Diễn đàn

Mô hình mã hóa và giải mã của Stuart Hall và ứng dụng để định hình thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử

08/10/2025 10:11

(LLCT) - Thông điệp đối ngoại đóng vai trò quan trọng trong việc thể hiện lập trường, nâng cao sức mạnh mềm của mỗi quốc gia, xây dựng lòng tin và thúc đẩy quan hệ quốc tế. Báo mạng điện tử đã trở thành công cụ hiệu quả để truyền tải thông điệp đối ngoại, giúp Việt Nam tiếp cận rộng rãi cộng đồng quốc tế, quảng bá hình ảnh đất nước. Bài viết phân tích mô hình mã hóa và giải mã của Stuart Hall và ý nghĩa trong việc định hình thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử Việt Nam, góp phần cải thiện chất lượng thông điệp đối ngoại, củng cố chiến lược truyền thông, tăng cường hợp tác, đối thoại quốc tế.

ThS VŨ THỊ MINH TÂM
Trường Đại học Hạ Long

Vai trò then chốt của báo chí đối ngoại trong sức mạnh mềm Việt ...
Các phóng viên báo chí tác nghiệp tại Hội báo toàn quốc 2025_Ảnh: Báo Nhân dân

1. Mở đầu

Thông điệp đối ngoại trên báo chí, trong đó có báo mạng điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc xây dựng hình ảnh, vị thế quốc gia và thúc đẩy quan hệ quốc tế. Thông qua kênh báo mạng điện tử, các thông điệp đối ngoại được truyền tải nhanh chóng, kịp thời đến đối tượng truyền thông, thể hiện lập trường chính trị, quan điểm, từ đó khẳng định vị thế và tiếng nói của quốc gia trên trường quốc tế. Đồng thời, báo mạng điện tử là công cụ hiệu quả để quảng bá hình ảnh đất nước, giới thiệu những thành tựu về văn hóa, kinh tế, xã hội, phát triển bền vững, góp phần xây dựng hình ảnh quốc gia tích cực và đáng tin cậy.

Nghiên cứu về mã hóa và giải mã thông điệp báo chí theo mô hình của Stuart Hall có ý nghĩa quan trọng về lý luận và thực tiễn, giúp hiểu rõ cách thức thông điệp đối ngoại được tạo ra, truyền đạt và tiếp nhận trong các bối cảnh khác nhau, ở các vị trí giải mã đa chiều, từ đó tối ưu hóa hiệu quả truyền thông đối ngoại.

2. Nội dung

2.1. Vai trò của thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử

Trong bối cảnh hiện nay, thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử đóng vai trò đặc biệt quan trọng trong xây dựng hình ảnh quốc gia, khẳng định vị thế trên trường quốc tế và thúc đẩy quan hệ giữa các quốc gia. Báo chí là kênh truyền thông mạnh mẽ để Chính phủ truyền tải quan điểm chính thức về các vấn đề toàn cầu, qua đó khẳng định lập trường chính trị và bảo vệ lợi ích quốc gia. Đối với các sự kiện quan trọng của đất nước, các cơ quan báo chí quốc gia đều thông tin và truyền thông một cách chủ động và tích cực. Các thông điệp được truyền đi đều nhằm khẳng định vai trò tích cực của Việt Nam trong việc duy trì hòa bình, ổn định khu vực và thúc đẩy hợp tác đa phương.

Bên cạnh đó, thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử là công cụ hiệu quả để quảng bá hình ảnh đất nước thông qua các bài viết, chương trình, phóng sự giới thiệu về văn hóa, con người, tình hình kinh tế - xã hội và những thành tựu nổi bật của đất nước.

Joseph Nye đã đưa ra khái niệm “sức mạnh mềm” (soft power), coi đó là công cụ quan trọng trong ngoại giao của mỗi quốc gia. Trong đó, thông điệp đối ngoại trên báo chí là một phần không thể thiếu trong việc triển khai sức mạnh mềm, vì nó giúp quốc gia truyền tải các giá trị, văn hóa và chính sách tới cộng đồng quốc tế một cách hiệu quả. J.Nye nhấn mạnh, khả năng truyền thông tin một cách thuyết phục có thể giúp quốc gia tạo ra sự ủng hộ và xây dựng mối quan hệ hợp tác với các nước khác mà không cần sử dụng đến sức mạnh cưỡng ép(1).

