Quốc tế

Nghị quyết số 03/NQ-BCT Chiến lược 3 xây trong công cuộc đổi mới toàn diện ở Lào hiện nay

16/10/2025 14:55

(LLCT) - Bài viết phân tích nội dung, thực tiễn thực hiện Chiến lược 3 xây trong công cuộc đổi mới toàn diện ở Lào trong những năm qua, chỉ ra những khó khăn và đề xuất các giải pháp nhằm thực hiện Chiến lược 3 xây một cách toàn diện, khoa học và bền vững trong những năm tiếp theo.

MEKKHALA NAMMAVONG

Thông qua phát triển hạ tầng kinh tế, nền tảng kỹ thuật, bảo đảm chế độ dân chủ nhân dân, đưa Lào từng bước phát triển theo định hướng XHCN_Ảnh: Tạp chí Lào Việt

1. Mở đầu

Ngày 15-02-2012, Bộ Chính trị Trung ương Đảng Nhân dân cách mạng Lào đã ban hành Nghị quyết số 03/NQ-BCT về chiến lược xây tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện, xây dựng thôn bản thành đơn vị phát triển (hay Nghị quyết về “Chiến lược 3 xây”). Đây là chiến lược có ý nghĩa đặc biệt trong việc củng cố chế độ dân chủ nhân dân, bảo đảm tính liên kết dọc trong hệ thống chính trị, đồng thời phát huy vai trò của nhân dân trong xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

2. Nội dung

2.1. Khái quát về “Chiến lược 3 xây”

Nghị quyết số 03/NQ-BCT nhằm mục tiêu thay đổi căn bản tốc độ, phương thức phát triển ở 3 cấp tỉnh, huyện, thôn/bản phù hợp với định hướng phát triển và yêu cầu của từng cấp, là định hướng trọng tâm trong công cuộc đổi mới toàn diện tại Lào.

Thứ nhất, xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược

Nội dung quan trọng đầu tiên của “Chiến lược 3 xây” là xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược. Để đạt được mục tiêu đó, cần thực hiện nhiều nhiệm vụ:

Nâng cao vai trò của tỉnh ủy - là trung tâm lãnh đạo chính trị toàn diện tại địa phương. Tỉnh ủy cần có năng lực chỉ đạo thực hiện và giám sát các lĩnh vực văn hóa, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh; kết nối giữa Đảng, chính quyền và nhân dân tại địa phương.

Hiện đại hóa nền hành chính cấp tỉnh. Với vai trò là cấp quản lý cao nhất tại địa phương, tỉnh cần xây dựng một hệ thống hành chính chuyên nghiệp, minh bạch, hiệu lực, hiệu quả. Điều này bảo đảm cho việc thực thi pháp luật, điều hành phát triển và cung cấp dịch vụ công diễn ra thông suốt, đúng pháp luật và đáp ứng yêu cầu đổi mới quản lý nhà nước theo hướng hiện đại.

Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Phát huy vai trò của nhân dân trong tham gia giám sát, phản biện và đồng hành cùng chính quyền.

Cả ba nhiệm vụ đó được thực hiện thống nhất, bảo đảm tính đồng bộ trong triển khai các chủ trương lớn của quốc gia.

Thứ hai, xây dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện

Cấp huyện đóng vai trò trung gian quan trọng trong “Chiến lược 3 xây”, vừa hỗ trợ cấp tỉnh, vừa trực tiếp lãnh đạo cấp thôn bản. Xây dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện bao gồm hai phương diện cơ bản:

Góp phần xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược. Huyện cần có đầy đủ sức mạnh chính trị - hành chính để triển khai và cụ thể hóa các quyết sách, kế hoạch của cấp tỉnh. Điều này đòi hỏi năng lực tổ chức, quản lý, các nguồn lực của huyện phải phát triển đồng bộ, bảo đảm tính kết nối từ trên xuống dưới.

Trực tiếp hỗ trợ xây dựng thôn bản phát triển. Huyện là cấp tổ chức thực hiện và hướng dẫn thôn bản thực hiện các nội dung phát triển như: xóa đói, giảm nghèo, nâng cao dân trí, chăm lo đời sống văn hóa, an ninh, quốc phòng. Việc này đòi hỏi huyện phải là một đơn vị hành chính có năng lực tổ chức cao, mạnh về chuyên môn, vững về chính trị và hiệu quả trong quản lý điều hành.

