Quốc tế

Chiến lược phát triển kinh tế số của các quốc gia Tiểu vùng sông Mê Kông

04/10/2025 13:53

(LLCT) - Thị trường số của các quốc gia trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông đang phát triển nhanh chóng và ngày càng khẳng định vai trò quan trọng trong nền kinh tế khu vực, không chỉ thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao năng lực cạnh tranh, mà còn góp phần cải thiện chất lượng cuộc sống, bảo đảm sinh kế và mở ra cơ hội phát triển trong nhiều lĩnh vực. Trên cơ sở phân tích thực trạng hạ tầng số của các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông, bài viết phân tích các chương trình, chiến lược mà các quốc gia trong Tiểu vùng đã triển khai nhằm xây dựng và phát triển thị trường số, đồng thời gợi mở một số hàm ý chính sách cho Việt Nam.

TS NGUYỄN BẢO THƯ
Học viện Báo chí và Tuyên truyền

TS VÕ THỊ MINH LỆ

Viện Kinh tế Việt Nam và thế giới,
Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam

Mekong Delta promotes digital transformation in agriculture ảnh 1
Diễn đàn Mekong Connect: Chuyển đổi số và liên kết chuỗi trong nông nghiệp_Ảnh: IT

1. Mở đầu

Trong bối cảnh toàn cầu hóa và Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, kinh tế số đã trở thành động lực quan trọng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao năng lực cạnh tranh và tái cấu trúc mô hình phát triển kinh tế truyền thống. Tiểu vùng sông Mê Kông, nơi hình thành bởi năm quốc gia Đông Nam Á lục địa kết nối với nhau bởi con sông Mê Kông bao gồm: Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan và Việt Nam, là một trong những khu vực năng động và đầy tiềm năng về phát triển kinh tế số. Sự phát triển của hạ tầng viễn thông, internet và các lĩnh vực kinh tế số đã mở ra cơ hội để các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông khai thác tiềm năng kinh tế số, vượt qua những rào cản về mặt địa lý, hạ tầng giao thông và khoảng cách phát triển. Tuy nhiên, dựa trên trình độ phát triển thực tế của các quốc gia trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông cũng có thể thấy, giữa các quốc gia vẫn còn tồn tại sự khác biệt đáng kể về trình độ phát triển kinh tế, mức độ hạ tầng, thể chế và khả năng ứng dụng công nghệ. Việt Nam và Thái Lan dẫn đầu với nhu cầu tiêu dùng lớn, đa dạng, trong khi nhu cầu tiêu dùng số của Campuchia, Lào, và Myanma mới dừng lại ở mức độ vừa phải và ở các giao dịch cơ bản. Dù vậy, điểm chung của các quốc gia trong khu vực Tiểu vùng đó là dựa vào tiềm năng tăng trưởng thị trường số mạnh mẽ nhờ cơ cấu dân số trẻ với thói quen tiêu dùng hướng đến công nghệ và tỷ lệ sử dụng internet cao, cùng với đó là các quốc gia trong Tiểu vùng có chiến lược và chính sách phù hợp triển khai theo từng giai đoạn nhằm thúc đẩy phát triển thị trường số.

2. Nội dung

2.1. Thực trạng hạ tầng số của Tiểu vùng sông Mê Kông

Hạ tầng số là yếu tố cốt lõi thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế số, trong đó hạ tầng số bao gồm hạ tầng viễn thông và internet, hạ tầng dữ liệu, hạ tầng vật lý - số, hạ tầng tiện ích số và công nghệ số… Khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông với trình độ phát triển kinh tế có sự chênh lệch khá lớn, trong khi Thái Lan nằm trong nhóm nước có thu nhập trung bình cao; Việt Nam trong nhóm nước có thu nhập trung bình thì ba quốc gia còn lại là Lào, Campuchia và Myanma thuộc nhóm quốc gia có thu nhập trung bình thấp. Trình độ phát triển kinh tế không đồng đều là nguyên nhân dẫn đến trình độ phát triển hạ tầng số không đồng đều giữa các quốc gia, tuy nhiên các quốc gia đều đang nỗ lực để nâng cấp hạ tầng, đáp ứng nhu cầu phát triển của nền kinh tế số hiện nay.

