Phát triển năng lực số cho công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng
(LLCT) - Sự phát triển đột phá của công nghệ số đã tạo nên làn sóng chuyển đổi chính phủ số để dẫn dắt phát triển kinh tế số và xã hội số. Chuyển đổi chính phủ số dẫn tới những thay đổi cơ bản về mô hình hoạt động, thay đổi về quy trình và cách thức vận hành của cả hệ thống quản lý nhà nước. Trước bối cảnh đó, việc nâng cao năng lực số cho công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng là yêu cầu cấp thiết nhằm thực hiện mục tiêu xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số và xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả. Bài viết nghiên cứu kinh nghiệm các nước trên thế giới trong bồi dưỡng nâng cao năng lực số cho công chức và đề xuất cập nhật, bổ sung nội dung về chuyển đổi số, chính phủ số, kỹ năng số trong các chương trình bồi dưỡng theo Nghị định 171/2025/NĐ-CP ngày 30-6-2025 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức. Nghiên cứu này được tài trợ bởi Bộ Khoa học và Công nghệ để thực hiện đề tài khoa học và công nghệ cấp quốc gia, mã số KC.01.03/21-30.
PGS, TS NGUYỄN THỊ THU VÂN
Học viện Hành chính và Quản trị công

1. Mở đầu
Các công nghệ số như điện toán đám mây (cloud computing), dữ liệu lớn (big data) và trí tuệ nhân tạo (AI), robot và tự động hóa, internet vạn vật (IoT), chuỗi khối (blockchain)… đang trở thành nền tảng cho những đổi mới trên toàn thế giới. Chính phủ số dựa trên việc sử dụng và tái sử dụng dữ liệu và phân tích dữ liệu để đơn giản hóa giao dịch cho người dân, doanh nghiệp cũng như các cơ quan chính phủ. Kết quả là tất cả các bên tham gia vào quá trình chuyển đổi số, đặc biệt là cán bộ, công chức cần phát triển những năng lực mới, đó là năng lực làm việc trong bối cảnh chuyển đổi số hay được gọi là năng lực số.
2. Nội dung
2.1. Sự cần thiết xây dựng năng lực số của công chức
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO), năng lực số là tổng hợp của năng lực sử dụng máy tính, năng lực công nghệ thông tin, năng lực thông tin và năng lực truyền thông. Đó là khả năng lựa chọn và sử dụng thành thạo, hiệu quả, an toàn các phương tiện công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ số (tìm kiếm thông tin, sử dụng các thiết bị công nghệ số, sử dụng mạng internet, các nghiệp vụ thanh toán trực tuyến, sử dụng các kênh truyền thông đa phương tiện, vận hành thiết bị(1)…
Tổ chức Hợp tác và phát triển kinh tế (OECD) tiếp cận năng lực số theo nghĩa rộng hơn, không chỉ bao gồm năng lực sử dụng các công nghệ thông tin, truyền thông và công nghệ số mà còn bao gồm các kiến thức, kỹ năng, phẩm chất cần thiết khác để thực thi hiệu quả nhiệm vụ được giao. Năng lực số của cá nhân là cách tiếp cận cá thể hóa, tính đến đặc điểm riêng của từng công chức hoạt động trong môi trường số(2).
Như vậy, năng lực số của công chức là sự am hiểu, là khả năng, kỹ năng, thái độ, kinh nghiệm công tác và các phẩm chất khác cần có để công chức thực thi hiệu quả chức trách, nhiệm vụ trong điều kiện phương thức làm việc, quản lý, điều hành, quy trình công việc được thực hiện trên môi trường số. Nếu cán bộ, công chức không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng cũng như trang bị cho mình năng lực số cần thiết thì sẽ rất khó khăn để bảo đảm và nâng cao chất lượng công việc và thực thi công vụ.