Thứ ba, xây dựng thôn, bản thành đơn vị phát triển

Thôn, bản được xác định là đơn vị cơ sở nền tảng của chế độ dân chủ nhân dân. Phát triển toàn diện nông thôn cả về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh:

Củng cố năng lực quản lý, tự quản ở cơ sở. Việc tăng cường dân chủ ở cơ sở phải gắn với phát huy vai trò tự chủ, tự quản của cộng đồng dân cư. Thôn bản không chỉ là nơi cư trú mà còn là đơn vị chính trị - xã hội có khả năng tổ chức và thực hiện các nhiệm vụ phát triển cơ sở.

Xây dựng nền tảng chính trị vững chắc ở nông thôn. Điều này được thực hiện thông qua việc triển khai các chương trình xóa đói, giảm nghèo, nâng cao chất lượng giáo dục, văn hóa, y tế, đồng thời củng cố hệ thống chính trị cơ sở và đội ngũ cán bộ dân tộc tại chỗ.

Biến thôn, bản thành trung tâm phát triển đa chiều, tích hợp nhiều chức năng (chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh). Đây là nền tảng để giữ vững ổn định từ cơ sở, bảo đảm hòa bình, an ninh và phát triển bền vững (1).

2.2. Thực tiễn thực hiện Chiến lược 3 xây vì mục tiêu đổi mới toàn diện

Các cấp ủy đảng, tổ chức chính quyền các cấp đã quan tâm chỉ đạo, triển khai, thực hiện Nghị quyết 03/NQ-BCT và đạt được nhiều thành tựu:

Một là, trong lĩnh vực chính trị - hành chính

Việc xây dựng hệ thống chính trị - hành chính vững mạnh, ổn định là tiền đề then chốt cho mọi nỗ lực đổi mới toàn diện.

Ở cấp tỉnh, các tổ chức trong hệ thống chính trị đã được đổi mới theo hướng tinh gọn, hiệu quả. Điều này đồng nghĩa với việc tối ưu hóa bộ máy, loại bỏ các khâu trung gian không cần thiết và tăng cường tính chuyên nghiệp. Năng lực lãnh đạo và quản lý được nâng cao.

Các tổ chức trong hệ thống chính trị cấp huyện đã được xây dựng vững mạnh toàn diện về tổ chức, nhân sự, năng lực xây dựng kế hoạch và chỉ đạo. Cấp huyện vừa hỗ trợ cấp tỉnh triển khai các chính sách, chiến lược thông suốt, bảo đảm các chủ trương đổi mới được cụ thể hóa và triển khai hiệu quả trong phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ quốc phòng an ninh, tạo ra những thay đổi thiết thực đời sống nhân dân.

Hệ thống chính trị cơ sở tại thôn, bản được củng cố vững chắc, với sự phối hợp chặt chẽ giữa chính quyền cơ sở, Mặt trận Lào xây dựng đất nước và các tổ chức quần chúng. Năng lực tự quản và khả năng đoàn kết nhân dân được tăng cường, khơi dậy tinh thần sáng tạo của cộng đồng xã hội chủ động giải quyết các vấn đề tại chỗ và phát huy nội lực. Sự tham gia tích cực của người dân đã biến thôn, bản thành đơn vị phát triển, chủ trương, chính sách được đón nhận và thực hiện một cách chủ động, tích cực.

Hệ thống chính trị địa phương nói chung, nhất là cấp bản/cụm bản đã được củng cố, lãnh đạo nhân dân thực hiện tốt nhiệm vụ chính. Các cấp tỉnh, huyện, bản/cụm bản, cơ cấu tổ chức (52 huyện) đã được điều chỉnh theo hướng xây dựng huyện thành đơn vị toàn diện vững mạnh, trong đó có 34 huyện có điều kiện xây dựng huyện vững mạnh, toàn diện. Cả nước có 6.666 bản có tổ chức đảng vững mạnh, toàn diện, chiếm 78,75% tổng số bản/cụm bản, trên 82% bản/cụm bản có đảng viên làm trưởng bản, trên 81% bản/cụm bản có tổ chức đảng và không có bản/cụm bản trắng(2).

Sự ổn định của hệ thống chính trị ở cả ba cấp, từ trung ương đến địa phương, không chỉ bảo đảm sự vận hành thông suốt của bộ máy và là nền tảng vững chắc cho việc thực hiện các mục tiêu đổi mới toàn diện Lào.

