Diễn đàn

Truyền thông chính sách của Việt Nam trong bối cảnh chuyển đổi số

26/09/2025 16:08

(LLCT) - Truyền thông chính sách là công cụ chiến lược giúp kết nối Nhà nước và xã hội, bảo đảm tính minh bạch và thúc đẩy sự tham gia của người dân trong xây dựng, thực thi và giám sát chính sách. Trong kỷ nguyên số, sự phát triển của công nghệ tạo điều kiện nâng cao hiệu quả truyền thông, song cũng đặt ra yêu cầu đổi mới nội dung, phương thức và năng lực triển khai. Bài viết phân tích nội dung và vai trò của truyền thông chính sách ở Việt Nam, từ đó đề xuất định hướng giải pháp xây dựng hệ sinh thái truyền thông chính sách số, tương tác và tự chủ, góp phần nâng cao hiệu lực quản trị và củng cố niềm tin công chúng trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc.

TS NGUYỄN DUY QUỲNH
Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn
Đại học Quốc gia Hà Nội

truyen thong chinh sach trong boi canh chuyen doi so va hoi nhap quoc te hinh anh 3
Nhà báo Lê Quốc Minh, Tổng biên tập Báo Nhân Dân phát biểu tại Hội thảo khoa học quốc tế “Truyền thông chính sách trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế"_Ảnh: VOV

1. Mở đầu

Trong bối cảnh chuyển đổi số và toàn cầu hóa thông tin, truyền thông chính sách ngày càng giữ vị trí then chốt trong quản trị quốc gia. Đây không chỉ là kênh truyền tải chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với công chúng, mà còn là công cụ chiến lược để tăng cường minh bạch, thúc đẩy đối thoại và mở rộng sự tham gia của người dân vào quá trình hoạch định, thực thi và giám sát chính sách.

Tại Việt Nam, sự phổ cập Internet cùng sự phát triển nhanh chóng của các nền tảng kỹ thuật số như mạng xã hội, trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (Big Data), hay cổng thông tin tích hợp đã tạo điều kiện để nâng cao hiệu quả kết nối giữa Nhà nước và công dân. Các công cụ và phương thức mới đang làm thay đổi cách thức xây dựng và lan tỏa thông điệp chính sách, giúp thông tin được truyền tải nhanh chóng, đa dạng và tương tác hơn bao giờ hết. Trong bối cảnh đó, việc nhận diện đầy đủ nội dung và phương thức triển khai truyền thông chính sách trở nên cần thiết, góp phần quan trọng vào quản trị quốc gia, đưa đất nước phát triển bền vững.

Bài viết sử dụng cách tiếp cận phân tích - tổng hợp, trên cơ sở các văn kiện, pháp luật, chiến lược quốc gia, số liệu thống kê chính thức và minh họa thực tiễn, nhằm làm rõ vai trò và định hướng nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách của Việt Nam trong kỷ nguyên số ở Việt Nam.

2. Nội dung

2.1. Nội dung của truyền thông chính sách ở Việt Nam

Trong quản trị quốc gia hiện đại, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số, nội dung truyền thông chính sách giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm dòng thông tin thông suốt giữa Nhà nước và xã hội. Việc xác định rõ thông điệp, đối tượng, phương tiện và mục tiêu truyền đạt giúp các chủ trương, đường lối của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước đến với công chúng một cách chính xác, kịp thời, đồng thời mở ra không gian để người dân đóng góp ý kiến, giám sát và đồng hành trong quá trình hoạch định, thực thi chính sách. Nội dung truyền thông chính sách vì thế trở thành trung tâm của toàn bộ hoạt động truyền thông công vụ, quyết định hiệu quả lan tỏa thông tin và mức độ đồng thuận xã hội.