Trong các tình huống khủng hoảng, thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử có nhiệm vụ thông tin kịp thời, chính xác, góp phần định hướng dư luận. Bên cạnh đó, các thông điệp đối ngoại tích cực còn thúc đẩy hợp tác đa phương trên nhiều lĩnh vực. Thông qua các tin, bài trên báo mạng điện tử về hợp tác kinh tế, Việt Nam đã gửi đi thông điệp mạnh mẽ về cam kết hội nhập và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững. Các bài báo liên quan đến việc Việt Nam tham gia Hiệp định thương mại tự do không chỉ giới thiệu cơ hội hợp tác kinh tế mà còn thể hiện sự quyết tâm đổi mới và hội nhập quốc tế.

Thông qua việc thông tin minh bạch, chính xác và kịp thời, báo mạng điện tử đóng vai trò xây dựng lòng tin với cộng đồng quốc tế. Việc truyền tải thông điệp đối ngoại không chỉ giúp khẳng định hình ảnh quốc gia đối với các đối tác mà còn tạo cơ hội để Việt Nam đóng góp tích cực vào việc giải quyết các thách thức toàn cầu, như biến đổi khí hậu, các vấn đề an ninh phi truyền thống. Những thông điệp này không chỉ khẳng định trách nhiệm của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu mà còn xây dựng hình ảnh một quốc gia chủ động, sáng tạo và đáng tin cậy.

Như vậy, xây dựng thông điệp đối ngoại trên báo chí không chỉ đơn thuần là việc truyền tải thông tin mà còn là công cụ quan trọng trong chiến lược ngoại giao mềm của mỗi quốc gia. Từ việc định hướng dư luận, quảng bá hình ảnh, bảo vệ lợi ích quốc gia cho đến thúc đẩy hợp tác đa phương, báo chí đóng vai trò là cầu nối hiệu quả giữa quốc gia với cộng đồng quốc tế. Việc xây dựng và triển khai các thông điệp đối ngoại thành công đòi hỏi sự phối hợp chặt chẽ giữa báo chí và các cơ quan quản lý thông tin đối ngoại để bảo đảm tính thống nhất và hiệu quả, góp phần nâng cao vị thế của quốc gia trên trường quốc tế.

2.2. Thông tin đối ngoại trên báo mạng điện tử Việt Nam hiện nay

Truyền thông đối ngoại của Việt Nam hiện nay được thực hiện theo các nghị quyết và quyết định quan trọng của Chính phủ, nhằm xây dựng hình ảnh quốc gia tích cực và nâng cao vai trò, vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Các nội dung thông tin đối ngoại của Việt Nam được xác định rõ trong các văn bản chỉ đạo, phản ánh chiến lược dài hạn và những ưu tiên cụ thể trong công tác thông tin đối ngoại quốc gia.

Chỉ thị số 26-CT/TW ngày 10-9-2008 của Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới khẳng định tầm quan trọng của thông tin đối ngoại đối với việc xây dựng và bảo vệ hình ảnh quốc gia. Chỉ thị xác định, thông tin đối ngoại là một phần quan trọng trong chiến lược phát triển đất nước, nhằm quảng bá những giá trị văn hóa, lịch sử, con người Việt Nam, đồng thời phản ánh chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước Việt Nam đối với các vấn đề quốc tế. Ban Bí thư yêu cầu các cơ quan, tổ chức, đặc biệt là báo chí và các phương tiện truyền thông phải đổi mới cách thức và nội dung thông tin đối ngoại để làm cho cộng đồng quốc tế hiểu đúng về Việt Nam(2).