Hai là, trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh

Sự ổn định về quốc phòng và an ninh là điều kiện tiên quyết để thúc đẩy các mục tiêu đổi mới toàn diện tại Lào. Chiến lược 3 xây đã góp phần củng cố vững chắc lĩnh vực trọng yếu này ở tất cả các cấp, tạo dựng môi trường an toàn và thuận lợi cho sự phát triển của đất nước.

Ở cấp tỉnh, các chủ trương về quốc phòng, an ninh toàn dân đã được triển khai đồng bộ và sâu rộng. Điều này thể hiện qua việc củng cố lực lượng vũ trang và việc nâng cao ý thức và trách nhiệm của toàn dân trong công tác bảo vệ Tổ quốc. Lực lượng quốc phòng, an ninh cấp tỉnh được xây dựng vững mạnh, đóng vai trò chủ chốt trong việc duy trì hòa bình và trật tự xã hội, kịp thời ứng phó với các mối đe dọa. Nhiệm vụ quốc phòng, an ninh được lồng ghép với phát triển kinh tế - xã hội và hợp tác quốc tế. Điều này tạo ra một môi trường phát triển an toàn, thu hút nguồn lực và thúc đẩy tăng trưởng.

Lực lượng quốc phòng và an ninh cấp huyện được tăng cường toàn diện về chính trị, tư tưởng, tổ chức và chuyên môn. Họ không chỉ là những đơn vị chiến đấu độc lập sẵn sàng ứng phó với các tình huống phức tạp, mà còn có khả năng bồi dưỡng và chỉ đạo các đơn vị cấp dưới. Lực lượng cấp huyện cũng tham gia hiệu quả vào các hoạt động phòng ngừa, duy trì an ninh trật tự ở cấp cơ sở, bảo đảm sự ổn định cần thiết cho các hoạt động đổi mới kinh tế và xã hội, tạo điều kiện để người dân an tâm lao động, sản xuất.

Ở cấp thôn bản, nhờ sự tham gia tích cực của cộng đồng, trật tự an toàn được bảo đảm, tình trạng buôn bán ma túy và tội phạm giảm đáng kể. Khi người dân chủ động tham gia vào công tác an ninh, họ không chỉ bảo vệ chính mình mà còn góp phần xây dựng một môi trường sống yên bình, tạo điều kiện tập trung vào phát triển kinh tế, nâng cao đời sống. Số bản/cụm bản quốc phòng tốt đã tăng lên 7.091 bản/cụm bản, chiếm 83,72%; số bản/cụm bản có sức chiến đấu mạnh tăng lên 1.164, số bản/cụm bản an ninh tốt tăng lên 6.727, chiếm 79,72%; số bản/cụm bản không có ma túy tăng lên 5.781, chiếm 68,25%; số bản/cụm bản không có tiền án tăng lên 6.308, chiếm 74,47% tổng số bản/cụm bản(3).

Ba là, trong lĩnh vực kinh tế

“Chiến lược 3 xây” cũng đã tạo ra những thay đổi tích cực và sâu rộng trong phát triển kinh tế.

Các tỉnh không chỉ triển khai chủ trương của Đảng mà còn chủ động xây dựng những kế hoạch chiến lược, chương trình, đề án phát triển phù hợp với đặc điểm và tiềm năng kinh tế của địa phương. Cấp tỉnh trở thành đầu tàu, định hướng và điều phối các hoạt động kinh tế, bảo đảm sự phát triển hài hòa, hiệu quả cho toàn vùng.

Cấp huyện đóng vai trò cầu nối quan trọng trong việc đưa các chính sách kinh tế vĩ mô xuống tận cơ sở và thúc đẩy sản xuất. Hệ thống kết cấu hạ tầng giao thông và thông tin liên lạc được cải thiện đáng kể, giúp phá vỡ rào cản địa lý và kết nối sản xuất ở nông thôn với thị trường. Các huyện tích cực khuyến khích ứng dụng giống cây trồng, kỹ thuật và công nghệ mới vào sản xuất, kết hợp với việc xây dựng gia đình văn hóa kiểu mẫu và phát triển công nghiệp chế biến sản phẩm nông nghiệp. Những nỗ lực này đã góp phần nâng cao năng suất, đa dạng hóa sản phẩm và bảo đảm an ninh lương thực, tạo ra bước tiến lớn trong việc hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn.