Trong nghiên cứu học thuật, truyền thông chính sách được tiếp cận dưới nhiều góc độ khác nhau. Truyền thông chính sách là quá trình tương tác, trao đổi, chia sẻ thông tin giữa các cơ quan truyền thông nhà nước với đông đảo quần chúng trong chu trình chính sách, bao gồm: nhận diện vấn đề chính sách; hoạch định chính sách; thực thi chính sách và đánh giá chính sách nhằm thúc đẩy sự phát triển của đất nước và sự đồng thuận trong xã hội(1). Truyền thông chính sách được tiếp cận như một hoạt động có chủ đích của các chủ thể công quyền, vừa truyền đạt và giải thích chính sách, vừa tiếp nhận phản hồi để điều chỉnh, đồng thời là công cụ quản lý truyền thông phục vụ chính phủ(2).

Ở góc nhìn marketing công, truyền thông chính sách là “trao đổi marketing trong chính sách công” là một phần trong hoạt động của chính phủ nhằm thực thi chính sách cụ thể. Quá trình này dựa trên việc sử dụng các công cụ marketing, trong đó có truyền thông và cung cấp thông tin, để tạo ra sự hiểu biết, chấp nhận và hợp tác từ phía công chúng(3).

Từ những quan điểm trên, có thể khái quát truyền thông chính sách là quá trình chủ động và có định hướng của các cơ quan nhà nước nhằm cung cấp, giải thích và lan tỏa thông tin chính sách đến công chúng một cách minh bạch, kịp thời, đồng thời tiếp nhận phản hồi để điều chỉnh, qua đó tạo sự hiểu biết, hợp tác và đồng thuận xã hội trong toàn bộ chu trình và vòng đời của chính sách.

Ở Việt Nam, mục tiêu xuyên suốt của truyền thông chính sách là bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, minh bạch; nâng cao hiểu biết của công dân; khuyến khích sự tham gia tích cực của công dân vào toàn bộ chu trình chính sách. Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 xác định đây là công cụ then chốt để nâng cao hiệu lực quản lý, phục vụ người dân, doanh nghiệp và tăng cường trách nhiệm giải trình.

Nội dung truyền thông chính sách tập trung vào bốn phương diện chính. Một là, phổ biến và giải thích chính sách để công chúng hiểu rõ mục tiêu, nội dung, đối tượng áp dụng và phương thức thực hiện, đồng thời giải đáp kịp thời các thắc mắc của người dân. Hai là, hướng dẫn thực thi bằng chỉ dẫn cụ thể, dễ hiểu, giúp chuyển tải quy định pháp luật từ dạng văn bản sang thông tin gần gũi. Ba là, phản hồi và xử lý thông tin sai lệch, đặc biệt trên không gian mạng, nhằm đính chính và định hướng dư luận. Bốn là, tổ chức đối thoại và tham vấn công chúng, tận dụng các nền tảng trực tuyến để tạo môi trường tương tác hai chiều, giúp người dân không chỉ tiếp nhận mà còn tham gia kiến tạo chính sách.

Về phương thức, truyền thông chính sách hiện nay vận hành trên nền tảng kết hợp hài hòa giữa báo chí và các kênh truyền thông số. Các loại hình báo chí truyền thống như báo in, phát thanh, truyền hình tiếp tục giữ vai trò bảo đảm độ tin cậy và sự chuẩn xác thông tin. Song song với đó, các nền tảng số như cổng thông tin, báo điện tử, mạng xã hội, chatbot, livestream, video ngắn hay infographic đã mở rộng đáng kể phạm vi tiếp cận và nâng cao mức độ tương tác với công chúng. Đây là mô hình kết hợp giữa công nghệ số và phương tiện truyền thống, tối ưu hóa hiệu quả truyền thông với đặc trưng nổi bật là tốc độ lan tỏa nhanh và độ phủ rộng, đặc biệt trong bối cảnh Việt Nam có lượng người dùng Internet và mạng xã hội thuộc nhóm cao nhất trong khu vực.

