quốc xác định 17 mục tiêu phát triển bền vững (Sustainable Development Goals - SDGs), trong đó có bốn mục tiêu về lĩnh vực “kinh tế” (số 8, 9, 10, 12) với 46 mục tiêu cụ thể (chiếm 27,2%); bảy mục tiêu về lĩnh vực “xã hội” (số 1, 2, 3, 4, 5, 6, 11) với 65 mục tiêu cụ thể (chiếm 38,5%); bốn mục tiêu về lĩnh vực “môi trường” (số 7, 13, 14, 15) với 27 mục tiêu cụ thể (chiếm 16%) và hai mục tiêu về hòa bình, công lý và quan hệ đối tác (số 16 ,17) với 31 mục tiêu cụ thể (chiếm 18, 3%). Phát triển bền vững thể hiện rõ ở 8/17 mục tiêu (SDG) trực tiếp vì hạnh phúc con người, gồm các mục tiêu: số 1 (xóa nghèo), số 3 (sức khỏe và cuộc sống tốt), số 4 (giáo dục chất lượng), số 5 (bình đẳng giới), số 8 (việc làm thỏa đáng và tăng trưởng kinh tế), số 10 (giảm bất bình đẳng), số 11 (thành phố và cộng đồng bền vững) và số 16 (hòa bình, công lý và thể chế bền vững).
Mô hình “ven” về phát triển bền vững (The ven model of sustainable development)
Mô hình “ven” về phát triển bền vững cho thấy sự bền vững của phát triển là hệ thống tương tác phức tạp của ba “ven” phát triển gồm: môi trường, xã hội và kinh tế (Hình 1). Vùng giao nhau của hình ven “môi trường” (Environment) với hình ven “xã hội” (Social) tạo thành vùng “chịu được” (Bearable). Vùng giao nhau giữa hình ven “xã hội” với hình ven “kinh tế” (Economic) tạo thành vùng “công bằng” (Equitable). Vùng giao nhau giữa hình ven “kinh tế” với hình ven “môi trường” tạo thành vùng “sống động” (Viable). Vùng giao nhau giữa “chịu được” với “công bằng” với “sống động” mới tạo nên vùng “bền vững” (Sustainable) của sự phát triển.
Như vậy, sự bền vững của phát triển đặc trưng bởi khả năng “chịu được”, “công bằng” và “sống động” của sự phát triển đồng thời của ba cặp tương tác “môi trường - xã hội”, “xã hội - kinh tế” và “kinh tế - môi trường”. Mô hình “ven” về phát triển bền vững nhấn mạnh sự tương tác phức tạp của các bộ phận cấu thành, trong đó yếu tố “xã hội” luôn chiếm vị thế chủ thể, động lực, trung tâm của các mối tương tác tạo nên sự phát triển bền vững vì “hạnh phúc con người” của một xã hội xác định.
Mô hình “ven” về phát triển bền vững được xây dựng từ quan điểm phát triển bền vững do Liên Hợp quốc đưa ra (năm 1987) và các tổ chức quốc tế liên quan. Mô hình “ven” được phát triển với các mô hình như: mô hình ba trụ cột phát triển bền vững “kinh tế, xã hội, môi trường”, mô hình “tăng trưởng kinh tế, tiến bộ xã hội, bảo vệ môi trường”, mô hình “vốn kinh tế, vốn xã hội, vốn tự nhiên” và mô hình “kinh doanh, xã hội, giới tự nhiên”(3). Một số nghiên cứu bổ sung yếu tố “thể chế” vào mô hình ba yếu tố (tam giác) phát triển bền vững để trở thành mô hình tứ giác hay mô hình lăng trụ tứ giác “kinh tế, xã hội, môi trường, thể chế”. Trong khi đó, một số nghiên cứu lại giảm bớt các chiều cạnh, yếu tố của phát triển bền vững và xây dựng mô hình “quả trứng” gồm “lòng đỏ” là “con người” (People) và “lòng trắng” là “hệ thống sinh thái” (Ecosystem) và hai mũi tên chỉ dòng chảy qua lại của “các yêu cầu và ích lợi”.
