Nghiên cứu lý luận

Quan điểm của V.I.Lênin về phòng, chống quan liêu, tham nhũng và sự vận dụng ở Việt Nam hiện nay

29/09/2025 16:53

(LLCT) - Bài viết khái quát quan điểm của V.I.Lênin về căn nguyên, bản chất, hệ quả của chủ nghĩa quan liêu, tệ tham nhũng và một số biện pháp nhằm ngăn chặn, đẩy lùi ở nước Nga Xô viết. Từ đó, đề xuất một số biện pháp nâng cao hiệu quả đấu tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực ở Việt Nam hiện nay.

TS VŨ VĂN TÁM
Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

Tổng Bí thư: Tăng cường phòng, chống tham nhũng gắn với sắp xếp tinh gọn bộ máy -0
Tổng Bí thư Tô Lâm chủ trì Phiên họp thứ 27 Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực_Ảnh: TTXVN

1. Mở đầu

Ngay từ những ngày đầu xây dựng chính quyền Xô viết, V.I.Lênin đã không chỉ sớm nhận ra mà còn chỉ rõ căn nguyên, bản chất, hệ quả và giải pháp hữu hiệu để đấu tranh phòng, chống “chủ nghĩa cơ hội”, “chủ nghĩa quan liêu”, “căn bệnh”, “tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí” (gọi chung là những tệ nạn) nảy sinh trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chức, có quyền trong hệ thống chính trị ở nước Nga Xô viết. Vì tệ quan liêu, tham nhũng khiến nhiều cán bộ, đảng viên bị tha hóa, trở thành những kẻ chuyên quyền, độc đoán, thậm chí nó có thể phá hủy một chính đảng, làm tiêu vong một chế độ, nên V.I.Lênin đặc biệt chú trọng việc phòng, chống các tệ nạn này.

Quan điểm, chỉ dẫn của V.I. Lênin dù cách đây hàng thế kỷ, song vẫn vẹn nguyên tính thời sự và có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc để nghiên cứu, vận dụng trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng gắn với đẩy mạnh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực một cách kiên quyết, kiên trì, bền bỉ, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ để Đảng và hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, đáp ứng yêu cầu của tình hình, nhiệm vụ cách mạng.

2. Nội dung

2.1. Quan điểm của V.I.Lênin về căn nguyên, bản chất, hệ quả của tệ quan liêu, tham nhũng một số biện pháp ngăn chặn, đẩy lùi

Căn nguyên của tệ quan liêu, tham nhũng, theo V.I. Lênin là những “căn bệnh cố hữu”, “khuyết tật bẩm sinh”, “người bạn đồng hành” có nguồn gốc sâu xa từ chủ nghĩa cơ hội gắn với quyền lực nhà nước bị tha hóa: “Trên đầu lưỡi thì thừa nhận cách mạng mà trên thực tế thì từ bỏ cách mạng”(1) và sự tồn tại dai dẳng của nó có căn nguyên từ sự kém tu dưỡng, rèn luyện đạo đức, lối sống; từ sự tha hoá, suy thoái về tư tưởng chính trị, phai nhạt lý tưởng cách mạng và sự lợi dụng, tận dụng, lạm dụng quyền lực của một số cán bộ, đảng viên có chức quyền; là do trình độ quản lý yếu kém, sự kiểm soát thiếu chặt chẽ và sự xử lý chưa nghiêm minh của Đảng, chính quyền.

Bản chất của tệ quan liêu, tham nhũng, theo V.I.Lênin chính là “đem lợi ích của sự nghiệp phục tùng lợi ích của tư tưởng danh vị, tức là hết sức chú trọng đến địa vị mà không đếm xỉa đến công tác; tức là tranh giành nhau để được bổ tuyển(2), mà biểu hiện cụ thể là sự hám danh vọng, si mê quyền lực, ích kỷ, hống hách, độc đoán, tự cho mình có quyền đứng trên quần chúng; là thích lập ra ban nọ, ngành kia “cho oai, cho oách”; là xây dựng kế hoạch xa rời thực tiễn trong khi thích dùng mệnh lệnh để hối thúc công việc…