Thực hiện “Chiến lược 3 xây”, các thôn, bản đã tập trung phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật phục vụ sản xuất và đời sống, như hệ thống thủy lợi, đường nội đồng, điện, nước sạch... Mục tiêu mọi gia đình đều có đủ ăn, đủ sống đã và đang được hiện thực hóa, cải thiện rõ rệt về đời sống kinh tế ở cấp cơ sở. Những thay đổi tích cực này không chỉ nâng cao chất lượng cuộc sống mà còn tạo ra tiền đề vững chắc cho các mục tiêu đổi mới sâu rộng hơn, khi người dân có nền tảng kinh tế ổn định để tham gia vào các hoạt động phát triển khác.

Việc phát triển hạ tầng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân được cải thiện, mở rộng đến các vùng nông thôn xa xôi hẻo lánh. Đến nay, số bản/cụm bản có đường giao thông thông suốt cả năm tăng lên 84,40%, 91,65% tổng số bản/cụm bản có nước sạch, 87% tổng số bản/cụm bản có điện. 104.249 hộ gia đình tại 2.242 thôn bản đã được Ngân hàng Nhà nước cho vay vốn với tổng số vốn là 3.384,5 Quỹ phát triển thôn tiếp tục được đẩy mạnh và hoạt động tại 6.531 bản/cụm bản thuộc 148 huyện trên toàn quốc, với tổng số vốn luân chuyển trên 1.357 tỷ kíp.

Bên cạnh đó, là xây dựng kết cấu hạ tầng, công nghệ thúc đẩy sản xuất hàng hóa, đặc biệt là các trung tâm dịch vụ kỹ thuật nông nghiệp, 81 trung tâm trồng trọt, chăn nuôi, 688 chợ giao dịch hàng hóa, tạo điều kiện cho người dân nông thôn trao đổi hàng hóa. Trên cơ sở thành công này, tỷ lệ hộ nghèo đã giảm xuống còn 6,59%; còn 1.736 bản nghèo (chiếm 20,5%); số thôn bản phát triển tăng lên 3.557 thôn (chiếm 42,23%), có 47 bản/cụm bản mang đặc điểm của thị trấn nhỏ; huyện nghèo giảm còn 23 huyện(4).

Bốn là, trong lĩnh vực văn hóa - xã hội

“Chiến lược 3 xây” đặt con người vào vị trí trung tâm, hướng tới việc nâng cao chất lượng cuộc sống và phát triển toàn diện xã hội.

Ở cấp tỉnh, việc đầu tư vào hạ tầng, trang thiết bị, công nghệ và nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ trong lĩnh vực văn hóa - xã hội là một ưu tiên hàng đầu. Mạng lưới y tế cơ bản được củng cố, bảo đảm người dân được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Đặc biệt, di sản văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc được bảo tồn và phát huy, không chỉ giữ gìn bản sắc độc đáo mà còn góp phần tăng cường tình đoàn kết thống nhất giữa nhân dân các bộ tộc. Điều này tạo nên một bản sắc văn hóa đa dạng và phong phú, làm nền tảng vững chắc cho công cuộc đổi mới.

Ở cấp huyện, hạ tầng vật chất cho giáo dục được đầu tư đầy đủ, đặc biệt là giáo dục tiểu học, bảo đảm mọi trẻ em trong độ tuổi đều được đến trường. Hạ tầng và cơ sở y tế cũng được cải thiện, chú trọng phòng ngừa bệnh và chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người dân. Các huyện cũng tích cực triển khai các biện pháp giảm thiểu chênh lệch thu nhập, bảo đảm an ninh trật tự, tạo ra một môi trường sống công bằng hơn. Di sản văn hóa và truyền thống tiếp tục được bảo tồn và phát huy, đồng thời nâng cao ý thức về đoàn kết dân tộc, chủ động chống các âm mưu chia rẽ, củng cố sự đồng thuận xã hội.

Người dân trong thôn, bản được giáo dục tư tưởng chính trị, nâng cao ý thức tự giác và tích cực tham gia vào công việc chung, góp phần vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Đặc biệt, tất cả trẻ em đều được đến trường, người lớn có kế hoạch nâng cao trình độ học vấn liên tục, cho thấy sự chú trọng vào phát triển con người bền vững. Nhiều thôn bản đã được công nhận là bản kiểu mẫu về văn hóa, y tế, an ninh trật tự, với môi trường sống vệ sinh, xanh, sạch, đẹp, phản ánh một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tạo nền tảng xã hội vững chắc cho quá trình đổi mới từ chính những cộng đồng nhỏ nhất.