Thứ nhất, hạ tầng viễn thông và internet. Hạ tầng viễn thông và internet bảo đảm kết nối ổn định, thông suốt và tốc độ kết nối nhanh có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy tăng trưởng cho các ngành kinh tế số. Chỉ số kết nối di động của các quốc gia trong Tiểu vùng trong giai đoạn 2014 - 2023 có sự cải thiện mạnh mẽ. Việt Nam và Thái Lan có chỉ số kết nối di động cao nhất khu vực với mức điểm tương ứng của năm 2023 là 70,55 và 76,03 - đánh dấu sự thăng hạng từ nhóm các quốc gia “chuyển đổi” sang nhóm các quốc gia “tiên tiến”(1). Các quốc gia đều đạt mức bao phủ mạng 4G trên 98% (riêng Myanma mới chỉ đạt mức 90,1%) chứng minh sự phát triển vượt bậc của hạ tầng LTE trong khu vực. Với mạng 5G, tính tới cuối năm 2023, ngoại trừ Thái Lan đạt được tỷ lệ bao phủ mạng 5G gần mức tuyệt đối (93,14%) thì ở các quốc gia trong Tiểu vùng, tỷ lệ này vẫn còn khá thấp. Tháng 10-2024, Việt Nam đã chính thức khai trương mạng 5G thương mại và Chiến lược hạ tầng số đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030 của Việt Nam khẳng định đến năm 2030, mạng băng rộng di động 5G của Việt Nam ​​sẽ bảo đảm phủ sóng 99% dân số. Trong khi đó, Campuchia và Myanmar cũng đang tiến hành thử nghiệm và sẽ sớm phủ sóng rộng rãi mạng 5G trong tương lai gần.

Về hạ tầng kết nối internet, Thái Lan và Việt Nam tiếp tục dẫn đầu khu vực về mức độ phủ sóng mạng cáp quang và vượt xa mức trung bình của thế giới. Theo đó, tính tới cuối năm 2022, 96,49% số người dùng internet của Thái Lan đã được lắp đặt mạng cáp quang. Tỷ lệ này của Việt Nam năm 2024 là 82,3% hộ gia đình và đến năm 2030, Việt Nam cam kết sẽ hoàn thành mục tiêu 100% người sử dụng có khả năng truy cập cáp quang với tốc độ 1Gb/s trở lên. Năm 2024, Lào đã đạt được một bước tiến lớn trong nỗ lực nâng cấp hạ tầng internet quốc gia khi hoàn thành tuyến cáp quang dài 98.524 km, phủ sóng mạng internet tốc độ cao tới nhiều thôn xóm xa xôi. Trong khi đó, Campuchia cũng đã triển khai các dự án lắp đặt cáp quang ngầm dưới biển ở chín tỉnh, thành phố của nước này, bảo đảm mạng lưới internet tốc độ cao phủ sóng rộng rãi cả ở những địa phương kém phát triển nhất. Đáng chú ý, Tiểu vùng cũng chứng kiến sự hợp tác chặt chẽ giữa các quốc gia trong nỗ lực cải thiện hạ tầng số. Tập đoàn viễn thông Viettel của Việt Nam đang hoạt động mạnh tại Lào, Campuchia và Myanma, cung cấp các dịch vụ viễn thông di động 3G, 4G và hỗ trợ thử nghiệm 5G với Unitel (ở Lào), Metfone (Campuchia) và Mytel (Myanma).