2. 2. Vai trò của truyền thông chính sách trong bối cảnh chuyển đổi số

Trong bối cảnh chuyển đổi số, truyền thông chính sách không chỉ đơn thuần là công cụ phổ biến thông tin từ chính quyền tới người dân, mà còn là một bộ phận quan trọng của quá trình quản trị quốc gia hiện đại. Với khả năng lan tỏa nhanh, tương tác đa chiều và thích ứng linh hoạt của công nghệ số, truyền thông chính sách có vai trò ngày càng lớn trong việc nâng cao hiệu quả thực thi chính sách, tăng cường sự tham gia của công chúng. Vai trò đó được thể hiện ở các phương diện sau:

Một là, truyền thông chính sách là công cụ hiện đại hóa quản trị quốc gia và tăng cường tương tác với nhân dân. Kỷ nguyên số mở ra khả năng tương tác nhanh chóng, trực tiếp và đa chiều giữa chính quyền với người dân. Nếu trước đây, thông tin chính sách chủ yếu được truyền tải một chiều qua các phương tiện truyền thống, thì nay, với sự bùng nổ của internet và mạng xã hội, các cơ quan nhà nước có thể tiếp cận và đối thoại với công chúng một cách linh hoạt, hiệu quả hơn. Các nền tảng số như cổng thông tin điện tử, ứng dụng di động, mạng xã hội và các công cụ tương tác tự động (chatbot) đã trở thành kênh quan trọng để phổ biến chính sách, pháp luật, giải đáp thắc mắc và tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của người dân một cách kịp thời. Sự pha trộn giữa truyền thông truyền thống và truyền thông kỹ thuật số trong một “hệ sinh thái truyền thông lai” (Hybrid media system) đang góp phần tái cấu trúc dòng chảy thông tin và định hình lại quan hệ quyền lực chính trị trong xã hội đương đại(4). Điều này đặt nền móng cho việc chính phủ và tổ chức trong khu vực công mở rộng các kênh tương tác và cung cấp thông tin qua môi trường số cho người dân.

Thực hiện xây dựng Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số, như Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử hướng tới Chính phủ số giai đoạn 2021-2025, định hướng đến năm 2030 của Việt Nam, là minh chứng rõ nét cho vai trò này. Chiến lược không chỉ nhấn mạnh việc đổi mới hoạt động quản lý nhà nước, nâng cao hiệu quả cung cấp dịch vụ công trực tuyến, mà còn hướng đến một nền hành chính minh bạch, hiện đại, lấy người dân và doanh nghiệp làm trung tâm phục vụ(5).

Hai là, truyền thông chính sách đóng vai trò nền tảng trong việc củng cố niềm tin và tạo dựng đồng thuận xã hội. Một hệ thống truyền thông minh bạch, phản ứng nhanh và có năng lực giải thích sẽ giúp công chúng hiểu rõ mục tiêu và tác động của chính sách, từ đó gia tăng sự ủng hộ và hợp tác trong thực thi chính sách, giúp chính quyền phòng ngừa khủng hoảng truyền thông và xử lý kịp thời dư luận tiêu cực. Một chính phủ minh bạch, có chính sách truyền thông tốt sẽ hạn chế được tiêu cực, khủng hoảng và giữ vững niềm tin của công chúng(6). Điển hình là trong đại dịch Covid-19, hệ thống truyền thông chính sách của Việt Nam đã phát huy vai trò dẫn dắt dư luận, cung cấp thông tin kịp thời, qua đó góp phần ổn định xã hội và kiểm soát dịch bệnh hiệu quả.

Ba là, truyền thông chính sách giữ vai trò chủ lực trong xây dựng “hệ miễn dịch xã hội” trước tin giả. Trong bối cảnh nhiễu loạn thông tin toàn cầu, không quốc gia nào có thể dựa hoàn toàn vào biện pháp hành chính hay kỹ thuật nếu thiếu một chiến lược truyền thông đủ mạnh và lan tỏa. Truyền thông chính sách hiện đại cần chuyển từ thế bị động sang chủ động kiến tạo không gian công luận, định hình dòng thông tin chủ lưu, dẫn dắt nhận thức xã hội. Điều này đòi hỏi năng lực phân tích dữ liệu lớn, ứng dụng AI để theo dõi dư luận và phản hồi chính sách nhanh chóng, linh hoạt.