Số trường tiểu học tăng 98,78%, tỷ lệ đi học tiểu học đạt 100%, là tiền đề để hoàn thành phổ cập tiểu học toàn quốc vào năm 2021, có 42 huyện công bố hoàn thành phổ cập trung học cơ sở. Đồng thời, lĩnh vực y tế được cải thiện, có 993 trạm y tế mới, hơn 5.000 tủ thuốc bản/cụm bản, có quỹ y tế dành cho người nghèo trong 102 huyện đã tạo điều kiện cho người nghèo tiếp cận dịch vụ y tế chiếm 94,18%, quá trình xây dựng trạm y tế đạt 64,84%, bản văn hóa đạt 55,40%, ngoài ra, việc phân cấp quản lý giữa trung ương và tỉnh, giữa tỉnh và huyện, giữa huyện và bản đã được điều chỉnh thống nhất hơn. Đặc biệt, quyền lợi, nhiệm vụ, trách nhiệm, quyền hạn quản lý nhà nước đã được phân công rõ ràng cho cấp địa phương, giúp cấp huyện và bản/cụm bản có trách nhiệm hơn. Điều này cho thấy số huyện, bản/cụm bản thực hiện 3 dự án thí điểm (52 huyện, 109 bản/cụm bản) đã tăng được thu và vượt chỉ tiêu đề ra. Một số bản/cụm bản về cơ bản đã tự trang trải được chi phí hành chính thường xuyên(5).

Năm là, trong lĩnh vực đối ngoại, hội nhập quốc tế

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế sâu rộng, “Chiến lược 3 xây” không chỉ tập trung vào nội lực mà còn hướng tới tăng cường năng lực đối ngoại ở cấp địa phương, biến hoạt động đối ngoại thành động lực quan trọng phục vụ mục tiêu đổi mới toàn diện của Lào.

Các tỉnh đã thể hiện sự nhanh nhạy và chủ động trong việc bảo vệ lợi ích quốc gia và địa phương. Điều này bao gồm việc tích cực thúc đẩy và thu hút hợp tác bên ngoài, tìm kiếm các cơ hội đầu tư, thương mại và trao đổi văn hóa. Đồng thời, cấp tỉnh cũng chủ động giải quyết các vấn đề phát sinh trong quan hệ biên giới, góp phần xây dựng một môi trường hòa bình và hợp tác ổn định. Sự chủ động này không chỉ giảm thiểu rủi ro mà còn tạo điều kiện thuận lợi để huy động các nguồn lực quốc tế cho quá trình đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội.

Các huyện đã phát huy khả năng giữ gìn an ninh trật tự theo luật pháp biên giới, bảo đảm một khu vực biên giới ổn định, an toàn. Điều này là nền tảng để tạo dựng sự đoàn kết và hợp tác tốt đẹp với các huyện lân cận của các nước bạn. Việc trao đổi hàng hóa và dịch vụ giữa nhân dân biên giới được thúc đẩy, không chỉ mang lại lợi ích kinh tế trực tiếp cho cộng đồng dân cư mà còn củng cố mối quan hệ hữu nghị và hiểu biết lẫn nhau. Những hoạt động giao lưu này phục vụ mục tiêu hội nhập quốc tế sâu rộng hơn của đất nước, biến biên giới thành cầu nối cho hợp tác và phát triển.

2.3. Một số hạn chế trong thực hiện “Chiến lược 3 Xây”

Mặc dù “Chiến lược 3 xây” của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào đã đạt được những thành quả đáng kể trong việc củng cố nền tảng chế độ dân chủ nhân dân và thúc đẩy đổi mới, quá trình triển khai trên thực tế vẫn còn một số hạn chế:

Thứ nhất, nhận thức và sự đồng thuận chưa toàn diện

Một trong những hạn chế lớn nhất là sự chưa đồng bộ trong nhận thức về Nghị quyết số 03/NQ-BCT ở các cấp ủy đảng, từ trung ương đến địa phương. Mặc dù đã có các hoạt động tổng kết, rút kinh nghiệm, tuy nhiên, sự nhận thức về tầm quan trọng chiến lược và nội hàm sâu sắc của “3 Xây” vẫn chưa thực sự như yêu cầu. Sự thiếu hụt trong nhận thức dẫn đến việc tổ chức và triển khai thiếu tính hệ thống và sự tập trung. Khi các cấp không cùng chia sẻ một tầm nhìn rõ ràng và mức độ ưu tiên như nhau, các mục tiêu đề ra dễ bị phân tán, chồng chéo hoặc không đạt được hiệu quả. Thực trạng này còn trầm trọng hơn khi trình độ hiểu biết và năng lực thực thi của một bộ phận cán bộ còn hạn chế, khiến cho việc hoàn thiện hệ thống tổ chức ở một số nơi vẫn mang tính hình thức. Điều này làm suy yếu năng lực điều hành và khả năng cụ thể hóa chính sách thành hành động thực tiễn.