Quan liêu không chỉ đi liền với mệnh lệnh, cửa quyền, coi thường quần chúng… mà còn dẫn đến tham ô, tham nhũng, lãng phí và nhiều biểu hiện tiêu cực khác. Đó chính là những tệ nạn của sự suy thoái, tha hóa và đó cũng là một trong “ba kẻ thù chính đang đứng trước mỗi người, bất kể người đó làm việc gì, ở cương vị nào... kẻ thù thứ nhất - tính kiêu ngạo cộng sản chủ nghĩa; kẻ thù thứ hai - nạn mù chữ; kẻ thù thứ ba - nạn hối lộ”(3). Bản chất chung của những tệ nạn này là sự tư lợi cá nhân, ích kỷ, ăn bám trên sức lao động của người khác; là hành động “phi nhân tính” của những kẻ lưu manh chính trị có chức vụ, quyền hạn trong tổ chức bộ máy đảng, nhà nước.

Quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác là thứ “giặc nội xâm” đã len lỏi vào các cơ quan, tổ chức trong hệ thống chính trị Xô viết vừa tạo ra những ung nhọt, phá hoại uy tín, sức mạnh của Đảng, Nhà nước; làm suy giảm niềm tin của quần chúng nhân dân vào Đảng, Nhà nước và chế độ Xô viết vừa cản trở, kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời phá vỡ, cắt đứt mối liên hệ máu thịt giữa Đảng với quần chúng, làm cho Đảng mất dần quần chúng, đe dọa sự tồn vong của Đảng, chế độ. V.I.Lênin chỉ rõ rằng, chừng nào trong nội bộ Đảng và hệ thống chính trị Xô viết còn những tệ nạn này thì chừng đó ý chí đấu tranh của cán bộ, đảng viên sẽ bị “thui chột” và khi đó cũng sẽ xuất hiện “một "tầng lớp công nhân quý tộc" có tính chất phường hội, hẹp hòi, ích kỷ, nhẫn tâm, tham lam, phi-li-xtanh, có đầu óc đế quốc chủ nghĩa, bị chủ nghĩa đế quốc mua chuộc và làm hư hỏng(4)

Vì căn nguyên, bản chất, hệ quả của những tệ nạn này là nguy hiểm và sẽ khiến bộ máy đảng, nhà nước xa rời lợi ích của Đảng, của nhân dân nên V.I. Lênin đã chỉ rõ một số giải pháp để phòngđấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi tệ quan liêu, tham nhũng ở nước Nga Xô viết.

Một là, phải duy trì nghiêm kỷ luật đảng; tăng cường thanh tra, kiểm tra; thực hành nghiêm nguyên tắc tự phê bình và phê bình. Theo V.I.Lênin, một trong những bài học xương máu của những đảng cách mạng bị tiêu vong là do mất dân chủ, quan liêu, thiếu kiểm tra, giám sát và “không dám nói lên những nhược điểm của mình”(5). Vì thế, để khắc phục những “nhược điểm đó” thì “chính đảng của giai cấp vô sản phải thực hiện được, trong nội bộ của mình, một chế độ tập trung chặt chẽ và một kỷ luật nghiêm ngặt”(6) gắn với thường xuyên “kiểm tra năng lực của nhân viên công tác; kiểm tra việc chấp hành thực tế. Cuộc thanh đảng tới đây sẽ nhằm vào những người cộng sản lên mặt là quan cai trị”(7).

Cụ thể “thanh đảng” để làm trong sạch đội ngũ đảng viên, vì “nếu chúng ta có thể thực sự tiến hành thanh đảng như thế, từ cấp lãnh đạo tối cao đến tận cơ sở, mà “không vị nể cá nhân”, thì đó sẽ là một thành quả thật sự to lớn của cách mạng”(8). Thanh đảng cần được thực hiện dưới nhiều hình thức: Đăng ký lại, động viên ra mặt trận, tham gia lao động cộng sản, “mở rộng dân chủ, phát huy óc sáng kiến, nhằm phát hiện, lột mặt nạ và đuổi ra khỏi Đảng những kẻ lén lút chui vào Đảng”(9). Cùng với việc “cần phải đuổi ra khỏi Đảng những kẻ gian giảo, những đảng viên cộng sản đã quan liêu hóa, không trung thực, nhu nhược, và những người men-sê-vich, tuy “bề ngoài” đã được phủ một lớp sơn mới, nhưng trong tâm hồn thì vẫn là men-sê-vich”(10) là việc các tổ chức đảng phải kiên quyết “gạt bỏ ra khỏi Đảng những phần tử xa dời quần chúng (cố nhiên không cần nói đến những phần tử làm ô danh Đảng trước quần chúng)”(11).