Các biến thể của mô hình ven vừa nêu đều phản ánh cách tiếp cận xã hội học liên ngành với một, hai hoặc ba yếu tố, chiều cạnh, trụ cột tạo nên sự phát triển bền vững vì “hạnh phúc con người”, thể hiện rõ ở yếu tố trung tâm, “bất biến” là: “xã hội” đặc trưng bởi sự “sống động” và “công bằng” và các yếu tố cấu thành như “vốn xã hội”, “con người”.
Hình 1: Mô hình “ven” về phát triển bền vững(4)

Nguồn: G.Brundtland: Report of the World Commission on Environment and Development: Our Common Future, United Nations General Assembly document A/42/427, 1987, pp.11.
Mô hình cùng tiến hóa về phát triển bền vững (The co-evolutionary model)
Mô hình cùng tiến hóa về phát triển bền vững cho rằng sự phát triển bền vững là một quá trình cùng tiến hóa của loài người với nền kinh tế và giới tự nhiên trên phạm vi toàn cầu(5). Quá trình cùng tiến hóa đòi hỏi phát triển bền vững của đồng thời xã hội loài người với kinh tế và môi trường phải thích ứng với những biến đổi trên phạm vi toàn thế giới, bao gồm: toàn cầu hóa, biến đổi khí hậu toàn cầu, Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và biến đổi xã hội gắn với AI. Mô hình cùng tiến hóa cho thấy rõ vị trí và vai trò của chủ thể phát triển bền vững là xã hội “loài người” trong quan hệ cùng tiến hóa (mũi tên hai chiều) với một bên là “nền kinh tế” do loài người sản xuất và liên tục tái sản xuất và một bên là “giới tự nhiên”. Cần thấy rằng, cả “nền kinh tế” và “giới tự nhiên” liên tục bị “xã hội hóa” và liên tục có nguy cơ “tha hóa” theo khái niệm của C. Mác. Do vậy, vấn đề đặt ra từ góc độ xã hội học liên ngành là “loài người” cần tìm ra cơ chế, chính sách (mũi tên xanh trong Hình 2) để phát triển mối quan hệ giữa nền kinh tế và giới tự nhiên vì hạnh phúc con người.
Hình 2. Mô hình cùng tiến hóa về phát triển bền vững(6)

Nguồn: World Bank, The Changing Wealth of Nations 2021: Managing assets for the future, World Bank, Washington DC, tr.454.
2.2. Lý thuyết liên ngành về phát triển bền vững vì hạnh phúc con người
Thuyết Malthus về phát triển bền vững vì hạnh phúc con người
Lý thuyết Malthus (Thomas Robert Malthus (1766 -1834) về phát triển bền vững vì hạnh phúc con người được nhiều ngành khoa học xã hội nghiên cứu và vận dụng trong các hoạt động R&D&B (Research & Development & Business (Nghiên cứu-Phát triển-Khởi nghiệp))(7) trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường hiện nay.
Năm 1798, trong tác phẩm Essay on the principle of population(8), Malthus đưa ra các nguyên lý về dân số học và kinh tế học, chỉ ra các nguyên nhân và hệ quả của nguy cơ mất cân bằng giữa tăng trưởng dân số theo cấp số nhân và tăng trưởng sản xuất lương thực theo cấp số cộng đối với hạnh phúc con người. Sau đó, cách tiếp cận khoa học liên ngành dân số học và kinh tế học của Malthus được nghiên cứu và áp dụng trong các hoạt động thực tiễn từ cấp độ vĩ mô toàn cầu, khu vực, quốc gia đến cấp độ vi mô địa phương, hộ gia đình.
Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu và các nhà làm thực tiễn có thể đã chỉ chú ý đến các nguyên lý dân số học trong mối quan hệ với kinh tế học về sản xuất lương thực nên đã không kế thừa quan điểm của ông về ảnh hưởng của tăng trưởng dân số theo cấp số nhân và tăng trưởng sản xuất lương thực theo cấp số cộng đối với hạnh phúc con người.