Đến nay, việc thực hiện chế độ trợ cấp cho các đơn vị hành chính bản/cụm bản chưa có lương vẫn chưa được hoàn tất, mới chỉ triển khai ở hội đồng bản/cụm bản mà chưa áp dụng rộng rãi cho các đơn vị khác. Điều này cho thấy sự thiếu nhất quán trong chính sách phúc lợi và quản lý nhân sự cấp cơ sở, ảnh hưởng đến động lực làm việc và hiệu quả hoạt động của bộ máy.

Thứ hai, tính lan tỏa của mô hình thí điểm còn hạn chế.

“Chiến lược 3 xây” đã triển khai các mô hình thí điểm ở 52 huyện và 109 bản/cụm bản qua 3 giai đoạn. Tuy nhiên, sau khi kết thúc giai đoạn thí điểm, nhiều đơn vị vẫn chưa chủ động chuyển đổi thành các huyện, bản/cụm bản vững mạnh toàn diện làm đơn vị phát triển như mục tiêu ban đầu. Điều này cho thấy tính bền vững và khả năng nhân rộng của các mô hình thí điểm chưa cao. Mặc dù công tác phát triển kinh tế - xã hội cơ bản có thể thực hiện được ở các khu vực này, nhưng sự thiếu hụt về đầu tư hạ tầng đồng bộ (giao thông, điện, nước sạch) vẫn là một rào cản lớn. Hơn nữa, việc thúc đẩy sản xuất hàng hóa của các bộ tộc còn hạn chế, cho thấy khả năng chuyển đổi từ sản xuất tự cung tự cấp sang sản xuất hàng hóa còn yếu, chưa khai thác hết tiềm năng kinh tế địa phương. Nguyên nhân có thể nằm ở việc thiếu cơ chế khuyến khích, hỗ trợ kỹ thuật và tiếp cận thị trường sau giai đoạn thí điểm.

Thứ ba là vướng mắc trong phân cấp quản lý

Mặc dù hệ thống pháp luật của Lào đã có những quy định rõ ràng và chi tiết về phân cấp quyền hạn quản lý giữa trung ương, tỉnh và huyện, thực tế triển khai vẫn tồn tại nhiều bất cập. Tình trạng trung ương vẫn “làm thay” tỉnh và tỉnh vẫn “làm thay” huyện, đặc biệt trong phân cấp quản lý đầu tư, vẫn diễn ra phổ biến. Điều này làm giảm đáng kể tính tự chủ, năng động và trách nhiệm giải trình của các cấp dưới. Khi quyền hạn không được thực thi đầy đủ theo quy định, các cấp địa phương khó có thể chủ động đưa ra các quyết định phù hợp với điều kiện thực tiễn, dẫn đến sự trì trệ trong quá trình đổi mới. Đây là một rào cản lớn đối với việc hiện đại hóa nền hành chính và nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước.

Thứ tư, hiệu quả xóa đói giảm nghèo và huy động nguồn lực còn thấp.

Trong công tác xóa đói giảm nghèo, đặc biệt cho người dân tộc thiểu số, thực tiễn cho thấy sự đóng góp của các thành phần kinh tế khác chưa thực sự hiệu quả. Phần lớn trách nhiệm và gánh nặng vẫn chủ yếu dồn vào vai trò và nguồn lực của Nhà nước. Điều này phản ánh thiếu hụt cơ chế khuyến khích đủ mạnh để thu hút khu vực tư nhân và các tổ chức xã hội tham gia tích cực hơn vào công cuộc xóa đói giảm nghèo. Khi các nguồn lực xã hội không được huy động tối đa, áp lực lên ngân sách nhà nước tăng lên, đồng thời làm giảm tính bền vững và đa dạng của các giải pháp giảm nghèo, ảnh hưởng đến mục tiêu phát triển toàn diện.