Để thực thi nhiệm vụ hiệu quả trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay, công chức cần có năng lực số ở cả ba nhóm năng lực: năng lực chung, năng lực chuyên môn và năng lực lãnh đạo, quản lý. Trong các quy định hiện hành, yêu cầu về chuẩn kỹ năng sử dụng công nghệ thông tin và các năng lực khác đối với các ngạch công chức cũng như trong các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cần được điều chỉnh, bổ sung phù hợp với yêu cầu chuyển đổi chính phủ số.
2.2. Kinh nghiệm phát triển năng lực số cho công chức tại một số quốc gia thông qua đào tạo, bồi dưỡng
Kinh nghiệm tại các quốc gia có chỉ số dẫn đầu về phát triển chính phủ điện tử, chính phủ số
Thực tiễn cho thấy, các quốc gia có chỉ số dẫn đầu về phát triển chính phủ số đều tập trung vào nâng cao năng lực số cho công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng. Các chương trình bồi dưỡng được thiết kế theo các nhóm phát triển năng lực số chung, năng lực số cho các vị trí việc làm theo chuyên môn và năng lực số cho người lãnh đạo, quản lý. Việc tổ chức xây dựng nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực số chung và năng lực số cho người lãnh đạo, quản lý do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng có uy tín hàng đầu quốc gia đảm nhận. Còn việc xây dựng nội dung, chương trình bồi dưỡng năng lực số gắn với các vị trí việc làm của từng lĩnh vực chuyên môn do các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng thuộc các bộ, ngành thực hiện.
Các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng hàng đầu quốc gia thực hiện bồi dưỡng năng lực số cho công chức tại các quốc gia dẫn đầu trong lĩnh vực chuyển đổi số và nội dung các chuyên đề bồi dưỡng(3).
Bảng 1. Các cơ sở hàng đầu thực hiện đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho công chức tại các quốc gia, vùng lãnh thổ dẫn đầu trong lĩnh vực chuyển đổi số
Quốc gia (nền kinh tế) | Các cơ sở hàng đầu quốc gia, vùng lãnh thổ thực hiện đào tạo, bồi dưỡng năng lực số cho công chức |
Hoa Kỳ | Đại học Công nghệ số |
Xinhgapo | Trường Chính sách công Lý Quang Diệu |
Thụy Điển | Viện Hành chính công Thụy Điển |
Đặc khu hành chính Hồng Kông (Trung Quốc) | Viện Đào tạo và Phát triển Công vụ |
Canada | Học viện Dịch vụ Kỹ thuật số Chính phủ |
Hà Lan | Viện Hành chính công châu Âu |
Hàn Quốc | Viện phát triển nguồn nhân lực quốc gia |
Phần Lan | Viện Hành chính công Phần Lan |
Anh | Học viện Công vụ |
Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất | Học viện Kỹ thuật số |
Áo | Viện Hành chính công Áo |
Về nội dung, các khóa học được tập trung vào các chuyên đề chính:
Bảng 2. Các chuyên đề chính trong bồi dưỡng nâng cao năng lực số
Các chuyên đề | Số cơ sở thực hiện chương trình |
Lãnh đạo trong thời đại kỹ thuật số | (7/11) 64% |
Bảo mật thông tin | (7/11) 64% |
Truyền thông kỹ thuật số và tương tác với người dân | (6/11) 55% |
Những công nghệ mới và thách thức | 5/11) 45% |
Phương tiện truyền thông và mạng xã hội | (5/11) 45% |
Thiết kế các dịch vụ kỹ thuật số tập trung vào người dùng | (5/11) 45% |
Phân tích dữ liệu và học máy | (5/11) 45% |
Trực quan hóa dữ liệu | (5/11) 45% |
Bảng trên cho thấy, phần lớn các chương trình đào tạo cho công chức (64%) tập trung vào giải quyết vấn đề ở hai lĩnh vực: an ninh thông tin và đào tạo các nhà lãnh đạo thành công trong thời đại kỹ thuật số. 55% các chương trình tập trung vào phát triển năng lực của công chức trong hệ thống hành chính công trong lĩnh vực truyền thông kỹ thuật số và tương tác với người dân. Ví dụ, ở Singapore, công chức chính phủ được đào tạo kỹ năng sử dụng văn phòng và văn thư, lưu trữ điện tử. Ở Hoa Kỳ, các khóa đào tạo riêng được tổ chức cho công chức về khả năng cung cấp thông tin cho công dân một cách đơn giản. Vấn đề quản lý mạng xã hội và hợp tác với truyền thông cũng được dành một vị trí đặc biệt trong các chương trình. Cùng với đó là các khóa bồi dưỡng về kỹ năng làm việc với dữ liệu (phân tích, giải thích và trực quan hóa đồ họa, thân thiện với người dùng) khi tạo ra các dịch vụ công.