Thứ hai, hạ tầng dữ liệu. Dữ liệu số đang được đánh giá là một lĩnh vực có nhiều triển vọng phát triển, đặc biệt ở châu Á; trong đó, Việt Nam đang nổi lên là một trong bốn thị trường dẫn đầu khu vực Đông Nam Á về tốc độ phát triển. Các trung tâm dữ liệu được coi là nền tảng để phát triển các dịch vụ số như điện toán đám mây, trí tuệ nhân tạo (AI), vạn vật kết nối internet (IoT) và blockchain. Điều này mở ra cơ hội cho các ngành như thương mại điện tử, fintech, y tế số và giáo dục trực tuyến phát triển mạnh mẽ. Tính tới hết Quý I năm 2024, Việt Nam sở hữu 33 trung tâm dữ liệu với tổng công suất là 80 MW, chủ yếu tập trung ở Thành phố Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Thái Lan hiện đang sở hữu số lượng các trung tâm dữ liệu lớn nhất Tiểu vùng với 42 trung tâm, trong đó 33 trung tâm được đặt ở Thủ đô Băng Cốc. Tại các nước khác trong Tiểu vùng, thị trường dữ liệu cũng đang dần được quan tâm phát triển, theo đó Campuchia đã thành lập được 10 trung tâm, Lào 2 trung tâm và Myanma 5 trung tâm. So với các quốc gia khác trong khu vực Đông Nam Á, số lượng trung tâm dữ liệu của Tiểu vùng còn khá khiêm tốn khi chiếm tỷ lệ chưa tới 25% toàn khu vực. Trong những năm gần đây, nhiều tập đoàn nước ngoài đã đẩy mạnh đầu tư cho các trung tâm dữ liệu ở Tiểu vùng như Quartz Computing, Alphabet Inc., Amazon Web Servises, Microsoft, hay Digital Land Services đã đầu tư cho các trung tâm dữ liệu ở Thái Lan; Huawei và Chính phủ Nhật Bản đầu tư cho các trung tâm dữ liệu ở Campuchia, Burst Networks đầu tư cho Myanma.

Thứ ba, hạ tầng vật lý - số(2). IoT là một trong những thành phần cốt lõi của hạ tầng vật lý - số bởi IoT giúp kết nối các thiết bị vật lý với hệ thống điều khiển số hóa, đồng thời hỗ trợ giám sát và điều khiển các hoạt động vật lý từ xa. Trong những năm gần đây, các quốc gia ở khu vực Tiểu vùng Mê Kông đã bắt đầu chứng kiến sự phát triển tăng tốc của ngành IoT, tập trung vào hai nhóm ngành là công nghiệp IoT và tự động hóa. Từ những startup mới thành lập cho tới các tập đoàn công nghệ lớn, nhiều doanh nghiệp đã bắt tay triển khai các dự án cung cấp thiết bị và giải pháp IoT cho nền kinh tế. Trong đó, Thái Lan và Việt Nam là hai quốc gia tiên phong về phát triển IoT với quy mô thị trường IoT lớn nhất khu vực (dự báo giá trị thị trường có thể lên tới tương ứng 3,25 tỷ USD và 3,131 tỷ USD vào năm 2025 và 4,87 tỷ USD và 5,117 tỷ USD vào năm 2029). Mặc dù quy mô thị trường có sự khác biệt giữa các quốc gia, song tốc độ tăng trưởng chung của ngành IoT ở khu vực sẽ có những bước phát triển bứt phá. Dự báo trong giai đoạn 2025 – 2029, tỷ lệ tăng trưởng bình quân hàng năm của thị trường IoT ở các quốc gia trong khu vực sẽ đạt mức hai con số (ngoại trừ Lào khi tỷ lệ này chỉ đạt mức 7,99%). Giá trị thị trường của ngành IoT ở Campuchia và Myanma còn khá khiêm tốn, song tiềm năng tăng trưởng được đánh giá cao khi tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm của hai quốc gia này trong 5 năm tới ước tính sẽ cao nhất khu vực với tỷ lệ tương ứng 20,17% và 13,61%.