Những thách thức trên cho thấy, để “Chiến lược 3 xây” thực sự phát huy tối đa tiềm năng và phục vụ hiệu quả mục tiêu đổi mới toàn diện, Lào cần tiếp tục rà soát, đánh giá chính xác. Từ đó, có những giải pháp đồng bộ từ việc nâng cao nhận thức, năng lực cán bộ, đến hoàn thiện cơ chế phân cấp, huy động đa dạng nguồn lực và cải thiện chất lượng hỗ trợ kỹ thuật. Chỉ khi vượt qua được những rào cản này, “Chiến lược 3 xây” mới có thể thực sự trở thành động lực mạnh mẽ, bền vững cho sự phát triển của Lào trong giai đoạn mới.

2.4. Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện “Chiến lược 3 xây” trong thời gian tới

Một là, nâng cao nhận thức, tư duy và hoàn thiện hệ thống chính trị cơ sở

Một trong những giải pháp hàng đầu là các cấp ủy đảng, từ trung ương đến cơ sở, phải sẵn sàng tiếp tục đột phá trên cả bốn lĩnh vực (bao gồm tư duy, thể chế, nguồn nhân lực và hạ tầng) để trở nên vững mạnh hơn, đặc biệt là về tư duy. Cần tiếp tục nghiên cứu, quán triệt sâu sắc và thống nhất nội dung Nghị quyết số 03/NQ-BCT của Bộ Chính trị. Nghị quyết này không chỉ đề cập đến việc xây dựng thôn bản thành đơn vị phát triển theo 4 nội dung, 4 mục tiêu cụ thể mà còn tập trung vào việc xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược và huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện.

Việc hiểu biết sâu sắc và thống nhất này sẽ là kim chỉ nam cho việc tập trung hoàn thiện hệ thống chính trị ở thôn bản vững mạnh hơn, thông qua việc kiện toàn tổ chức đảng và chính quyền bản/cụm bản. Đội ngũ cán bộ phải có khả năng lãnh đạo nhân dân xây dựng bản/cụm bản thành đơn vị phát triển thực sự. Đặc biệt, cần tập trung đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ bí thư trở thành trưởng bản/cụm bản (phụ trách). Để bảo đảm chất lượng, bí thư đảng ủy và trưởng bản/cụm bản cần đáp ứng những tiêu chuẩn nhất định, nhất là về trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, nhằm nâng cao năng lực quản lý và điều hành ở cấp cơ sở.

Hai là, phát triển mô hình thí điểm và nhân rộng kinh nghiệm

Tiếp tục đẩy mạnh và tập trung xây dựng các huyện, xã đã được chọn làm thí điểm trở thành các huyện, xã kiểu mẫu. Điều này được thực hiện thông qua việc tập trung phát triển và cải thiện các dịch vụ giáo dục, y tế và văn hóa - xã hội để cung cấp sự tiện lợi và bảo đảm chất lượng sống cho người dân. Đồng thời, cần ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng và cơ sở kỹ thuật phục vụ sản xuất đáp ứng yêu cầu của từng vùng, bao gồm việc sửa chữa, mở rộng các tuyến giao thông liên lạc có thể đi lại được trong cả năm, xây dựng và sửa chữa các kênh mương thủy lợi phục vụ sản xuất của nhân dân, và mở rộng lưới điện.

Song song đó, cần tổ chức tập huấn kỹ thuật trồng trọt, chăn nuôi hợp lý cho người dân, cung cấp giống cây trồng, vật nuôi và thuốc bảo vệ thực vật để khuyến khích sản xuất hàng hóa nhiều hơn. Quan trọng hơn, cần phát huy những thành quả và bài học kinh nghiệm trong quá khứ từ các mô hình thí điểm để tiếp tục triển khai ở các huyện, bản/cụm bản khác trên cả nước. Việc này phải căn cứ vào tiềm năng và điều kiện thực tế của từng cơ sở để xác định các kế hoạch, dự án và bước đi triển khai thực hiện một cách cụ thể, khả thi, tập trung vào các trọng tâm phát triển của tỉnh và huyện trong từng giai đoạn.

Ba là, hoàn thiện cơ chế phân cấp quản lý và khung pháp luật

Các ngành, các cấp từ trung ương, tỉnh đến huyện cần tập trung thực hiện vai trò quản lý vĩ mô, đồng thời phối hợp triển khai thực hiện “Chiến lược 3 xây” một cách mạnh mẽ và liên tục. Chú trọng rà soát, đánh giá các văn bản pháp luật hiện hành để hoàn thiện theo chủ trương “3 xây”, khắc phục tình trạng chồng chéo hoặc thiếu rõ ràng.