Malthus đã tập trung nghiên cứu lượng hóa được mối tương tác giữa các quá trình dân số với các quá trình kinh tế để làm rõ ảnh hưởng của sự tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội đến hạnh phúc con người. Tuy nhiên, mãi cho đến nay, nhiều tiếp cận khoa học liên ngành vẫn chưa nghiên cứu, vận dụng lý luận này trong các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội.
Tại Việt Nam, trong bối cảnh bước vào kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, vận dụng sáng tạo lý thuyết Malthus về phát triển bền vững vì hạnh phúc con người có ý nghĩa quan trọng trong đạt được các mục tiêu phát triển xã hội một cách bền vững và bao trùm.
Lý thuyết Bàn tay vô hình
Với tác phẩm Của cải của các dân tộ (9), Adam Smith tuyên ngôn cho sự ra đời của kinh tế học hiện đại về nguồn gốc của sự giàu có ở đâu: trong môi trường tự nhiên, trong sản xuất kinh tế hay trong xã hội? Đó là hệ thống xã hội, trong đó lợi ích chung không đơn giản là tổng số lợi ích cá nhân mà là kết quả của sự trao đổi xã hội dẫn đến sự phân công lao động theo quy luật cạnh tranh của mỗi cá nhân theo đuổi lợi ích riêng của họ. Adam Smith viết: “Chính không phải vì lòng nhân từ, rộng lượng của người hàng thịt, người làm rượu bia hay người làm bánh mì mà chúng ta có một bữa ăn, mà vì sự quan tâm của họ tới lợi ích riêng của họ(10).
Adam Smith sử dụng thuật ngữ “bàn tay vô hình” đế nói về quy luật thị trường, cụ thể là quy luật cạnh tranh để giải thích cho chức năng định hướng, điều tiết có hiệu quả đối với hành vi, hoạt động vì lợi ích riêng trong việc làm tăng lợi ích chung cho xã hội. Ông viết: “Khi theo đuổi lợi ích riêng, anh ta thực ra đã thúc đẩy lợi ích chung của toàn xã hội nhiều hơn là khi thực sự có ý định làm như vậy”(11). Adam Smith giải thích rõ “hệ thống tự do phát triển tự nhiên” thường được gọi là “thị trường tự do”, là hệ thống trong đó “Mỗi người chừng nào mà người đó không vi phạm pháp luật, đều được hoàn toàn tự do mưu cầu lợi ích riêng của mình theo cách của mình, và đem theo ngành nghề và vốn liếng của mình cạnh tranh với một người khác hoặc nhóm người khác”(12).
Quan niệm này cho thấy những yếu tố xã hội, gồm vốn thể chế, vốn xã hội và vốn con người tạo nguồn lực, tài sản cho phát triển bền vững vì hạnh phúc con người (trực tiếp gắn với tự do mưu cầu lợi ích riêng của mình), trong đó nổi bật nhất là thể chế pháp luật bảo đảm con người được tự do làm những gì không bị pháp luật cấm.
Lý thuyết Vốn vô hình
Năm 2008, Ngân hàng Thế giới vẫn phải dùng câu hỏi của Adam Smith để đặt tên cho cuốn sách là Của cải các quốc gia ở đâu?(13) để đo lường, lượng giá nguồn gốc của cải của các quốc gia trên thế giới. Câu trả lời là của cải của các quốc gia bắt nguồn từ (i) “vốn sản xuất” (produced capital), “vốn vô hình” (intangible capital) và “vốn tự nhiên” (natural capital). Năm 2008, tổng số các vốn con người, vốn xã hội và vốn thể chế rất khó đo lường và khó đánh giá nên được gọi tên là “vốn vô hình”. Có lẽ cũng vì không nhìn thấy và cũng không thuộc vốn sản xuất và vốn tự nhiên, nên vốn vô hình được đánh giá như một phần dư và được đo lường, lượng hóa bằng phép tính trừ, là chênh lệch (hiệu số) của tổng của cải trừ tổng vốn sản xuất và tổng vốn tự nhiên (vốn vô hình = tổng của cải - tổng vốn sản xuất - tổng vốn tự nhiên).