Tại Việt Nam, việc hoàn thiện hành lang pháp lý như Luật An ninh mạng năm 2018, Nghị định số 53/2022/NĐ-CP của Chính phủ quy định một số điều của Luật An ninh mạng và việc ứng dụng công nghệ AI để phát hiện, xử lý thông tin xấu độc cho thấy quyết tâm tăng cường năng lực phản ứng chính sách trong môi trường truyền thông số. Đồng thời, đẩy mạnh truyền thông chính sách một cách bài bản, có chiều sâu là biện pháp quan trọng nhằm giảm thiểu khoảng trống truyền thông và ngăn chặn sự lây lan của thông tin độc hại.

Bốn là, truyền thông chính sách đóng vai trò động lực phát huy dân chủ, minh bạch và đồng thuận xã hội. Trong kỷ nguyên số, truyền thông chính sách không chỉ là kênh truyền đạt thông tin một chiều, mà trở thành không gian đối thoại, nơi người dân có thể tiếp cận, phản hồi và góp ý xây dựng chính sách theo thời gian thực. Công nghệ số tạo điều kiện cho công chúng dễ dàng tiếp cận thông tin chính sách, tham gia thảo luận, đóng góp ý kiến xây dựng và giám sát việc thực thi chính sách. Nhiều quốc gia trên thế giới đã và đang nỗ lực xây dựng các mô hình quản trị nhà nước hiện đại và quản trị dựa trên các nền tảng của công nghệ số như chính phủ điện tử, dân chủ điện tử, công dân điện tử, chính phủ số, dân chủ từ xa và dân chủ trên không gian mạng(7).

Để hiện thực hóa mục tiêu này, cần đầu tư phát triển các nền tảng truyền thông số nội địa có tính tương tác cao, đồng thời nâng cao năng lực số cho công dân. Đây là điều kiện tiên quyết để giảm lệ thuộc vào nền tảng xuyên biên giới, bảo vệ chủ quyền thông tin và xây dựng một không gian truyền thông số minh bạch, an toàn và hiệu quả.

2. 3. Một số định hướng giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông chính sách Việt Nam trong kỷ nguyên số

Một là, phát triển hệ sinh thái truyền thông chính sách số tự chủ, tích hợp và an toàn

Việc phát triển một hệ sinh thái truyền thông chính sách số mạnh và có khả năng tự chủ không chỉ là điều kiện bảo đảm chủ quyền thông tin quốc gia, mà còn là nền tảng thúc đẩy tương tác chính sách linh hoạt và hiệu quả trong thời đại số. Hệ sinh thái này cần được thiết kế theo hướng tích hợp đa tầng và tối ưu hóa kết nối:

Ưu tiên xây dựng nền tảng số nội địa theo hướng “Make in Vietnam”, với cơ chế hỗ trợ rõ ràng và chiến lược sử dụng ưu tiên cho truyền thông chính sách. Các nền tảng phải đáp ứng yêu cầu về khả năng tiếp cận người dùng, bảo mật dữ liệu và tuân thủ pháp luật trong nước.

Chuyển đổi tổ hợp báo chí - truyền thông truyền thống sang mô hình số đa nền tảng, có khả năng phân tích dữ liệu, phản ứng nhanh và chủ động định hướng dư luận trong môi trường số.

Liên thông dữ liệu và hệ thống thông tin. Học hỏi kinh nghiệm quốc tế như mô hình Smart Nation của Xinhgapo - nơi dữ liệu lớn, mạng lưới công nghệ thông tin và truyền thông, nền tảng số được kết nối phục vụ hiệu quả công tác quản trị hằng ngày, nhằm cải thiện dịch vụ công, nâng cao hiệu quả hoạt động của chính phủ và tăng cường sự tham gia của công dân(8).