Việc xây dựng và mở các mã ngành đại học và sau đại học mới liên quan đến hành chính số, chính phủ số cũng là một xu hướng ở các nước trên thế giới trong 3-5 năm trở lại đây. Ví dụ như: Chương trình Thạc sĩ về Quản trị số (Executive Master in e-Governance) tại Đại học Công nghệ Quốc gia Thụy Sĩ; Chương trình Thạc sĩ về Chuyển đổi số trong Quản trị công và chính sách công (Digital Public Management and Policy) tại Đại học Helsinki, Phần Lan; Chương trình Thạc sĩ về Chính phủ điện tử và quản trị công cho các nước ASEAN (KOICA-YONSEI Master's Degree Program in e-Government and Public Management for ASEAN), Hàn Quốc.
Kinh nghiệm phát triển năng lực số cho công chức tại Liên bang Nga
Để phát triển năng lực số, Chính phủ Liên bang Nga đặc biệt quan tâm đến các chương trình đào tạo, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng về chính phủ điện tử, chính phủ số và các kiến thức, kỹ năng liên quan đến phát triển năng lực số.
Một trong các chương trình bồi dưỡng công chức là Chương trình bồi dưỡng “Lãnh đạo số” do Quỹ Chương trình đào tạo kinh tế và quản lý Liên bang Nga xây dựng(4). Chương trình này gồm 13 nhóm nội dung, bao quát tất cả các lĩnh vực công tác của lãnh đạo, trong đó có đến 4 nhóm nội dung liên quan đến kỹ thuật số. Cụ thể là các nhóm nội dung sau: (i) Chuyển đổi kỹ thuật số trong cơ quan, tổ chức. (ii) Kỹ năng làm việc với Cổng thông tin điện tử quốc gia (bus.gov.ru)(5). (iii) Kỹ năng làm việc trên Cổng thông tin thống nhất của hệ thống ngân sách Liên bang Nga (budget.gov.ru)(6). Giám sát các dự án quốc gia trong hệ thống thông tin tích hợp “Ngân sách điện tử” (ГИИС “Элетрольный бюджет”).