Năm 2011, Ngân hàng Thế giới xuất bản cuốn sách Sự thay đổi của cải của các quốc gia để đo lường của cải của các quốc gia, và nhờ vậy có thể quản lý được phát triển bền vững trong thiên niên kỷ mới. Điều này được ghi rõ trong câu mở đầu cuốn sách như một triết lý: “Cái gì không đo lường được thì cũng không quản lý được”(14). Tuy nhiên, các tác giả của cuốn sách vẫn tiếp tục dùng thuật ngữ “vốn vô hình” với nội dung và cách đo lường, đánh giá vẫn còn rất vô hình (như đã từng làm năm 2008 là lấy tổng số của cải trừ đi tổng số vốn sản xuất và vốn tự nhiên).
Lý thuyết Vốn con người
Năm 2021, Ngân hàng Thế giới xuất bản cuốn sách Của cải thay đổi của các quốc gia, nhưng không còn phụ đề “đo lường” như năm 2008 và 2011, mà ghi rõ là “quản lý các tài sản cho tương lai”. Để quản lý phát triển bền vững, tập thể tác giả cuốn sách đã thực hiện “một cuộc cách mạng khoa học”, theo thuật ngữ của Thomas Kuhn, là thay “vốn vô hình” bằng “vốn con người” (human capital) và được đo bằng giá trị quy đổi ra tiền của kỹ năng, kinh nghiệm và nỗ lực do người lao động tạo ra trong suốt cuộc đời làm việc của họ(15); vốn con người là thu nhập kỳ vọng trong tương lai của toàn bộ lực lượng lao động của xã hội(16). Vốn con người được ước tính là tổng giá trị hiện tại của thu nhập lao động dự kiến trong tương lai có thể được tạo ra trong suốt cuộc đời làm việc của lực lượng lao động hiện tại. Vốn con người được xác định như một tài sản tạo ra dòng lợi ích kinh tế trong tương lai. Nói ngắn gọn, mặt xã hội của phát triển bền vững không còn “vô hình” như trước, mà được xác định thông qua khái niệm “vốn con người” được đo lường, đánh giá bởi “lợi ích kinh tế” mà lực lượng lao động có trình độ giáo dục cao và sức khỏe tốt mang lại. Với “trình độ giáo dục cao và sức khỏe tốt”, vốn con người trực tiếp gắn với “hạnh phúc con người”. Như vậy, với cuộc cách mạng khoa học chuyển từ “vốn vô hình” hay “vốn xã hội” sang “vốn con người”, cách tiếp cận khoa học liên ngành về phát triển bền vững vừa nhấn mạnh vị thế, vai trò của “vốn con người” như một yếu tố chủ thể, yếu tố động lực sống động, đồng thời còn là giá trị đích thực mà phát triển bền vững hướng đến và đem lại – đó chính là “hạnh phúc con người”.
Lý thuyết Đầu tư vào vốn con người
Theo cách tiếp cận khoa học liên ngành, Theodore Schultz (người được giải thưởng Nobel về kinh tế học năm 1979) - nhà khoa học đầu tiên nghiên cứu “vốn con người” từ góc độ kinh tế học giáo dục(17). Lý thuyết đầu tư vào vốn con người được Gary Becker tiếp tục phát triển và công bố trong cuốn sách Vốn con người (năm 1964)(18) . Lý thuyết khoa học liên ngành về đầu tư vào vốn con người phát hiện ra hai điều cơ bản quan trọng, một là: vốn con người có khả năng sinh lời và đo lường, lượng hóa được bằng tiền, thí dụ, tỷ suất lợi nhuận tiền tệ bình quân của bậc giáo dục đại học có thể đạt từ 11% - 13%, tỷ suất này cao hơn nữa đối với cấp giáo dục trung học phổ thông và cao hơn nữa đối với cấp giáo dục tiểu học(19) . Điều này củng cố nguyên lý kinh tế học và kỳ vọng của xã hội về hiệu quả cao nhất của đầu tư vào con người và đầu tư vào vốn con người là đầu tư tốt nhất trong tất cả các loại vốn; hai là: không chỉ nhà quản lý, doanh nhân, mà gia đình và người lao động đều có thể đưa ra quyết định đối với đầu tư vào vốn con người dưới hình thức đầu tư cho giáo dục, đào tạo và đào tạo tại chỗ trên cơ sở phân tích đầu tư – lợi ích/chi phí – lợi ích.