Kết luận số 57/KL-TW của Bộ Chính trị ngày 15-6-2023 về Tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới yêu cầu tập trung và tiếp tục nâng cao quảng bá chính sách đối ngoại của Việt Nam, phát huy thế mạnh về văn hóa, lịch sử và du lịch, đồng thời tạo dựng hình ảnh Việt Nam là một quốc gia hòa bình, ổn định, thân thiện, năng động và hội nhập quốc tế sâu rộng, đề cao các giá trị, lý tưởng cao đẹp của dân tộc Việt Nam, đóng góp của Việt Nam vào kho tàng văn hóa, tri thức nhân loại(3)...

Chính phủ đã có những định hướng quan trọng trong công tác truyền thông đối ngoại, thể hiện sự quan tâm toàn diện và chiến lược trong tình hình mới. Quyết định số 2434/QĐ-TTg ngày 13-12-2016 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt quy hoạch hệ thống báo chí đối ngoại đến năm 2020, định hướng đến năm 2030 khẳng định chức năng, nhiệm vụ của báo chí trong thúc đẩy và phát triển đối ngoại quốc gia, đồng thời định hướng rõ nhiệm vụ và giải pháp hiện đại hóa báo chí đối ngoại, nâng cao chất lượng thông tin và mở rộng phạm vi ảnh hưởng ra quốc tế.

Quyết định 1191/QĐ-TTg ngày 05-8-2020 về “Phê duyệt mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp đổi mới và nâng cao năng lực công tác thông tin tuyên truyền và thông tin đối ngoại góp phần xây dựng biên giới hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển” nhằm đổi mới công tác tuyên truyền tại khu vực biên giới, coi trọng việc tăng cường hiểu biết lẫn nhau giữa Việt Nam và các nước láng giềng, qua đó thúc đẩy hòa bình, ổn định và phát triển.

Quyết định số 837/QĐ-TTg ngày 14-7-2022 về phê duyệt Đề án “Nâng cao hiệu quả công tác thông tin đối ngoại của các cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài đến năm 2030” tập trung triển khai nhiệm vụ đào tạo nhân lực, cải tiến phương thức truyền thông và tăng cường phối hợp quốc tế; nhấn mạnh vai trò của các cơ quan đại diện trong việc kết nối với cộng đồng quốc tế và bảo vệ lợi ích quốc gia qua kênh thông tin đối ngoại.

Các văn bản này có tính chất nền tảng, xác định tầm nhìn dài hạn, đồng thời đưa ra những giải pháp cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả công tác truyền thông đối ngoại trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng. Theo đó, công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam không chỉ tập trung vào việc quảng bá hình ảnh quốc gia mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc duy trì ổn định chính trị, kinh tế và bảo vệ lợi ích quốc gia, đặc biệt trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng.

2.3. Mô hình mã hóa giải mã thông điệp của Stuart Hall

Nhà lý thuyết văn hóa người Anh Stuart Hall đã phát triển mô hình mã hóa - giải mã (encoding/decoding) để giải thích cách thông điệp, trong đó có thông điệp truyền thông, được tạo ra và tiếp nhận. Đây là một nội dung quan trọng trong nghiên cứu báo chí, truyền thông, tập trung vào việc khám phá quá trình giao tiếp giữa người sản xuất thông điệp (như nhà báo, nhà sản xuất chương trình) và công chúng.

Mô hình bao gồm ba giai đoạn chính: (1) Mã hóa (Encoding), (2) Thông điệp (Messenger), (3) Giải mã (Decoding) (Hình 1).

Hình 1. Mô hình mã hoá - giải mã của Stuart Hall

458-202510080956231.png

Cụ thể, mã hóa là quá trình mà người sản xuất nội dung (nhà báo, phóng viên) sử dụng các mã ký hiệu (hình ảnh, ký hiệu, ngôn ngữ, video, infographic, audio) để tạo ra thông điệp, dựa trên những thông tin và ý nghĩa xã hội cụ thể. Ý nghĩa của thông điệp không chỉ phụ thuộc vào bản thân người sản xuất nội dung (ý muốn, mục đích chủ quan) mà còn phụ thuộc vào các yếu tố khách quan khác, bao gồm bối cảnh xã hội, kinh nghiệm cá nhân. Thông điệp được truyền tải dưới hình thức biểu hiện của các phương tiện báo chí, truyền thông hay mạng xã hội. Nó tồn tại như một sản phẩm ký hiệu mở, có thể được hiểu theo nhiều cách khác nhau.