Hai là, làm chủ công nghệ để nhận diện và ứng phó thông tin sai lệch

Trong môi trường truyền thông phức tạp, việc làm chủ công nghệ là chìa khóa để nâng cao khả năng phản ứng và kiểm soát thông tin sai lệch. Do đó cần:

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao trong giám sát và xác thực thông tin. AI và Big Data có thể hỗ trợ theo dõi xu hướng dư luận, phát hiện bất thường và đánh giá tác động xã hội, trong khi công nghệ Blockchain giúp xác thực nguồn tin, bảo đảm minh bạch và hạn chế nguy cơ xuyên tạc chính sách.

Cập nhật và hoàn thiện khung pháp lý phù hợp với môi trường số. Trọng tâm là xây dựng quy định rõ ràng về trách nhiệm của các nền tảng xuyên biên giới, kiểm soát thuật toán đề xuất nội dung và quy trình xử lý thông tin độc hại. Đồng thời, cần tăng cường chế tài thực thi để bảo đảm hiệu quả phối hợp liên ngành và bảo vệ không gian truyền thông lành mạnh.

Nâng cao năng lực “miễn dịch thông tin” trong xã hội thông qua giáo dục truyền thông số trong các nhà trường và những cơ sở đào tạo cán bộ. Mục tiêu là hình thành tư duy phản biện, kỹ năng nhận diện và xử lý tin giả trong môi trường truyền thông đa tầng, từ đó xây dựng cộng đồng có khả năng tự bảo vệ và điều tiết thông tin một cách chủ động, lành mạnh.

Đẩy mạnh hợp tác quốc tế trong kiểm soát thông tin xuyên biên giới là một định hướng quan trọng nhằm nâng cao năng lực phản ứng chính sách. Việt Nam cần chủ động tham gia các sáng kiến khu vực và toàn cầu về xác minh thông tin, chia sẻ dữ liệu, công nghệ, phối hợp xử lý các chiến dịch thao túng dư luận có yếu tố nước ngoài.

Ba là, đổi mới cách tiếp cận và phương pháp truyền thông chính sách

Truyền thông chính sách cần thích nghi với truyền thông đa nền tảng và hành vi cá nhân hóa của công chúng. Một số đổi mới cần thiết bao gồm:

Đa dạng hóa định dạng và nền tảng truyền thông. Thông tin chính sách cần được số hóa và phân phối linh hoạt qua các nền tảng mạng xã hội phổ biến như YouTube, TikTok, Zalo…, dưới nhiều hình thức phù hợp như video ngắn, infographic, podcast hoặc livestream. Việc này không chỉ mở rộng khả năng tiếp cận công chúng, mà còn phù hợp với xu hướng tiếp nhận thông tin phân mảnh, theo thời gian thực và theo dòng chảy thuật toán trên môi trường số.

Cá nhân hóa thông điệp và ứng dụng kỹ thuật kể chuyện chính sách (policy storytelling). Thay vì truyền đạt thông tin khô cứng, truyền thông chính sách cần lồng ghép các câu chuyện gần gũi, truyền cảm hứng, nhằm tạo kết nối cảm xúc giữa người dân và chính sách công. Việc khai thác dữ liệu lớn (Big Data) cho phép xác định đặc điểm từng nhóm công chúng để thiết kế thông điệp phù hợp với nhu cầu, nhận thức và cảm xúc của họ, từ đó tăng khả năng tiếp nhận và đồng thuận xã hội.

Tăng cường tính tương tác và đối thoại xã hội là yêu cầu cốt lõi của truyền thông chính sách hiện đại. Thay vì truyền thông một chiều, cần thúc đẩy các cơ chế phản hồi công khai, hỏi đáp trực tuyến và đối thoại định kỳ giữa chính quyền và người dân. Những hình thức này không chỉ nâng cao tính minh bạch, mà còn mở rộng không gian tham gia chính sách, tạo điều kiện cho người dân phản biện, góp ý và đồng kiến tạo giải pháp phù hợp với thực tiễn.