Song song đó, cần tập trung nghiên cứu và xây dựng các văn bản pháp luật mới đủ hoàn chỉnh, đồng bộ, đặc biệt là văn bản pháp luật về phân cấp, phân công trách nhiệm và chia sẻ lợi ích cho cơ sở. Các quy định này phải cụ thể, minh bạch và có tính khả thi cao, phản ánh sát thực hành vi thực tế, giúp các cấp địa phương có đủ quyền hạn và trách nhiệm để chủ động triển khai các hoạt động phát triển.

Bốn là, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ và hỗ trợ kỹ thuật

Cần hoàn thiện quy định về cán bộ theo hướng phù hợp với nhu cầu của địa phương, đặc biệt là cán bộ kỹ thuật, những người trực tiếp hướng dẫn người dân trong sản xuất nông nghiệp (trồng trọt, chăn nuôi). Cần bảo đảm rằng cán bộ được cử xuống cơ sở không chỉ có chuyên môn mà còn có khả năng truyền đạt, thích nghi với điều kiện địa phương.

Đồng thời, cần chú trọng xây dựng đội ngũ cán bộ đủ về số lượng và chất lượng, đặc biệt là cán bộ thư ký đơn vị, những người đóng vai trò then chốt trong vận hành bộ máy. Cần quan tâm tới việc trẻ hóa đội ngũ, hướng tới những người trẻ tuổi có năng lực và nhiệt huyết để có thể tham gia vào các vị trí quan trọng của huyện, tỉnh trong tương lai, bảo đảm sự kế thừa và phát triển của đội ngũ cán bộ lãnh đạo.

Năm là, khuyến khích khu vực tư nhân và xóa bỏ rào cản kinh doanh

Cần tiếp tục nghiên cứu, xây dựng chính sách khuyến khích khu vực doanh nghiệp, doanh nhân tham gia công tác phát triển nông thôn và xóa đói giảm nghèo một cách rõ ràng, kịp thời. Chính sách này cần tạo động lực mạnh mẽ cho khu vực tư nhân đóng góp vào các dự án phát triển cộng đồng.

Đồng thời, cần tập trung giải quyết những vướng mắc như cơ chế, quy định còn cản trở sản xuất kinh doanh, như: việc thu phí ngoài hệ thống, các thủ tục hành chính phức tạp, gây mất thời gian, tiền bạc của doanh nghiệp. Việc tạo điều kiện thuận lợi và động lực để mở rộng sản xuất kinh doanh, gắn với phát triển nông thôn, cũng như quá trình triển khai “Chiến lược 3 xây”, là vô cùng cần thiết. Bên cạnh đó, cần tiếp tục thúc đẩy các nhân tố mới, ngành nghề mới trong lĩnh vực sản xuất hàng hóa và dịch vụ để tạo thu nhập cho hộ gia đình ngày càng vững mạnh hơn, nhằm đẩy nhanh quá trình sản xuất hàng hóa, xây dựng nền tảng kinh tế quốc dân vững chắc.

3. Kết luận

Việc Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 03/NQ-BCT về Chiến lược xây dựng tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây dựng huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện, và xây dựng thôn bản thành đơn vị phát triển là một chiến lược xây dựng đất nước Lào trong thực tế. Chiến lược này là kim chỉ nam để chính quyền các cấp nhận thức được đầy đủ vai trò, nhiệm vụ, trách nhiệm của mình, từ đó có định hướng phát triển địa bàn, mang lại cuộc sống tốt đẹp hơn cho người dân. Thông qua phát triển hạ tầng kinh tế, nền tảng kỹ thuật, bảo đảm chế độ dân chủ nhân dân, đưa Lào từng bước phát triển theo định hướng XHCN.

_________________

Ngày nhận bài: 21-8-2025; Ngày bình duyệt:23-9-2025; Ngày duyệt đăng:15-10-2025.

Email tác giả: mek2016nammavong@gmail.com

(1) Nghị quyết số 03/NQ-BCT ban hành ngày 15-02-2012, Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược xây tỉnh thành đơn vị chiến lược, xây huyện thành đơn vị vững mạnh toàn diện, xây thôn bản thành đơn vị phát triển, hay còn gọi là Nghị quyết về nhiệm vụ 3 xây, tr 1-3.

(2), (3), (4), (5) Tài liệu tng kết đánh giá khen thưởng quá trình yêu nước và phát triển đất nước từ năm 2015 - 2021, tr.6, 7, 15, 18.