Hai là, thực hành dân chủ rộng rãi, lôi cuốn quần chúng hưởng ứng giúp đỡ gắn với kiên quyết xử lý nghiêm khắc những hành vi vi phạm theo pháp luật. Thực tế, V.I. Lênin không chỉ nhắc nhở các cấp ủy đảng, chính quyền Xô viết phải thường xuyên chăm lo, thu hút quần chúng tham gia trực tiếp vào việc giám sát các cơ quan nhà nước để phòng và ngăn chặn những thiếu sót, các tệ nạn, mà còn khẳng định rằng “cuộc đấu tranh ấy không thể chỉ độc có dựa vào tuyên truyền mà được; chỉ khi nào được bản thân quần chúng nhân dân giúp đỡ thì cuộc đấu tranh ấy mới có thể hoàn thiện được”(12). Tuy nhiên, trong khi dựa vào quần chúng nhân dân “giúp đỡ” thì cán bộ, đảng viên phải có bản lĩnh vững vàng, không theo đuôi quần chúng, “không nghe theo tất cả những ý kiến của quần chúng, vì quần chúng đôi khi… bị lôi kéo bởi những tư tưởng không có chút gì là tiên tiến cả”(13).

Điểm đặc biệt là, V.I.Lênin cho rằng, nước Nga Xô viết đã có hệ thống pháp luật tốt hơn bất cứ nước tư bản nào, thế nhưng ở đây “không những nông dân, mà chính cả một số rất lớn đảng viên cộng sản cũng không biết dùng pháp luật Xô viết để đấu tranh chống bệnh lề mề, quan liêu”(14). Tuy tính chất, mức độ, tác hại của mỗi tệ nạn khác nhau và việc xử lý không giống nhau, song V.I. Lênin yêu cầu phải “lay động các tòa án nhân dân và dạy cho họ biết trừng trị một cách không thương xótnhững kẻ lạm dụng chính sách kinh tế mới”(15). Cũng theo V.I.Lênin, trong cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, nếu “chỉ dùng pháp luật thôi thì chưa đủ. Mà cần phải tiến hành một công tác lớn lao về giáo dục, tổ chức, văn hóa, công tác đó không thể nào chỉ dùng pháp luật mà hoàn thành nhanh chóng được, nó đòi hỏi một công tác lớn lao và lâu dài”(16).

Ba là, xây dựng bộ máy của Đảng, Nhà nước tinh gọn, hiệu quả; thiết lập chế độ trách nhiệm cá nhân cơ chế kiểm soát quyền lực đối với người có chức quyền. Theo V.I. Lênin, bộ máy của Đảng, Nhà nước phải được tổ chức chặt chẽ, thống nhất về tổ chức, phải tuân theo phương châm “Thà ít mà tốt”(17) để đạt được mục đích “xây dựng một nước cộng hòa thật sự xứng danh là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Xô viết” hoạt động theo đúng Hiến pháp, pháp luật. Đó chính là “phải thực hành tiết kiệm tột mức trong bộ máy nhà nước của chúng ta. Chúng ta phải bài trừ mọi vết tích lãng phí mà nước Nga quân chủ và bộ máy quan liêu tư bản chủ nghĩa của nó đã để lại”(18) để giảm bớt sự cồng kềnh, chồng chéo công việc, sự phân tán, ô hợp, bè phái, mất đoàn kết…

Đồng thời, phải có cơ chế kiểm soát quyền lực, tránh để “quyền lực chính trị nằm trong tay một giai cấp có quyền lợi khác với quyền lợi của đa số, thì việc điều khiển công việc quốc gia theo nguyện vọng của đa số không khỏi trở thành một sự lừa gạt”(19) gắn với việc chú trọng nâng cao phẩm chất, trình độ, trí tuệ, bản lĩnh chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên. Đi liền với việc kiểm tra, giám sát, kiểm soát quyền lực trong hệ thống chính trị Xô viết là yêu cầu về việc thực hiện trách nhiệm cá nhân một cách nghiêm ngặt; trong đó, người lãnh đạo phải chịu trách nhiệm về những sai lầm, sự hư hỏng của những người dưới quyền trên tinh thần “người Cộng sản phải trừng phạt nặng hơn gấp ba lần so với những người ngoài Đảng”(20).