Thứ tư, hạ tầng tiện ích số và công nghệ số. Hạ tầng tiện ích số và công nghệ số là nền tảng cơ bản để phát triển và triển khai các dịch vụ số, bao gồm các lĩnh vực như viễn thông, internet, thanh toán số và dịch vụ công trực tuyến, cụ thể: (i) Đối với hạ tầng thanh toán số, Thái Lan là quốc gia tiên phong trong phát triển hạ tầng thanh toán số với việc thông qua Đạo luật về hệ thống thanh toán từ tháng 10-2017 và sự ra đời của nền tảng thanh toán số PromptPay của Thái Lan, nền tảng này phát triển khá toàn diện, hỗ trợ thanh toán nhanh chóng và miễn phí. Việt Nam phát triển mạnh các nền tảng thanh toán di động như MoMo, ZaloPay, và VNPay… với tỷ lệ người dùng thanh toán số tăng trưởng nhanh. Trong khi đó, thanh toán số cũng đang dần phát triển rộng rãi hơn ở Campuchia, Lào, và Myanma. Campuchia hiện đã xây dựng được nền tảng thanh toán WingPay, Myanma phát triển thành công nền tảng Wave Money, tuy nhiên, phạm vi ứng dụng của những nền tảng này vẫn còn tương đối hạn chế; (ii) Đối với hệ thống dịch vụ công trực tuyến, trong giai đoạn 2014-2024, tất cả các nước trong khu vực Tiểu vùng đều đã cải thiện được thứ hạng trên bảng xếp hạng Chỉ số chính phủ điện tử (EGDI)(3), ở cả ba khía cạnh vốn nhân lực, dịch vụ trực tuyến và cơ sở hạ tầng viễn thông. Thái Lan và Việt Nam là hai quốc gia dẫn đầu khu vực với EGDI năm 2024 đạt mức điểm 0,8351 và 0,7709 – vượt xa mức trung bình của thế giới và mức trung bình của châu Á. Thành tích này phản ánh nỗ lực của hai quốc gia trong phát triển chính phủ điện tử, nhất là hiện đại hóa hạ tầng viễn thông, đa dạng hóa các dịch vụ hành chính công trực tuyến, và thực hiện tốt chiến lược chuyển đổi số quốc gia. Trong khi đó, EGDI của cả Campuchia, Myanma và Lào đều thấp hơn so với mức trung bình của châu Á và thế giới, phản ánh những hạn chế trong việc cung cấp các dịch vụ công trực tuyến.

2.2. Thể chế phát triển kinh tế số của khu vực và các quốc gia

Để phát triển kinh tế số, các quốc gia trong Tiểu vùng đã xây dựng các chương trình, chiến lược và cơ chế hợp tác của khu vực, quốc tế phù hợp với bối cảnh, điều kiện đặc thù của từng quốc gia.

- Về thể chế

    Tiến trình chuyển đổi số và phát triển kinh tế số nói riêng ở khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông được chia thành hai giai đoạn chính, đặc trưng bởi các chương trình, chiến lược và cơ chế hợp tác khu vực liên quan tới kinh tế số. Cụ thể: Giai đoạn đặt nền móng cho sự phát triển kinh tế số ở Tiểu vùng sông Mê Kông. Giai đoạn này bắt đầu từ năm 2000 - 2020 với sự ra đời của các thể chế tạo nền tảng cho thương mại điện tử và hợp tác số hóa… Cột mốc quan trọng nhất của giai đoạn này là vào năm 2011, các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông thông qua Khung Chiến lược Chương trình hợp tác kinh tế GMS 2012-2022 (Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng); trong đó, ICT trở thành một trong chín lĩnh vực ưu tiên của khu vực. Các dự án đầu tư cho ICT trong GMS - SF 2022 tập trung xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin và ứng dụng ICT, mở rộng mạng lưới internet, đào tạo thế hệ nguồn nhân lực mới cho nền kinh tế số… Đặc biệt, giai đoạn này cũng chứng kiến sự ra đời của một loạt các cơ chế tạo thuận lợi và thúc đẩy phát triển thương mại điện tử cho khu vực - được coi là một cấu phần trong lĩnh vực ICT như Khuôn khổ về nền tảng hợp tác thương mại điện tử xuyên biên giới GMS (thông qua năm 2015) và Liên minh doanh nghiệp thương mại điện tử GMS (thành lập năm 2016). Ngoài ra, một số cơ chế của ASEAN về hội nhập số điển hình như Hiệp định khung ASEAN về thương mại điện tử (thông qua năm 2000), Kế hoạch tổng thể về xây dựng Cộng đồng Kinh tế ASEAN (năm 2007), Kế hoạch tổng thể phát triển ICT của ASEAN (ban hành năm 2015), Ủy ban Điều phối ASEAN về thương mại điện tử (thành lập năm 2016), Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử (ký kết năm 2019), Khuôn khổ hội nhập số ASEAN và các kế hoạch hành động (DIFAP) (thông qua năm 2019)… cũng góp phần hỗ trợ các quốc gia thành viên GMS phát triển hạ tầng kỹ thuật số, xây dựng chính phủ điện tử, thúc đẩy kết nối kỹ thuật số và phát triển thương mại điện tử trong khu vực.