Ở Nga, trong khuôn khổ dự án cấp liên bang “Nhân lực cho nền kinh tế số”, các chương trình đào tạo lại về chuyên môn và đào tạo nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho công chức được triển khai. Theo đánh giá phân tích về những thay đổi của nền kinh tế số năm 2018-2019, các trường đại học là nền tảng giáo dục chính cho các chương trình phát triển kỹ năng trong lĩnh vực công nghệ thông tin - truyền thông. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng lớn nhất cho công chức khu vực công là Trung tâm đào tạo các nhà quản lý chuyển đổi kỹ thuật số thuộc Học viện Kinh tế quốc dân và Hành chính công, trực thuộc Tổng thống Liên bang Nga, nơi vào năm 2019 có 13.000 công chức các cấp được đào tạo. Các chương trình đào tạo trong lĩnh vực công nghệ số do các trung tâm đào tạo này cung cấp:
Bảng 3. Các chương trình, chuyên đề bồi dưỡng nâng cao năng lực số cho công chức tại Liên bang Nga
Tên Chương trình | Đối tượng | Các chuyên đề |
1. Tại Trung tâm đào tạo các nhà quản lý chuyển đổi kỹ thuật số thuộc Học viện Kinh tế quốc dân và Hành chính công, trực thuộc Tổng thống Liên bang Nga | ||
Lãnh đạo chuyển đổi số | Thứ trưởng, Tổng cục trưởng | 1) Nội dung và khuôn khổ chuyển đổi số 2) Chuyển đổi kỹ thuật số trong hành chính công 3) Thiết kế tổ chức trong chính phủ số 4) Những thay đổi về tổ chức, phương tiện giao tiếp và ra quyết định trong chính phủ số 5) Kỹ năng của người lãnh đạo trong bảo mật thông tin số, ứng dụng dữ liệu lớn, trí tuệ nhân tạo 6) Kinh nghiệm liên ngành trong việc chuyển đổi hành chính công và triển khai các giải pháp nền tảng 7) Xây dựng các đề án, dự án chuyển đổi số |
Tổ chức thực hiện các chương trình, dự án chuyển đổi số | - Người đứng đầu về chuyển đổi số của cơ quan vùng và cơ quan hành chính địa phương - Những người tham gia dự án phát triển kỹ thuật số của chính quyền | 1) Phát triển kỹ thuật số 2) Phát triển văn hóa số trong tổ chức 3) Sử dụng các công nghệ số như công cụ quản lý hiện đại 4) Kỹ năng làm việc với dữ liệu 5) Kỹ năng làm việc trên môi trường số 6) Xây dựng cơ sở hạ tầng và nền tảng số 7) Tổ chức thực hiện chương trình, đề án, dự án chuyển đổi số |
Chuyển đổi số và kinh tế số | Công chức cấp trung ương, cấp vùng và địa phương | 1) Tổng quan về chuyển đổi số và kinh tế số 2) Các mô hình chuyển đổi số 3) Nhân lực trong nền kinh tế số 4) Kiến tạo và xây dựng các dự án kỹ thuật số pục vụ phát triển kinh tế. |
Nâng cao năng lực chung về chuyển đổi số | Công chức và lãnh đạo cấp phòng, cấp sở, vụ | 1) Phần cơ bản: phát triển kỹ thuật số 2) Phần chuyên sâu: - Công cụ quản lý - Làm việc với dữ liệu - Văn hóa tổ chức và đội ngũ chuyển đổi số - Cơ sở hạ tầng số |
2. Trung tâm Năng lực nhân sự cho nền kinh tế số tại các trường đại học | ||
Nâng cao năng lực chuyên ngành về chuyển đổi số | Công chức cấp liên bang và cấp vùng chịu trách nhiệm thực hiện các chính sách quốc gia chương trình “Kinh tế kỹ thuật số” | 1) Giới thiệu về quản lý dựa trên dữ liệu 2) Các khía cạnh pháp lý của quản lý dựa trên dữ liệu 3) Các khía cạnh công nghệ của quản lý dựa trên dữ liệu: - Chuẩn bị dữ liệu và kiến trúc - Trí tuệ nhân tạo và dữ liệu lớn; - Phương pháp phân tích dữ liệu và học máy - Trực quan hóa dữ liệu - Kiểm tra dữ liệu và hệ thống - Thực hiện các dự án quản lý dữ liệu - Chuẩn bị dữ liệu; - Các phương pháp công nghệ phần mềm 4) Các khía cạnh tổ chức của quản lý dựa trên dữ liệu 5) Các khía cạnh ngành của quản lý dựa trên dữ liệu |
Bảng trên cho thấy, chương trình đào tạo lại, bồi dưỡng công chức trong lĩnh vực số hóa được thiết kế cho các nhóm công chức lãnh đạo, quản lý và thực thi, thừa hành. Nội dung tập trung vào những vấn đề mà công chức đang hạn chế về năng lực, đặc biệt là năng lực lãnh đạo, năng lực kỹ thuật số, năng lực xây dựng và triển khai các đề án, dự án chuyển đổi số theo các mảng lĩnh vực chuyên sâu. Các khóa đào tạo, bồi dưỡng được xây dựng từ các chương trình cơ bản đến nâng cao.