Giải mã là quá trình công chúng tiếp cận, hiểu và tiếp nhận thông điệp. Quá trình giải mã chịu tác động bởi nhiều yếu tố như nền tảng tri thức, văn hóa, xã hội và trải nghiệm cá nhân của công chúng. Stuart Hall cho rằng công chúng, độc giả không chỉ tiếp nhận thông điệp một cách thụ động mà còn có thể chủ động diễn giải theo cách riêng của mình(4).

Nghiên cứu thông điệp đối ngoại thông qua ứng dụng mô hình mã hóa và giải mã của Stuart Hall đã mở ra hướng tiếp cận điển hình và hiệu quả trong phân tích thông điệp báo chí nói chung, thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử của Việt Nam nói riêng

Stuart Hall xác định ba cách giải mã thông điệp. Thứ nhất, từ vị trí ưu thế (Dominant/hegemonic position), công chúng thể hiện sự đồng tình, đồng ý và chấp nhận thông điệp theo mục đích mà người sản xuất đã hướng đến. Vị trí này thể hiện hiệu quả thành công của thông điệp mà nhà sản xuất đã đặt ra làm mục đích, mục tiêu truyền thông trước đó. Thứ hai, từ vị trí thương lượng (Negotiated position), công chúng chỉ có thể chấp nhận một phần thông điệp, đồng thời thể hiện những quan điểm, ý kiến cá nhân nhằm bổ sung, phản biện hay điều chỉnh thông điệp từ nội dung thông tin nhận được để phù hợp với quan điểm tiếp cận cá nhân. Thứ ba, từ vị trí đối kháng (Oppositional position), công chúng phản đối thông điệp hiện có và diễn giải thông điệp theo cách đối nghịch, không chấp nhận quan điểm của nhà sản xuất. Đối với vị trí này, nhà sản xuất hoàn toàn thất bại đối với mục đích đặt ra(5).

Ý nghĩa của mô hình mã hóa - giải mã của Stuart Hall

Mô hình này có ảnh hưởng lớn trong nghiên cứu truyền thông và báo chí, đặc biệt trong việc hiểu rõ cách công chúng tiếp nhận và giải mã thông điệp. Nhiều nhà nghiên cứu đã thảo luận về các ưu điểm, hạn chế, cũng như tác dụng của mô hình này trong thực tế.

Thứ nhất, mô hình này phá vỡ quan điểm truyền thống xem công chúng là người tiếp nhận thông tin thụ động. S.Hall nhấn mạnh rằng công chúng đóng vai trò tích cực trong việc “giải mã” thông điệp dựa trên bối cảnh văn hóa, xã hội và trải nghiệm cá nhân. Hiểu về cách công chúng giải mã thông điệp giúp nhà sản xuất điều chỉnh nội dung để giảm thiểu hiểu lầm và tối ưu hóa tác động của truyền thông. Mô hình mã hóa và giải mã của S.Hall cũng thách thức các quan điểm cho rằng truyền thông chỉ đơn thuần là một công cụ kiểm soát ý thức hệ. Các nghiên cứu của David Morley đã áp dụng mô hình này vào phân tích việc khán giả truyền hình tiếp nhận thông điệp truyền thông trên các chương trình tin tức, từ đó chỉ ra sự khác biệt đáng kể trong cách tiếp nhận thông tin giữa các nhóm xã hội. Thêm vào đó, mô hình định hướng phân tích sự đa dạng trong phản hồi của công chúng, giải thích tại sao một thông điệp báo chí lại gây ra những phản ứng khác nhau từ sự đồng thuận, hoài nghi cho đến phản đối, đặc biệt trong bối cảnh truyền thông liên văn hóa, liên quốc gia(6).