    Giai đoạn chuyển đổi mạnh mẽ từ phát triển cơ sở hạ tầng ICT cơ bản sang phát triển kinh tế số tập trung với nhiều chương trình, sáng kiến và cơ chế hợp tác. Giai đoạn này bắt đầu từ năm 2021 đến nay với cột mốc quan trọng đánh dấu cho giai đoạn này là Khung Chiến lược chương trình hợp tác kinh tế GMS 2030 được thông qua vào năm 2021, trong đó, số hóa được xác định là một trong những trọng tâm của phát triển và hội nhập kinh tế ở khu vực. Hợp tác GMS 2030 nhấn mạnh tới cuộc cách mạng số ở khu vực với mục tiêu thúc đẩy số hóa toàn diện và ứng dụng công nghệ tiên tiến trong tất cả các hoạt động và dự án thuộc Chương trình. Cuộc cách mạng số ở GMS tập trung khai thác tiềm năng chuyển đổi số và hợp tác trên các phương diện khác nhau như: i) chính sách và quy định số; ii) kết nối internet, iii) phát triển thương mại điện tử và hệ thống thanh toán, iv) logistics và kỹ năng theo nhu cầu, và v) giảm thiểu rủi ro khi ứng dụng công nghệ số. Đồng thời, các quốc gia GMS cũng thông qua một loạt chiến lược và sáng kiến về hợp tác số hóa ở khu vực như: Sáng kiến hợp tác kinh tế số GMS (năm 2022), Chiến lược sáng tạo vì phát triển GMS 2030 (tháng 12-2023), Chương trình hành động về số hóa GMS 2025-2027 (năm 2024), Khung khổ hợp tác GMS về điện tử hóa chứng từ thương mại (thông qua tháng 11-2024)... Nội dung chính của các chiến lược này xoay quanh mục tiêu chuyển đổi số và số hóa toàn diện ở khu vực GMS theo chiều dọc (nâng cấp cơ sở hạ tầng kết nối số, thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển công nghệ số, tài chính số và quản trị số) và theo chiều ngang trong các lĩnh vực hợp tác ưu tiên (như nông nghiệp, năng lượng, môi trường, sức khỏe, du lịch thuận lợi hóa thương mại và đầu tư, vận tải và phát triển đô thị). Cùng với GMS, một số cơ chế của ASEAN cũng góp phần thúc đẩy quá trình chuyển đổi số ở Tiểu vùng như khung phục hồi tổng thể ASEAN và kế hoạch triển khai (năm 2020), Kế hoạch tổng thể về kinh tế số ASEAN 2021-2025 (tháng 1-2021), Kế hoạch làm việc về việc thực hiện Hiệp định ASEAN về thương mại điện tử 2021-2025 và Lộ trình Bandar Seri Begawan - Chương trình nghị sự về chuyển đổi số ASEAN (tháng 9-2021).

    Cùng với các thể chế khu vực, các quốc gia GMS đều đang xây dựng những chiến lược riêng về phát triển kinh tế số. Dưới đây là tổng hợp một số chương trình, chiến lược và khung chính sách phát triển kinh tế số của năm quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông. Trong đó, Thái Lan đi đầu quá trình phát triển kinh tế số tại Tiểu vùng với những chiến lược được ban hành sớm và các mục tiêu tham vọng.