2.2. Một số giải pháp phòng, chống quan liêu, tham nhũng theo quan điểm của VI. Lênin

Hơn 95 năm xây dựng và phát triển, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn kiên định, kế thừa, vận dụng, bổ sung và phát triển quan điểm của V.I. Lênin về phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống nói chung, quan liêu, tham nhũng, tiêu cực, lãng phí nói riêng, trên tinh thần “lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện quyết liệt, toàn diện, đi vào chiều sâu, với quyết tâm chính trị rất cao, không có vùng cấm, không có ngoại lệ”(21) gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng để Đảng luôn trong sạch, vững mạnh, xứng đáng với vai trò tiền phong.

Tuy nhiên, thực tế cho thấy “tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí còn nghiêm trọng”(22) và “công tác phòng, chống tham nhũng ở một số địa phương, bộ, ngành chuyển biến chưa rõ rệt, trách nhiệm của người đứng đầu đối với công tác phòng, chống tham nhũng chưa được đề cao… Tình trạng nhũng nhiễu, tiêu cực trong khu vực hành chính, dịch vụ công chưa được đẩy lùi… cơ chế kiểm soát quyền lực đối với tổ chức và người có chức vụ, quyền hạn chưa đủ mạnh… Tình trạng nhũng nhiễu người dân, doanh nghiệp vẫn còn khá phổ biến, gây bức xúc trong xã hội”(23). Việc phát hiện, xét xử các vụ án liên quan đến tham nhũng trong những nhiệm kỳ vừa qua dù đã đạt được nhiều kết quả tích cực, song cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực vẫn cần phải tiếp tục đẩy mạnh để làm trong sạch Đảng và hệ thống chính trị, góp phần thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững sự ổn định chính trị và tăng cường quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước.

Vì vậy, việc vận dụng sáng tạo quan điểm và những giải pháp của V.I.Lênin về phòng, chống quan liêu, tham nhũng phù hợp với điều kiện của Việt Nam để Đảng ngày càng “tự hoàn thiện mình”, thực sự “là đạo đức, là văn minh”; để hệ thống chính trị luôn “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” trong kỷ nguyên phát triển mới - Kỷ nguyên vươn mình của dân tộc như Tổng Bí thư Tô Lâm yêu cầu là quan trọng và cần thiết.

Theo đó, việc đẩy mạnh công cuộc phòng, chống quan liêu, tham nhũng trong Đảng, trong hệ thống chính trị trên tinh thần kiên quyết, không ngừng, không nghỉ, không có vùng cấm, không có ngoại lệ gắn với công tác xây dựng và chỉnh đốn Đảng thời gian tới cần tập trung thực hiện một số giải pháp cơ bản sau:

Thứ nhất, tiếp tục nâng cao nhận thức của cấp ủy, chính quyền, ban, ngành chức năng các cấp về yêu cầu bức thiết phải đẩy mạnh công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực gắn với đổi mới tư duy tuyên truyền, giáo dục đội ngũ cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trong thực hiện Kết luận số 01-KL/TW ngày 18-5-2021 của Bộ Chính trị về tiếp tục thực hiện Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25-10-2021 của Ban Chấp hành Trung ương về đẩy mạnh xây dựng, chỉnh đốn Đảng và hệ thống chính trị; kiên quyết ngăn chặn, đẩy lùi, xử lý nghiêm cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” theo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Qua đó, tạo sự thống nhất về nhận thức, ý chí, hành động của cán bộ, đảng viên, quần chúng nhân dân trong phòng, chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ nói chung, tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực nói riêng. Coi đây là “nhiệm vụ quan trọng đặc biệt của công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc”(24).