Bốn là, xây dựng năng lực và phát huy vai trò đa chủ thể trong truyền thông chính sách

Hiệu quả của truyền thông chính sách trong kỷ nguyên số phụ thuộc rất lớn vào năng lực đội ngũ thực hiện và khả năng huy động nguồn lực từ xã hội. Do vậy, cần:

Đào tạo nhân lực liên ngành, thành thạo công nghệ và truyền thông chính sách nhằm nâng cao hiệu quả truyền thông trong kỷ nguyên số. Đội ngũ cán bộ cần được trang bị kiến thức về lý luận chính trị, truyền thông số, phân tích dữ liệu và quản trị khủng hoảng truyền thông. Các chương trình đào tạo nên gắn với thực tiễn, cập nhật công nghệ mới và học hỏi kinh nghiệm quốc tế nhằm tăng cường năng lực tổng hợp, linh hoạt và thích ứng.

Thu hút chuyên gia, những người có ảnh hưởng trong cộng đồng và đội ngũ sáng tạo nội dung (KOLs, content creators) vào truyền thông chính sách để mở rộng sức lan tỏa và tăng tính thuyết phục. Nhà nước cần xây dựng cơ chế đãi ngộ linh hoạt nhằm huy động nguồn lực từ các chuyên gia truyền thông, kỹ sư công nghệ, nhà phân tích dữ liệu và các tác nhân truyền thông xã hội, góp phần truyền tải chính sách đến công chúng một cách gần gũi, hiệu quả và thích ứng với môi trường truyền thông hiện đại.

Thiết lập mạng lưới hợp tác đa chủ thể trong truyền thông chính sách để nâng cao hiệu quả truyền thông trong bối cảnh phân mảnh thông tin. Cần xây dựng cơ chế phối hợp linh hoạt giữa cơ quan nhà nước, hệ thống báo chí, giới chuyên gia và cộng đồng sáng tạo nội dung, nhằm tạo hiệu ứng cộng hưởng, tăng chiều sâu và tính lan tỏa của thông điệp chính sách trong xã hội số.

Năm là, nâng cao vai trò định hướng và lan tỏa thông tin của báo chí

Trong bối cảnh truyền thông chính sách diễn ra trên không gian số phân tán và nhiều chiều, báo chí cách mạng vẫn giữ vai trò trung tâm trong việc định hướng dư luận, kiểm chứng thông tin và bảo vệ các giá trị cốt lõi của chính sách công. Để phát huy vai trò này, cần:

Đẩy mạnh chuyển đổi số báo chí, xây dựng tòa soạn số linh hoạt và hiện đại. Quá trình này đòi hỏi nâng cấp hạ tầng công nghệ, tái cấu trúc mô hình tổ chức và đổi mới quy trình tác nghiệp, nhằm giúp các cơ quan báo chí trở thành lực lượng truyền thông đa nền tảng, phản ứng nhanh, tương tác cao và có khả năng dẫn dắt dư luận trong môi trường số hóa.

Gia tăng tính gắn kết cộng đồng thông qua thông tin thân thiện và dễ tiếp nhận. Báo chí cần vượt qua vai trò truyền tải một chiều để trở thành cầu nối kiến tạo đồng thuận xã hội. Việc chuyển tải thông tin chính sách theo hướng gần gũi, dễ hiểu, sinh động và gắn với đời sống người dân sẽ góp phần nâng cao khả năng tiếp nhận, tăng cường niềm tin và thúc đẩy sự đồng hành trong thực thi chính sách.