    Bảng 1. Thể chế quốc gia về phát triển kinh tế số của các nước Tiểu vùng Mê Kông

    Quốc gia
    Chương trình, chiến lược
    Năm ban hành
    Campuchia
    Khung chính sách kinh tế và xã hội số giai đoạn 2021 - 2035
    2021
    Lào
    Kế hoạch Tổng thể về Kinh tế số
    Chiến lược Kinh tế số quốc gia 2021-2030
    Tầm nhìn Kinh tế số quốc gia 2021-2040
    2021
    Myanma
    Lộ trình Kinh tế số Myanma 2018 - 2025
    Lộ trình Kinh tế số Myanma 2030 (soạn thảo)
    2019
    2025 (dự kiến)
    Việt Nam
    Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030
    2020
    Thái Lan
    Kế hoạch phát triển xã hội và kinh tế số của Thái Lan 2018 - 2037
    2016

    Nguồn: Tổng hợp của tác giả

    Bên cạnh chiến lược quốc gia, các nước Tiểu vùng cũng đã ban hành các luật và quy định liên quan đến nâng cấp mạng viễn thông, internet, phát triển hạ tầng ICT, bảo đảm an toàn, an ninh mạng, phát triển nguồn nhân lực kỹ thuật số, hay các chính sách phát triển riêng cho từng ngành, lĩnh vực của nền kinh tế số (ví dụ như thương mại điện tử, công nghệ tài chính (fintech), kinh tế chia sẻ…). Đặc biệt, các quốc gia đều đã ban hành các chương trình, chính sách nhằm khuyến khích doanh nghiệp và người dân tăng cường ứng dụng số vào hoạt động sản xuất kinh doanh và đời sống.

    2.3. Một số thách thức và hàm ý chính sách đối với Việt Nam

    Mặc dù các quốc gia trong Tiểu vùng sông Mê Kông đã có những bước tiến quan trọng trong thúc đẩy nền kinh tế số thông qua việc xây dựng các chiến lược, chính sách lớn tầm khu vực cũng như quốc gia, tuy nhiên trong quá thực thi các chiến lược, chính sách đã cho thấy những yếu tố cản trở các quốc gia trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông trong phát triển nền kinh tế số. Đó là: (i) Hạ tầng chưa đồng bộ, sự chênh lệch về hạ tầng viễn thông và công nghệ của các nước trong Tiểu vùng còn lớn; (ii) Khung pháp lý và các thể chế liên quan tới phát triển kinh tế số chưa hoàn thiện và thiếu đồng bộ giữa các quốc gia; (iii) Thiếu hụt nguồn nhân lực số, nhất là nhân lực trình độ cao; (iv) Hạn chế về nguồn vốn đầu tư. Nguồn vốn chính phủ đầu tư cho hoạt động nghiên cứu và phát triển và cho các chương trình phát triển kinh tế số ở khu vực nhìn chung còn hạn chế.

    Trong thời gian tới, để vượt qua những rào cản hiện nay và khai thác tối đa tiềm năng của kinh tế số, Việt Nam cần triển khai đồng bộ các nhiệm vụ trọng tâm sau:

    Một là, trong bối cảnh khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông đã hình thành nhiều cơ chế hợp tác, song sự chồng chéo giữa các cơ chế này đang làm giảm hiệu quả thực thi. Do đó, bên cạnh việc khai thác tối đa những khuôn khổ hợp tác khu vực sẵn có, Việt Nam cần chú trọng hoàn thiện thể chế liên quan đến kinh tế số, bảo đảm phù hợp với điều kiện phát triển và đặc thù riêng của quốc gia.

    Hai là, nâng cấp cơ sở hạ tầng số, đây không chỉ là trách nhiệm của Chính phủ mà còn đòi hỏi sự tham gia tích cực của các bên liên quan. Thực tiễn cho thấy, hạ tầng số đóng vai trò then chốt trong việc thúc đẩy chuyển đổi số quốc gia, gia tăng năng lực cạnh tranh và bảo đảm an ninh kinh tế - xã hội. Để đạt được mục tiêu này, Việt Nam cần đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), đồng thời mở rộng hợp tác với khu vực tư nhân nhằm phát triển đồng bộ mạng lưới viễn thông, phổ cập internet, dữ liệu số, hạ tầng vật lý - số, các tiện ích và công nghệ số. Đây là nền tảng quan trọng giúp hình thành hệ sinh thái kinh tế số hiện đại, kết nối khu vực và hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế số toàn cầu.