Thứ hai, xây dựng, hoàn thiện thể chế pháp luật gắn với cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy hệ thống chính trị và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức. Cụ thể là, tiếp tục thể chế hoá Hiến pháp, xây dựng, bổ sung hoàn thiện hệ thống cơ chế chính sách, pháp luật trên các lĩnh vực quản lý kinh tế - xã hội, phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo tinh thần Nghị quyết số 66-NQ/TW ngày 30-4-2025 của Bộ Chính trị khóa XIII về đổi mới công tác xây dựng và thi hành pháp luật đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước trong kỷ nguyên mới, gắn với việc thực hiện nhanh, gọn, nghiêm cuộc cách mạng tinh gọn bộ máy, tổ chức và vận hành bộ máy chính quyền địa phương 2 cấp… trên tinh thần xây dựng các cơ quan công quyền kiến tạo, liêm chính, hành động, phục vụ với nền hành chính hiện đại, chuyên nghiệp, kỷ cương, công khai, minh bạch. Đồng thời, bổ sung, hoàn thiện quy chế tuyển dụng; quy trình phát hiện, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ có đủ “tâm - tầm - trí” vào bộ máy của hệ thống chính trị để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức Nhà nước nói chung, người đứng đầu cấp ủy, chính quyền địa phương, cơ quan, đơn vị nói riêng phải là một mẫu mực nêu gương của bản lĩnh chính trị, tinh thần trách nhiệm “dám nghĩ, dám nói, dám làm, dám chịu trách nhiệm, dám đổi mới, sáng tạo; dám đương đầu với khó khăn, thử thách; dám hành động vì lợi ích chung” theo đúng tinh thần của V.I.Lênin: “Những phần tử ưu tú ấy phải không sợ thừa nhận bất cứ một khó khăn nào và không lùi bước trước bất cứ một cuộc đấu tranh nào để đạt được mục đích”(25).

Thứ ba, xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực nhà nước chặt chẽ, đồng bộ (các chủ thể bên trong và chủ thể bên ngoài bộ máy nhà nước) gắn với tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm soát một cách thường xuyên và đột xuất “từ dưới lên”, “từ trên xuống”, bảo đảm để “mọi quyền lực đều phải được kiểm soát chặt chẽ bằng cơ chế; quyền hạn phải được ràng buộc chặt chẽ với trách nhiệm, quyền hạn đến đâu trách nhiệm đến đó, quyền hạn càng cao trách nhiệm càng lớn; phát hiện kịp thời và xử lý nghiêm minh mọi hành vi lạm dụng, lợi dụng quyền lực để tham nhũng”(26).

Cùng với việc phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, nhân dân, doanh nghiệp, báo chí, truyền thông… trong phối hợp, đôn đốc, đẩy mạnh phát hiện, đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực là việc thực hiện văn hóa tiết kiệm, sự tự soi, tự kiểm soát, tự sửa của bản thân người nắm giữ quyền lực, bảo đảm để người có chức quyền không lợi dụng, tận dụng, lạm dụng quyền lực tư lợi cá nhân. Đây không chỉ là nhiệm vụ thường xuyên, liên tục của cả hệ thống chính trị, mà còn là đòi hỏi của thực tiễn (sự kiên quyết, kiên trì với nhiều biện pháp đồng bộ) để cán bộ, đảng viên không thể, không dám, không muốn, không cần tham nhũng và tiêu cực.

Thứ tư, kiên quyết xử lý nghiêm hành vi quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực theo phương châm lấy phòng ngừa là cơ bản và lâu dài; phát hiện và xử lý là quan trọng, cấp bách, đột phá gắn với nâng cao tính minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị… theo quy định của Hiến pháp, pháp luật (ở cả khu vực ngoài nhà nước) trên tinh thần không có vùng cấm, không có ngoại lệ. Theo đó, phát huy tính chủ động, kịp thời phát hiện sớm để vừa ngăn chặn từ xa, xử lý ngay từ đầu các hành vi sai phạm, không để những sai phạm nhỏ chậm giải quyết tích tụ thành sai phạm lớn, vừa tiến hành khởi tố, điều tra, xét xử công khai, minh bạch, đúng pháp luật, đúng người, đúng tội. Đồng thời, đẩy mạnh công khai, minh bạch trong hoạt động của các cơ quan, tổ chức, đơn vị, nhất là các lĩnh vực dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như công tác cán bộ, tuyển dụng nhân sự, quy hoạch tổng thể, chuyển mục đích sử dụng đất, dự án đầu tư, đấu thầu và giao dự án, phân bổ ngân sách, tài sản công...