Tại Liên bang Nga, từ năm 2017, cùng với phát triển chương trình đại học, Học viện Kinh tế quốc dân và Công vụ, trực thuộc Tổng thống Liên bang Nga đã mở các chương trình đào tạo thạc sĩ, thời gian đào tạo 2 năm chuyên ngành “Chính phủ số” thuộc khối ngành “Quản lý nhà nước và địa phương”. Học viện đã triển khai các chương trình liên kết đào tạo theo chuyên ngành này bằng tiếng Anh và tiếng Pháp. Ví dụ, Khoa Khoa học chính trị, Đại học Quốc gia St. Petersburg mở ngành thạc sĩ Quản lý công số. Chuyên ngành tương tự như vậy cũng được mở tại nhiều trường đại học và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng công chức.
2.3. Phát triển năng lực số cho công chức ở Việt Nam thông qua đào tạo, bồi dưỡng
Ở Việt Nam, yêu cầu phát triển Chính phủ số, kinh tế số, xã hội số đòi hỏi công chức cần có những thay đổi cơ bản. Công chức lãnh đạo các cấp cần được đào tạo, bồi dưỡng để chuyển đổi nhận thức, sẵn sàng, quyết liệt, làm gương ứng dụng công nghệ số trong công tác quản lý, điều hành; sử dụng thành thạo công cụ số trong xử lý công việc nội bộ và cung cấp dịch vụ số cho người dân(7).
Chương trình Chuyển đổi số quốc gia (ban hành kèm theo Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03-6-2020 của Thủ tướng Chính phủ) xác định một trong các nhiệm vụ, giải pháp đối với các cơ sở đào tạo đại học và sau đại học, đó là: “Xây dựng các mã ngành đào tạo mới và cập nhật chương trình đào tạo nhân lực chuyên nghiệp ở đại học và các trường cao đẳng, dạy nghề với các nội dung liên quan đến dữ liệu và công nghệ số như trí tuệ nhân tạo, khoa học dữ liệu, điện toán đám mây, internet vạn vật, chuỗi khối, dữ liệu lớn; Xây dựng trung tâm nghiên cứu, đào tạo nhân lực về trí tuệ nhân tạo và các công nghệ số liên quan để đào tạo nhân lực chuyển đổi số”.
Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021 - 2025, định hướng đến năm 2030 (ban hành kèm theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15-6-2021 của Thủ tướng Chính phủ) yêu cầu: “Rà soát, cập nhật khung năng lực, chuẩn kỹ năng công nghệ thông tin tích hợp kỹ năng số cho cán bộ, công chức, viên chức nhà nước. Đưa nội dung đào tạo về kỹ năng số vào chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước”.
Đặc biệt mới đây, để phù hợp với chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước trong bối cảnh mới của đất nước, Nghị định 171/2025/NĐ-CP ngày 30-6-2025 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng công chức đã được ban hành. Nghị định xác định các nội dung bồi dưỡng gồm: (i) Lý luận chính trị; (ii) Kiến thức quốc phòng và an ninh; (iii) Kiến thức, kỹ năng quản lý nhà nước; (iv) Kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm; (v) Kiến thức khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kỹ năng số, công nghệ số.
Trong các chương trình trên, việc rà soát và lồng ghép các nội dung chuyển đổi số là yêu cầu mang tính nguyên tắc. Để thực hiện các nhiệm vụ trên, một số đề xuất cụ thể về xây dựng, phát triển các chương trình đào tạo, bồi dưỡng cho công chức như sau:
Một là, đối với các chương trình bồi dưỡng chung về kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước, cần rà soát cập nhật, bổ sung kiến thức về chuyển đổi số, chính phủ số và kỹ năng số.