    Ba là, phát triển nguồn nhân lực số. Trong bối cảnh kinh tế số đang trở thành động lực mới của tăng trưởng, Việt Nam cần đặc biệt chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Điều này đòi hỏi phải xây dựng và hoàn thiện các chương trình đào tạo gắn với nhu cầu thực tiễn, bảo đảm sự cân đối giữa các ngành nghề, đồng thời chú trọng cải cách toàn diện hệ thống giáo dục phổ thông theo hướng trang bị kỹ năng số, tư duy phản biện và khả năng sáng tạo. Phát triển nguồn nhân lực số không chỉ phục vụ trực tiếp cho tiến trình chuyển đổi số quốc gia, mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh và khả năng thích ứng của Việt Nam trong nền kinh tế toàn cầu.

    Bốn là, bảo đảm an ninh và an toàn trong môi trường số. Đây là nhiệm vụ có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đòi hỏi sự vào cuộc đồng bộ của Chính phủ, doanh nghiệp và toàn xã hội. Bảo đảm an ninh, an toàn số không chỉ cần những khoản đầu tư lớn về tài chính, nhân lực và công nghệ, mà còn phải liên tục cập nhật, thích ứng với những biến đổi nhanh chóng của công nghệ số và các mô hình ứng dụng mới. Một môi trường số an toàn và đáng tin cậy sẽ tạo nền tảng cho hoạt động kinh doanh số phát triển bền vững, đồng thời bảo vệ an ninh thông tin, quyền lợi người dùng và củng cố niềm tin xã hội đối với tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Để thực hiện nhiệm vụ này, Việt Nam cần triển khai ngay một số giải pháp: 1) xây dựng và hoàn thiện khung pháp lý về an ninh, an toàn thông tin số; 2) phát triển đội ngũ chuyên gia an ninh mạng chất lượng cao, đồng thời nâng cao nhận thức và kỹ năng số cho người dân, doanh nghiệp; 3) đầu tư các hệ thống công nghệ giám sát, cảnh báo và ứng cứu sự cố mạng hiện đại; 4) tăng cường hợp tác quốc tế trong chia sẻ thông tin, phòng chống tội phạm mạng và ứng phó với các mối đe dọa xuyên biên giới.

    3. Kết luận

    Có thể thấy rằng, các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế số được triển khai ở cấp khu vực hay quốc gia kể từ năm 2000 cho đến nay đã giúp các quốc gia trong khu vực Tiểu vùng sông Mê Kông vượt qua được những rào cản truyền thống về vị trí địa lý, hạ tầng giao thông và trình độ phát triển để hướng tới thu hẹp về khoảng cách phát triển kinh tế số giữa các quốc gia và khu vực. Tuy nhiên, để phát triển kinh tế số một cách hiệu quả thì cả năm quốc gia: Campuchia, Lào, Myanma, Thái Lan và Việt Nam cần có sự cải thiện đồng bộ và hiệu quả về mặt thể chế liên quan đến kinh tế số; đầu tư nâng cấp cơ sở hạ tầng số; phát triển nguồn nhân lực số; bảo đảm an ninh, an toàn trên môi trường số và với sự tham gia tích cực của tất cả các bên liên quan.

    _________________

    (1) Căn cứ theo Chỉ số kết nối di động, GSMA phân loại các quốc gia thành 5 nhóm theo thứ tự kết nối từ thấp đến cao, bao gồm các nhóm: khám phá, mới nổi, chuyển đổi, tiên tiến và dẫn đầu.

    (2) Hạ tầng vật lý - số là cầu nối giữa hạ tầng vật lý và hạ tầng số, bao gồm các thiết bị vật lý (như IoT, cảm biến, thiết bị tự động hóa), các hệ thống thu thập dữ liệu và nền tảng xử lý dữ liệu (AI, đám mây).

    (3) Chỉ số phát triển chính phủ điện tử (EGDI) đo lường mức độ phát triển các dịch vụ chính phủ điện tử của các quốc gia. Giá trị dao động từ 0 (thấp nhất) đến 1 (cao nhất), với các yếu tố chính bao gồm: i) Dịch vụ trực tuyến: Mức độ cung cấp và sử dụng các dịch vụ chính phủ trực tuyến; ii) Hạ tầng viễn thông: Khả năng kết nối internet và hạ tầng số; iii) Vốn nhân lực: Trình độ và kỹ năng của người dân để sử dụng công nghệ số.