Lý thuyết Xây dựng xã hội học tập
Joseph Stiglitz và cộng sự phát triển lý thuyết Xây dựng xã hội học tập(20) trên cơ sở kế thừa các quan điểm về sự cần thiết của việc xây dựng hệ thống tự do phát triển bảo đảm con người cạnh tranh với nhau để theo đuổi lợi ích riêng mà vẫn tạo ra lợi ích chung trong mối tương quan giữa dân số và kinh tế vì hạnh phúc con người và các lý thuyết khác về kinh tế giáo dục; đồng thời kế thừa các quan điểm của Robert Slow về chuỗi quan hệ nhân quả: tiến bộ kỹ thuật, công nghệ làm tăng năng suất lao động, từ đó làm tăng trưởng kinh tế, trong khi các yếu tố sản xuất gồm lao động và vốn tài chính đóng góp không nhiều; Ken Arrow nêu quan điểm về học tập thông qua làm việc (learning by doing), qua đó tạo ra sự tiến bộ kỹ thuật, công nghệ. Trên nền tảng lý luận trên, Stiglitz và cộng sự đưa ra lý thuyết về xã hội học tập nhấn mạnh sự cần thiết của việc cải tiến chính sách kinh tế hướng đến xây dựng xã hội học tập để tăng trưởng kinh tế, tăng phúc lợi xã hội, tăng mức sống của các quốc gia, nhất là của các nước đang phát triển.
Lý thuyết về xây dựng xã hội học tập được xem là lý thuyết R&D&B đối với khoa học liên ngành để phát triển nhanh, bền vững vì hạnh phúc con người. Lý thuyết xây dựng xã hội học tập giải thích và giải quyết những vấn đề đặt ra đối với sự phát triển bền vững trong thế kỷ XXI.
Nội dung cơ bản của lý thuyết xây dựng xã hội học tập là một chuỗi hoạt động có tính chất nhân quả, bao gồm: chính sách kinh tế =>xây dựng xã hội học tập => tạo động lực R&D và LbD (Learning by doing) => tiến bộ công nghệ => tăng năng suất lao động => tăng trưởng kinh tế => tăng phúc lợi => tăng mức sống => phát triển bền vững vì hạnh phúc con người. Trong chuỗi nhân quả này, hai mắt xích cơ bản, quan trọng nhất là. Thứ nhất: “Chính sách kinh tế” cho đến nay được xác định là chính sách hướng đến các yếu tố sản xuất, kinh doanh. Lý thuyết xây dựng xã hội học tập nhấn mạnh rằng cần cải tiến chính sách kinh tế nhằm vào xây dựng xã hội học tập để tạo động lực R&D và học tập, bởi chuỗi nhân quả này đóng vai trò quyết định đối với tăng trưởng kinh tế. Thứ hai, có thể định nghĩa “xã hội học tập” là xã hội tạo động lực học tập, khả năng học tập, thực hành học tập và lan tỏa tri thức trong tất cả các hành vi, hoạt động của xã hội. Giáo dục và đào tạo là phần tất yếu của xã hội học tập, tuy nhiên, lý thuyết xây dựng xã hội học tập đòi hỏi chính sách giáo dục và đào tạo cần phải hướng đến tạo động lực, năng lực học tập suốt đời cho tất cả dân số trong độ tuổi đến trường. Đồng thời, xã hội học tập được tạo bởi những yếu tố mới cần được xây dựng là các cơ quan học tập, các tổ chức học tập và nhất là các doanh nghiệp học tập có khả năng biến “nền kinh tế tri thức” thành “nền kinh tế học tập”, biến “lao động tri thức” thành “lao động có tư duy học tập” và lan tỏa tri thức sang toàn bộ nền kinh tế tạo nền tảng cho phát triển nhanh, bền vững vì hạnh phúc con người. Xây dựng xã hội học tập được Stiglitz và cộng sự coi là một cách tiếp cận mới cho tăng trưởng kinh tế, phát triển và biến bộ xã hội và được ghi trong phụ đề cuốn sách cùng tên(21).