Thứ hai, mô hình mã hóa - giải mã phân tích vai trò của quyền lực trong việc định hình thông điệp và ảnh hưởng đến cách công chúng giải mã thông điệp. Nhà sản xuất thông điệp (như nhà báo, các tổ chức truyền thông) không chỉ chọn lọc và sắp xếp thông tin mà còn mang theo các giá trị, ý thức hệ và lợi ích nhất định. Do đó, cách thông điệp được định hình có thể phản ánh các mối quan hệ quyền lực trong xã hội, đồng thời ảnh hưởng đến cách công chúng hiểu và tiếp nhận thông điệp đó.Tuy nhiên, mô hình mã hóa - giải mã của S.Hall có hạn chế khi đặt trong môi trường truyền thông hiện đại với tính chất phi tuyến tính. Trong kỷ nguyên kỹ thuật số, quá trình mã hóa và giải mã trở nên phức tạp hơn vì thông điệp được truyền tải thông qua nhiều nền tảng khác nhau. Thêm vào đó, mô hình không phân tích kỹ vai trò của công nghệ truyền thông mới trong việc định hình cách công chúng tiếp cận và giải mã thông điệp. Ví dụ, trên mạng xã hội, người dùng không chỉ giải mã thông điệp mà còn tái mã hóa (re-code) và lan truyền thông điệp theo cách riêng.

Mô hình mã hóa - giải mã của S.Hall đã khẳng định tính hữu ích trong lý thuyết và thực tiễn báo chí, góp phần làm sáng tỏ cách công chúng tiếp nhận thông điệp, đồng thời giúp cải thiện chiến lược truyền thông trong các lĩnh vực như báo chí đối ngoại, truyền thông chính trị, và truyền thông số. Tuy nhiên, để áp dụng hiệu quả, mô hình cần được mở rộng và bổ sung trước những thách thức của hệ thống truyền thông hiện đại.

2.4. Ứng dụng mô hình Stuart Hall trong nghiên cứu thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử

Mô hình mã hóa - giải mã của Stuart Hall cung cấp góc nhìn hữu ích trong việc nghiên cứu và phân tích phương pháp công chúng quốc tế tiếp nhận thông điệp đối ngoại từ báo mạng điện tử. Quá trình mã hóa bắt đầu từ các nhà báo, biên tập viên và các tòa soạn báo mạng điện tử, những người sản xuất nội dung nhằm quảng bá hình ảnh quốc gia, phản ánh chính sách đối ngoại của đất nước, từ đó xây dựng và củng cố niềm tin của cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài cũng như giúp cộng đồng quốc tế hiểu đúng, hiểu sâu sắc về đất nước, con người Việt Nam.

Các cơ quan báo chí đã sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh chuẩn quốc tế như một loại hình ngôn ngữ giao tiếp thông dụng toàn cầu, tập trung vào các chủ đề tích cực như phát triển bền vững, hợp tác kinh tế, và trách nhiệm toàn cầu. Thông điệp được truyền tải qua nhiều hình thức như bài báo, đồ họa, hoặc video, audio với nội dung rõ ràng, thuyết phục. Những tin bài này thường tập trung làm nổi bật vai trò của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu và tạo ấn tượng tích cực về quốc gia. Tuy nhiên, công chúng sẽ giải mã thông điệp theo bối cảnh và nhận thức riêng của họ, dẫn đến ba vị trí giải mã chính. Việc phân tích này không chỉ giúp nhà sản xuất thông điệp hiểu rõ hơn cách công chúng tiếp nhận, mà còn tăng hiệu quả của truyền thông đối ngoại. Thông qua điều chỉnh nội dung để phù hợp với nhiều nhóm công chúng, báo mạng Việt Nam có thể góp phần xây dựng hình ảnh quốc gia tích cực và thúc đẩy hợp tác quốc tế.

Có thể thấy, ứng dụng mô hình mã hóa - giải mã của Stuart Hall trong truyền thông đối ngoại trên báo mạng điện tử đóng vai trò quan trọng trong việc phân tích, dự đoán và cải thiện hiệu quả truyền tải thông điệp đối ngoại quốc gia đến công chúng quốc tế.

Thứ nhất, mô hình giúp phân tích đa chiều về cách thức công chúng quốc tế tiếp nhận thông điệp. Với ba vị trí giải mã (ưu thế, thương lượng, và đối kháng), mô hình giúp nhà sản xuất nội dung hiểu rõ rằng mỗi công chúng sẽ tiếp nhận thông điệp qua lăng kính xã hội và văn hóa riêng của họ. Điều này giúp dự đoán các phản ứng khác nhau, từ ủng hộ tích cực, đồng ý có điều kiện, đến bác bỏ hoàn toàn.