Từ năm 2022, trong các chương trình bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước cho công chức ngạch chuyên viên, chuyên viên chính, chuyên viên cao cấp và tương đương theo Nghị định số 101/2017/NĐ-CP ngày 01-9-2017 của Chính phủ về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức và Nghị định số 89/2021/NĐ-CP ngày 18-10-2021 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 101/2017/NĐ-CP, cùng với việc cập nhật, bổ sung nội dung chuyển đổi số trong các chuyên đề đã có, nhiều chuyên đề đã được xây dựng mới đưa vào chương trình như: Kỹ năng làm việc trên môi trường số (chương trình chuyên viên); Chính phủ điện tử và Chính phủ số; Kỹ năng quản lý thông tin và đảm bảo an toàn thông tin (chương trình chuyên viên chính); Quản lý chuyển đổi số quốc gia; An ninh phi truyền thống (chương trình chuyên viên cao cấp).
Ngoài ra, nhiều chương trình, tài liệu về chuyển đổi số đã được triển khai xây dựng, cập nhật nhằm nâng cao năng lực số cho công chức như Chương trình, tài liệu bồi dưỡng về Chính phủ điện tử (Bộ Nội vụ, năm 2020); Chương trình, tài liệu bồi dưỡng nghiệp vụ quản lý công chức, viên chức (Bộ Nội vụ, năm 2023); Chương trình, tài liệu bồi dưỡng đội ngũ công chức, viên chức trẻ tạo nguồn lãnh đạo các cấp của Bộ Nội vụ năm 2024; Chương trình, tài liệu bồi dưỡng về chuyển đổi số trong lĩnh vực quản lý văn hóa (Học viện Hành chính Quốc gia, nay là Học viện Hành chính và Quản trị công, năm 2024)…
Với bối cảnh, yêu cầu mới đặt ra và để thực hiện Nghị định 171/2025/NĐ-CP của Chính phủ ngày 30-6-2025 về đào tạo, bồi dưỡng công chức, trong các Chương trình bồi dưỡng lãnh đạo, quản lý cấp thứ trưởng, cấp vụ, cấp sở, cấp phòng và tương đương, tùy theo nhóm đối tượng của từng chương trình, có thể tiếp tục kế thừa và phát triển các chuyên đề gắn với chuyển đổi số và kỹ năng số đã xây dựng ở trên, các chương trình mới cần được tiếp tục cập nhật, bổ sung toàn diện, đầy đủ hơn nữa; nội dung chuyển đổi số cần được lồng ghép sâu hơn nữa ở tất cả các chuyên đề, ở các mảng kiến thức chung về nhà nước, pháp luật, lý luận về hành chính nhà nước (với các nội dung về nhà nước số, sự thay đổi chức năng của nhà nước trong chính phủ số; vai trò của chính phủ số trong xây dựng nền quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả; yêu cầu về xây dựng thể chế, chính sách, về xây dựng nguồn nhân lực trong bối cảnh chuyển đổi số; thay đổi về quy trình ban hành chính sách, văn bản quy phạm pháp luật trên cơ sở ứng dụng các công nghệ số, nền tảng số…); về ra quyết định dựa trên dữ liệu số; về tái cấu trúc quy trình thủ tục hành chính; về chuyển đổi từ cung cấp dịch vụ công trực tuyến sang dịch vụ công số với mô hình “một cửa số quốc gia”; về chuyển đổi số trong quản lý nhà nước trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội; về chuyển đổi số trong quản trị nội bộ cơ quan nhà nước; về văn hóa số, đạo đức số của công chức; về quản trị truyền thông và bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng trên môi trường số…
Hai là, đối với các chương trình bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng theo yêu cầu vị trí việc làm, cần xây dựng các chuyên đề gắn với nhóm năng lực chuyên môn tập trung vào các nội dung như: Quản lý và sử dụng dữ liệu; Kỹ năng ứng dụng các công nghệ số; Kỹ năng tổ chức thực hiện chiến lược chính phủ số…
Ba là, đối với các chương trình bồi dưỡng kiến thức khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo, kỹ năng số, công nghệ số, cần xây dựng các chuyên đề gồm:
- Các chuyên đề gắn với nhóm năng lực số chung của cán bộ, công chức như: Tổng quan về dữ liệu số; Kỹ năng trao đổi thông tin trong môi trường số; Kỹ năng sử dụng AI và làm việc với các hệ thống phân tích thông tin, quản lý dữ liệu, thông tin và nội dung số; Kỹ năng giải quyết công việc trong trục liên thông văn bản điện tử giữa các cơ quan và tạo lập nội dung số; Kỹ năng bảo đảm an toàn thông tin môi trường số: an toàn và bảo vệ dữ liệu, bảo mật thông tin, bảo vệ thiết bị, bảo vệ môi trường số; Kỹ năng giải quyết sự cố môi trường số.