2.3. Vận dụng các lý thuyết về phát triển bền vững vì hạnh phúc con người
trong đào tạo và lãnh đạo, quản lý phát triển xã hội
Vận dụng cách đo lường hạnh phúc con người
Cách tiếp cận khoa học liên ngành của Malthus xác định hạnh phúc con người là mục tiêu cuối cùng của tăng trưởng kinh tế trong mối quan hệ với dân số. Đến nay, “hạnh phúc” chính thức được nghiên cứu định lượng và công bố trên phạm vi toàn thế giới trong báo cáo hạnh phúc thế giới hàng năm (từ 2012 đến nay)(22) với các giải pháp phát triển bền vững(23).
Hạnh phúc được xác định là mức độ đánh giá cuộc sống (life evaluation) theo thang đo Cantril, từ mức tệ nhất (0) đến mức tốt nhất (10) và các tiêu chí khác về hành vi xã hội, quan hệ xã hội của con người. Câu hỏi để xác định mức độ hạnh phúc là: Giả sử có một cái thang với các bậc được đánh số từ 0 ở đáy đến 10 ở đỉnh. Bậc 10 cao nhất thể hiện cuộc sống có thể tốt nhất đối với bạn và bậc 0 thể hiện cuộc sống có thể tồi tệ nhất với bạn. Vậy trong thời điểm này bạn có thể cho biết bạn đang ở bậc nào trong cái thang này. Báo cáo năm 2025 cho biết Việt Nam tăng hạng lên thứ 47 về mức độ hạnh phúc trong tổng số 147 quốc gia, lãnh thổ được khảo sát(24).
Hạnh phúc con người là hạnh phúc của con người trong xã hội cụ thể, do vậy, được đánh giá thông qua các tiêu chí khác, thí dụ đánh giá qua hành vi xuất phát từ cá nhân như quyên góp, tự nguyện, giúp đỡ người khác và hành vi từ phía xã hội. Như vậy là, có thể vận dụng cách đo lường “hạnh phúc” để đánh giá mức độ hiệu quả thực sự của phát triển bền nhanh, bền vững.
Vận dụng mô hình R&D&B (Nghiên cứu, Phát triển, Khởi nghiệp)
Cách tiếp cận xã hội học liên ngành với các lý thuyết, khái niệm, phương pháp và phát hiện cần được giáo dục, đào tạo, huấn luyện thông qua mô hình/vòng xoáy R&D&B và ứng dụng trong lãnh đạo, quản lý phát triển bền vững vì hạnh phúc con người (Hình 3). Vòng xoáy R&D&B xoay quanh trục lõi khoa học liên ngành, cụ thể là xã hội học liên ngành với kinh tế học và khoa học tự nhiên (môi trường). Đồng thời vòng xoáy R&D&B lan tỏa tri thức khoa học liên ngành trong lãnh đạo, quản lý đối với các loại vốn sản xuất, vốn con người và vốn tự nhiên để phát triển bền vững vì hạnh phúc con người. Lãnh đạo, quản lý là quá trình hoạt động dựa trên R&D&B đối với hệ thống 8 chức năng bao gồm lập kế hoạch, tổ chức, nhân sự, chỉ đạo, phối hợp, báo cáo, ngân sách, kiểm soát và cải tiến. Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, lãnh đạo, quản lý phát triển bền vững dựa trên “bộ tứ trụ cột”(25), gồm Nghị quyết 57-NQ/TW ngày 22-12-2024 của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia xác định tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết 59-NQ/TW ngày 24-1-2025 của Bộ Chính trị về hội nhập quốc tế trong tình hình mới; Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng đổi mới công tác xây dựng và thi thành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước trong kỷ nguyên mới và Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.
Hình 3. Mô hình R&D&B trong xây dựng, quản lý các vốn sản xuất, vốn con người và vốn tự nhiên cho phát triển bền vững vì hạnh phúc con người

- Kết luận
Vận dụng khoa học liên ngành trong lãnh đạo, quản lý phát triển bền vững vì hạnh phúc con người là xu thế tất yếu và phù hợp với tầm nhìn chiến lược của Việt Nam trong giai đoạn mới. Điều này không chỉ đòi hỏi sự đổi mới tư duy, phương pháp lãnh đạo, quản lý mà còn cần xây dựng cơ chế phối hợp liên ngành, liên lĩnh vực và phát huy trí tuệ tập thể trong hoạch định, thực thi chính sách.