Thứ hai, mô hình hỗ trợ các báo mạng điện tử tối ưu hóa thông điệp để phù hợp với đối tượng công chúng mục tiêu. Thông qua việc nhận diện cách thông điệp có thể bị hiểu lầm hoặc phản đối, cơ quan báo chí nói chung, các báo mạng điện tử nói riêng có thể điều chỉnh cách mã hóa nội dung, chọn lọc thông tin phù hợp và sử dụng ngôn ngữ hiệu quả hơn. Điều này đặc biệt quan trọng trong bối cảnh truyền thông đối ngoại hiện nay.

Thứ ba, ứng dụng mô hình tăng cường vai trò của truyền thông đối ngoại trong việc xây dựng hình ảnh quốc gia. Báo mạng không chỉ cung cấp thông tin mà còn là công cụ quảng bá giá trị văn hóa, thành tựu kinh tế và trách nhiệm của Việt Nam trong các vấn đề toàn cầu. Mô hình Stuart Hall giúp các cơ quan truyền thông đối ngoại duy trì sự cân bằng giữa việc truyền tải thông điệp quốc gia và đáp ứng kỳ vọng của công chúng quốc tế, từ đó nâng cao uy tín và sức ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế.

Thứ tư, mô hình nhấn mạnh tính tương tác trong quá trình truyền thông. Thông qua việc nhận biết rằng công chúng không phải là người tiếp nhận thụ động, các nhà sản xuất thông điệp có thể tạo ra nội dung kích thích sự đối thoại, mở rộng tầm ảnh hưởng của thông điệp đối ngoại, và xây dựng mối quan hệ lâu dài với công chúng quốc tế.

3. Kết luận

Nghiên cứu thông điệp đối ngoại thông qua ứng dụng mô hình mã hóa và giải mã của Stuart Hall đã mở ra hướng tiếp cận điển hình và hiệu quả trong phân tích thông điệp báo chí nói chung, thông điệp đối ngoại trên báo mạng điện tử của Việt Nam nói riêng. Từ mô hình đã phân tích, các nhà nghiên cứu báo chí và những người làm công tác báo chí có thể hiểu rõ quá trình tạo lập và truyền tải thông điệp, từ đó đánh giá đầy đủ về khả năng và mức độ tiếp nhận thông điệp của công chúng quốc tế. Đặc biệt, hiểu rõ các vị trí giải mã của công chúng (vị trí ưu thế, vị trí thương lượng và vị trí đối kháng) giúp nhà sản xuất thông điệp báo chí xác định và định hướng đối tượng công chúng cụ thể, dự kiến kết quả tiếp nhận để tạo lập thông điệp đối ngoại phù hợp, bảo đảm các nguyên tắc của thông điệp báo chí và nội dung truyền thông thông tin đối ngoại của Việt Nam, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả thông điệp đối ngoại, bảo đảm tính chính xác và sức thuyết phục của thông điệp, đồng thời thúc đẩy, lan tỏa hình ảnh quốc gia trên trường quốc tế.

_________________

Ngày nhận bài: 4-12-2024; Ngày bình duyệt: 06-12-2024; Ngày duyệt đăng: 01-10-2025.

Email tác giả: vuthiminhtam@daihochalong.edu.vn

(1) J.S.Nye,: “The future of soft power in US foreign policy”, xem Soft power and US foreign policy, Routledge, 2010, tr.16-23.

(2) Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa X: Chỉ thị số 26-CT/TW về tiếp tục đổi mới và tăng cường công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, 2008.

(3) Bộ Chính trị: Kết luận số 57/KL-TW về tiếp tục nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác thông tin đối ngoại trong tình hình mới, 2023.

(4), (5) S.Hall: “Encoding - Decoding”, xem Crime and Media, Routledge, 1980, tr.44-55.

(6) D.Morley: The nationwide audience, British Film Institute, 1980.