Tăng cường phối hợp với lực lượng truyền thông xã hội để nâng cao hiệu quả lan tỏa chính sách. Thay vì hoạt động đơn lẻ, báo chí cần thiết lập cơ chế hợp tác linh hoạt và định hướng nội dung rõ ràng với các cá nhân và cộng đồng truyền thông có ảnh hưởng như KOLs, nhà sáng tạo nội dung. Sự cộng hưởng giữa báo chí và truyền thông xã hội sẽ mở rộng độ phủ của thông điệp chính sách, tăng tính lan tỏa và thích ứng nhanh với dòng chảy thông tin trên môi trường số phân mảnh.

3. Kết luận

Trong kỷ nguyên số, truyền thông chính sách giữ vai trò then chốt trong việc kết nối nhà nước và xã hội, không chỉ truyền tải thông tin mà còn thúc đẩy đối thoại, củng cố đồng thuận và bảo vệ chủ quyền thông tin. Để phát huy vai trò này, Việt Nam cần kiến tạo hệ sinh thái truyền thông chính sách số tự chủ, hiện đại và minh bạch; ứng dụng công nghệ tiên tiến để nâng cao khả năng giám sát, xử lý và định hướng thông tin, đồng thời xây dựng đội ngũ chuyên nghiệp và mở rộng hợp tác với các chủ thể xã hội. Một hệ thống truyền thông chính sách được tổ chức bài bản và thích ứng linh hoạt sẽ là nền tảng nâng cao hiệu lực quản trị, tăng cường niềm tin công chúng và bảo đảm phát triển bền vững.

Hơn thế, truyền thông chính sách trong kỷ nguyên số không chỉ phản ánh năng lực quản trị thông tin của nhà nước mà còn là thước đo chất lượng của quá trình dân chủ hóa và mức độ gắn kết xã hội. Khi thông tin được truyền tải minh bạch, chính xác và có khả năng khơi gợi sự tham gia của công chúng, nó sẽ trở thành động lực để hình thành một môi trường chính trị - xã hội ổn định, sáng tạo và hướng tới tương lai. Đây chính là nền tảng để Việt Nam hội nhập sâu rộng, khẳng định vị thế quốc gia và thích ứng chủ động với những biến động toàn cầu.

_________________

Ngày nhận bài: 22-5-2025; Ngày bình duyệt: 10-9-2025; Ngày duyệt đăng: 26-9-2025.

Email tác giả: quynhnd69@gmail.com

(1) Lương Ngọc Vĩnh: Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nguồn nhân lực truyền thông chính sách ở Việt Nam, Kỷ yếu hội thảo khoa học quốc tế “Nguồn lực cho truyền thông chính sách”, Học viện Báo chí và Tuyên truyền phối hợp KOICA và Tạp chí Cộng sản, 2023, tr.235-236.

(2) Liu, B. F., & Horsley, J. S. The Government Communication Decision Wheel: Toward a Public Relations Model for the Public Sector. Journal of Public Relations Research, 19(4), 2007, 377-393. https://doi.org/10.1080/10627260701402473

(3) Buurma, H: Public policy marketing: marketing exchange in the public sector. European Journal of Marketing, vol 35(11/12), 2001, 1287-1300. https://doi.org/10.1108/EUM0000000006483

(4) Chadwick, A., The Hybrid Media System: Politics and Power, Oxford University Press, 2017, pp. 54-67.

(5) Chiến lược phát triển Chính phủ điện tử đến năm 2025, định hướng đến năm 2030, ban hành theo Quyết định số 942/QĐ-TTg ngày 15-6-2021 của Thủ tương Chính phủ.

(6) Norris, P., Democratic Deficit: Critical Citizens Revisited, Cambridge University Press, 2011, p.178.

(7) Nguyễn Thị Hồng Hải, Hoàng Vĩnh Giang: “Xây dựng chính phủ mở trong quản trị quốc gia hiện đại”, Tạp chí Quản lý nhà nước, số 340 - 2024, tr.45.

(8) Ramadhan, S. A., & Purnomo, E. P. Comparative Analysis of the E-Government Development Index: A Case Study of Singapore and Afghanistan. Sosiohumaniora: Jurnal Ilmu-ilmu Sosial, 26 (3), 2024, 443.