- Các chuyên đề gắn với nhóm năng lực lãnh đạo, quản lý, tập trung vào các nội dung như: Phát triển tầm nhìn và tư duy chiến lược đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số; Hoạch định và thực thi chính sách phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chính sách chuyển đổi số; Quản lý đổi mới sáng tạo và kỹ năng tư duy đổi mới sáng tạo trong cơ quan nhà nước; Kỹ năng quản lý sự thay đổi gắn với chuyển đổi số; Kỹ năng quản lý nhân sự phù hợp với yêu cầu chuyển đổi số; Xây dựng và quản lý các đề án, dự án chuyển đổi số; Xây dựng và quản lý các hệ thống cơ sở dữ liệu số.
Bốn là, nghiên cứu phát triển các chương trình đào tạo
Trước hết, cần rà soát cập nhật, bổ sung kiến thức về chuyển đổi số, chính phủ số và kỹ năng số vào các chương trình đào tạo đại học, sau đại học các ngành quản lý công, quản lý nhà nước, chính sách công cũng như các chuyên ngành mà có mục tiêu đào tạo các vị trí việc làm trong cơ quan nhà nước.
Khẩn trương triển khai nghiên cứu xây dựng mở các chuyên ngành gắn với quản trị số, văn thư, lưu trữ số… thuộc chương trình đào tạo đại học và thạc sĩ. Việc phát triển chương trình đào tạo sẽ theo hướng ứng dụng, cần bổ sung thêm các học phần về công nghệ thông tin, công nghệ số để có chuẩn đầu ra đáp ứng yêu cầu trong bối cảnh chuyển đổi số.
Khi thiết kế các chương trình đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển chuyên môn năng lực số của công chức đòi hỏi phải xây dựng nền tảng đáng tin cậy để bảo đảm chất lượng đào tạo như: cần xác định năng lực số phù hợp với từng nhóm nhân sự, tạo khuôn khổ pháp lý, xây dựng hợp tác với các nhà cung cấp dịch vụ và công nghệ giáo dục, và đồng thời, dựa trên các chương trình và tổ chức đào tạo liên tục, giám sát quá trình đào tạo và kết quả của nó.
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, các Học viện Chính trị khu vực, Học viện Hành chính và Quản trị công cần đi đầu trong công tác ứng dụng công nghệ, đào tạo nguồn nhân lực hành chính phục vụ cho chuyển đổi số quốc gia.