Kinh nghiệm quốc tế và thực tiễn đổi mới của Việt Nam cho thấy, khi phát triển gắn liền với khoa học, công nghệ và tri thức liên ngành sẽ tạo được động lực mới cho tăng trưởng, đồng thời giải quyết căn cơ những thách thức xã hội, bảo vệ môi trường và nâng cao chất lượng sống của nhân dân. Do đó, đặt con người ở vị trí trung tâm, lấy hạnh phúc làm thước đo của phát triển, đồng thời coi khoa học liên ngành là công cụ quan trọng trong lãnh đạo và quản lý chính là chìa khóa để Việt Nam tiến bước vững chắc trên con đường phát triển bền vững trong bối cảnh mới.
_________________
(1), (2) G.Brundtland: Report of the World Commission on Environment and Development: Our Common Future, United Nations General Assembly document A/42/427, 1987 3, 11.
(3) H.M.Thakshila Ruvini Herath and R.M.Prabodha Subhashini Rathnayake: A Critical Approach towards Sustainable Development Models - A Review, International Journal of Agriculture Innovations and Research. vol.7, iss.4, 2019, pp.2319-1473.
(4), (5), (6) V.I.Todorov and D.Marinova: Models of Sustainability, The 18th World IMACS/MODSIM Congress, Cairns, Australia, 13-17, July 2009, pp.1218-1220, 1218-1220,1218-1220.
(7) Lê Ngọc Hùng: Lý thuyết các khoa học giáo dục: Học tập, Lãnh đạo, Hành chính, Quản lý, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2025.
(8) Thomas Robert Malthus: Essay on the principle of population, John Murray, Albemarle street, London, 1798.
Tên đầy đủ của cuốn sách này là: “An Essay on the Principle of Population, or a View of its Past and Present Effects on Human Happiness; with an Inquiry into Our Prospects Respecting the Future Removal or Mitigation of the Evils which it Occasions”. Chữ “Human Happiness” nghĩa là Hạnh phúc con người”.
(9), (10), (11), (12) Adam Smith: An Inquiry into the Nature and Causes of the Wealth of Nations (Của cải của các dân tộc), Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997, tr.43, 43, 467, 655.
(13) Ngân hàng Thế giới: Của cải của các quốc gia ở đâu? Đo lường nguồn của cải Thế kỷ 21, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2008.
(14)Ngân hàng Thế giới: Sự thay đổi của cải của các quốc gia, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.xi.
(15), (16) World Bank: The Changing Wealth of Nations 2021: Managin assets for the future, World Bank Washington DC, 2021, tr. 28, 148-149 .
(17)Theodore Schultz: “Investment in Human Capital", The American Economic Review. Vol. 51, No. 1 (Mar., 1961), pp. 1-17.
(18), (19) Gary Becker: Human Capital: A Theoretical and Empirical Analysis, with Special Reference to Education (Vốn con người: Phân tích lý thuyết và kinh nghiệm, liên quan đặc biệt đến giáo dục), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 2010, tr.28, 28.
(20), (21) Joseph E. Stiglitz và Bruce C. Greenwald: Xây dựng xã hội học tập: cách tiếp cận mới cho tăng trưởng, phát triển và tiến bộ xã hội, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2017.
(22) Helliwell, J., Layard, R., & Sachs, J: World Happiness Report 2012. The Earth Institute, Columbia University. Retrieved from https://worldhappiness.report/ed/2012/, truy cập ngày 9 -8- 2025.
(23), (24) Helliwell, J. F., Layard, R., Sachs, J., & De Neve, J.-E: World Happiness Report 2025: Sustainable Development Solutions Network. https://worldhappiness.report/, truy cập ngày 9-8-2025, tr. 27, 27.
(25) Tô Lâm: “Thực hiện “Bộ tứ trụ cột” để tạo động lực mạnh mẽ đưa đất nước phát triển”, Tạp chí Cộng sản điện tử, truy cập ngày 9 -8 -2025.