Cùng với đó là tiếp tục thực hiện chặt chẽ, hiệu quả công tác kê khai, kiểm soát kê khai tài sản, thu nhập của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp trong hệ thống chính trị gắn với thực hiện các biện pháp thu hồi triệt để tài sản tham nhũng và khuyến khích người phạm tội tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả sẽ được xem xét hưởng chính sách khoan hồng, nhân đạo của Đảng, Nhà nước.

Thứ năm, tăng cường hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng trong xu thế toàn cầu hoá và hội nhập quốc tế hiện nay, theo Chiến lược quốc gia phòng chống tham nhũng, tiêu cực đến năm 2030 (ban hành kèm theo Nghị quyết số 168/NQ-CP ngày 11-10-2023 của Chính phủ) và Luật Phòng, chống tham nhũng. Thực tế cho thấy, tham nhũng có ở mọi cấp độ (từ tham nhũng vặt đến tham nhũng lớn) không chỉ cản trở sự phát triển kinh tế - xã hội, gây thất thoát tài sản công, tạo điều kiện cho các hoạt động tội phạm nguy hiểm, mà còn làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước, chế độ… Vì thế, tăng cường, mở rộng hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng được thực hiện trên nhiều lĩnh vực khác nhau, trong đó lĩnh vực pháp luật, pháp lý giữ vai trò trung tâm và tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài sẽ góp phần từng bước ngăn chặn, đẩy lùi tham nhũng, tiêu cực.

Theo đó, mở rộng hợp tác quốc tế về phòng, chống tham nhũng theo quyền, nghĩa vụ của quốc gia thành viên Công ước Liên hợp quốc về chống tham nhũng của Việt Nam không chỉ góp phần kịp thời phối hợp, chia sẻ thông tin, thực hiện các biện pháp ngăn chặn, truy bắt tội phạm tham nhũng bỏ trốn ra nước ngoài, thu hồi tài sản bị tẩu tán…, mà còn là biện pháp quan trọng, có ý nghĩa nâng cao năng lực phối hợp giải quyết các vụ án có tính chất xuyên biên giới, xuyên quốc gia, góp phần tăng cường tính minh bạch, liêm chính công và quản trị tốt trong bối cảnh mới.

3. Kết luận

Quan điểm của V.I.Lênin về phòng, chống quan liêu, tham nhũng không chỉ có giá trị lý luận, thực tiễn sâu sắc, mà còn là bài học kinh nghiệm thiết thực để Đảng Cộng sản Việt Nam nghiên cứu, vận dụng sáng tạo trong công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực, góp phần ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ, để Đảng, hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh, hoạt động liêm chính, hiệu năng, hiệu lực, hiệu quả trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc./.

Ngày nhận bài: 19-9-2025; Ngày bình duyệt: 22-9-2025; Ngày duyệt đăng: 28-9-2025.

Email tác giả: vuvantamhvct@gmail.com

----------------------

(1) V.I.Lênin: Toàn tập, t.33, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2005, tr.145.

(2) V.I.Lênin: Toàn tập, t.8, Sđd, tr. 424.

(3), (8), (10), (11), (12), (13), (14), (15), (20) V.I.Lênin: Toàn tập, t.44, Sđd, tr. 217, 151, 154, 152, 214, 152, 214, 486, 486.

(4), (6) V.I.Lênin: Toàn tập, t.41, Sđd, tr. 43, 34.

(5), (7), (17), (18), (25) V.I.Lênin: Toàn tập, t.45, Sđd, tr. 141, 19, 442, 459, 445.

(9) V.I.Lênin: Toàn tập, t.43, Sđd, tr. 109.

(16) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.38, tr. 199.

(19) V.I.Lênin: Toàn tập, Sđd, t.34, tr. 52.

(21), (23), (24) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.II, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2021, tr. 206, 212-213, 250.

(22) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 29.

(26) Nguyễn Phú Trọng: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2022, tr. 410.