Năm là, đổi mới phương pháp giảng dạy
Cùng với việc đổi mới chương trình, tài liệu thì năng lực và phương pháp giảng dạy của giảng viên cũng cần được đổi mới và nâng cao. Bản thân đội ngũ giảng viên cơ hữu ở tất cả các mảng kiến thức và kỹ năng quản lý nhà nước cần tăng cường học tập, nghiên cứu các nội dung của chuyển đổi số gắn với lĩnh vực chuyên môn của mình. Đồng thời, năng lực kỹ thuật số của công chức chỉ có thể được phát triển nếu học viên, sinh viên được tiếp cận các phương pháp giảng dạy sử dụng công nghệ của giảng viên và được tiếp cận học tập dựa trên thực hành để phát triển khả năng sử dụng các công cụ kỹ thuật số, được trải nghiệm hình thức học tập hiện đại. Giảng viên cần có năng lực sử dụng các công nghệ số trong xây dựng và thực hiện bài giảng như công cụ thiết kế các trang trình chiếu, sử dụng AI; có kỹ năng giảng dạy trên các nền tảng trực tuyến và từ xa hiệu quả. Đối với các chuyên đề gắn với chuyển đổi số, cung cấp kiến thức và kỹ năng số cũng cần thu hút sự tham gia thỉnh giảng của các chuyên gia công nghệ số, các nhà quản lý trong lĩnh vực này.
Sáu là, thúc đẩy chuyển đổi số tại các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng
Việc đào tạo, bồi dưỡng không thể được thực hiện nếu không sử dụng tích cực công nghệ số trong chính quá trình đào tạo, bồi dưỡng. Bản thân quá trình chuyển đổi số phải được thực hiện mạnh mẽ và tích cực trong chính cơ sở đào tạo, bồi dưỡng như một công cụ dạy - học. Chuyến đổi số trong các hoạt động giảng dạy, quản lý đào tạo, quản trị nội bộ là một trong những định hướng trọng tâm của các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Điều này sẽ tạo cơ hội cho học viên, sinh viên có được các kỹ năng thực tế khi làm việc với hệ thống quản lý hiện đại trong thời gian học tập tại trường, để sử dụng trong các hoạt động nghề nghiệp sau này.
3. Kết luận
Chuyển đổi Chính phủ số có vai trò dẫn dắt chuyển đổi số quốc gia. Đặc biệt trong bối cảnh sắp xếp, sáp nhập các quan hành chính nhà nước, tổ chức chính quyền địa phương hai cấp thì việc vận hành bộ máy hành chính trên các nền tảng số được xác định là cầu nối “sống còn”. Tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức là nhiệm vụ, sứ mạng của Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh và các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức theo sự phân công, phân cấp. Những đề xuất cụ thể nhằm nâng cao năng lực số cho công chức thông qua đào tạo, bồi dưỡng góp phần cung cấp luận cứ khoa học và thực tiễn trong xây dựng nội dung, chương trình đào tạo, bồi dưỡng công chức ở Việt Nam trong bối cảnh mới.
_________________
Ngày nhận bài: 18-8-2025; Ngày bình duyệt: 20-8-2025; Ngày duyệt đăng: 22-9-2025.
Email tác giả: vanntt@apag.edu.vn.
(1) UNESCO: A global framework of reference on digital literacy, UNESCO Institute for Statistics, 2018.
(2), (6) OECD. Skills for a digital world: 2016 ministerial meeting on the digital economy background report / OECD Digital Economy Papers, 2016, No. 250. Paris: OECD Publishing. http:// www.oecd-ilibrary.org/science-and-technology/skills-for-a-digitalworld_5jlwz83z3wnw-en.
(3) Профессиональное развитие цифровых компетенций современных государственных служащих: российский и зарубежный опыт. К. В. Петровна, В. М. Юрьевна. Государственное управление. Электронный вестник. Выпуск № 88. Октябрь 2021 г.
(4), (5) Tumbas, S., Berente, N., & Brocke, J. V. Digital innovation and institutional entrepreneurship: Chief digital officer perspectives of their emerging role //Journal of Information Technology. - 2018. - 33(3). - P. 188-202.
(7) Bộ Thông tin và Truyền thông: Cẩm nang chuyển đổi số, Hà Nội, 2020, https://mic.gov.vn. tr. 25.