Tăng cường công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh thực hiện tổ chức chính quyền địa phương hai cấp
(LLCT) - Công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh có vai trò quan trọng trong việc củng cố niềm tin của nhân dân, xây dựng sự đồng thuận xã hội và nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước. Trong bối cảnh Việt Nam thực hiện tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (tỉnh và xã), công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng vừa có những thuận lợi, vừa có không ít khó khăn. Bài viết làm rõ thực trạng, đề xuất một số giải pháp tăng cường hiệu quả công tác dân vận trong bối cảnh mới.
ThS NGUYỄN THU HIỀN
Ủy ban nhân dân phường Nghĩa Đô, Thành phố Hà Nội

1. Mở đầu
Công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng, góp phần củng cố mối quan hệ mật thiết giữa chính quyền và nhân dân, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc. Đối với ủy ban nhân dân cấp tỉnh, dân vận không chỉ là phương thức đưa chính sách, pháp luật vào thực tiễn mà còn là cầu nối phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân, qua đó tạo cơ sở để chính quyền điều chỉnh, hoàn thiện cơ chế quản lý, nâng cao hiệu quả điều hành. Trong bối cảnh cả nước tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, yêu cầu đổi mới và tăng cường công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh càng trở nên bức thiết. Đây là điều kiện để bảo đảm tính công khai, minh bạch, mở rộng đối thoại, phát huy dân chủ, tạo sự đồng thuận xã hội và xây dựng chính quyền thực sự vì nhân dân.
2. Nội dung
2.1. Một số vấn đề chung về công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
Công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng là toàn bộ hoạt động của các tổ chức, đội ngũ cán bộ, công chức thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh nhằm tuyên truyền, vận động và tổ chức mọi người dân trên địa bàn tỉnh, các tổ chức, lực lượng có liên quan tạo thành lực lượng, sức mạnh to lớn của toàn dân thực hiện thắng lợi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của ủy ban nhân dân cấp tỉnh, bảo đảm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của địa phương, phát huy quyền làm chủ và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh.
Chủ thể công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng gồm chủ tịch, phó chủ tịch và các ủy viên ủy ban nhân dân cấp tỉnh; các cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh; toàn thể cán bộ, công chức, viên chức làm việc trong các cơ quan thuộc ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Lực lượng phối hợp trong công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng gồm: ban tuyên giáo và dân vận tỉnh ủy; các cấp ủy, tổ chức đảng trong đảng bộ tỉnh; Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội cấp tỉnh và xã; các cơ quan tư pháp; các tổ chức, cơ quan, đơn vị đóng trên địa bàn tỉnh.
Đối tượng công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh gồm: toàn thể nhân dân trên địa bàn tỉnh và các tổ chức, lực lượng có liên quan nằm trên địa bàn tỉnh đồng tình, ủng hộ về vật chất và tinh thần góp phần để ủy ban nhân dân cấp tỉnh thực hiện thắng lợi nhiệm vụ.
Mục đích công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh là vận động nhân dân trên địa bàn tỉnh và các tổ chức, lực lượng có liên quan thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, chương trình, đề án về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, chấp hành pháp luật, giữ vững an ninh, quốc phòng; ổn định và nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; bảo đảm và phát huy quyền làm chủ của các tầng lớp nhân dân, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa chính quyền và nhân dân, xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, thực sự là chính quyền của dân, do dân và vì dân, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân trong tỉnh.
Công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh tập trung vào các nội dung: Một là, xây dựng và ban hành các văn bản nhằm cụ thể hóa, thể chế hóa các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, Nhà nước và tỉnh ủy về công tác dân vận; Hai là, tổ chức vận động nhân dân theo nội dung, phương thức dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Ba là, tổ chức phối hợp các lực lượng tiến hành công tác dân vận của ủy ban nhân dân tỉnh; Bốn là, xây dựng các tổ chức, lực lượng làm công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh; Năm là, thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện và sơ kết, tổng kết công tác dân vận của ủy ban nhân dân tỉnh.
Để thực hiện tốt những nội dung trên, ủy ban nhân dân cấp tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đặc biệt coi trọng việc lựa chọn và vận dụng các phương thức dân vận phù hợp, nhằm bảo đảm tính hiệu quả, tính thiết thực và sự đồng thuận xã hội trong quá trình tổ chức thực hiện, trong đó có các phương thức chủ yếu sau: Một là, thông qua phương thức tuyên truyền, phổ biến, giáo dục và động viên nhân dân tham gia thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ủy ban nhân dân; Hai là, thông qua đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân; Ba là, thông qua phát huy dân chủ, quyền làm chủ của nhân dân; Bốn là, thông qua phối hợp, liên kết chặt chẽ với ban tuyên giáo và dân vận cấp ủy, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội ở cấp tỉnh; Năm là, thông qua hoạt động và sự gương mẫu của đội ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan chức năng thuộc ủy ban nhân dân; Sáu là, thông qua việc thực hiện chính sách an sinh xã hội, gắn với phát triển kinh tế - văn hóa.
2.2. Thực trạng công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
Trong những năm qua, công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đã đạt được những kết quả quan trọng, góp phần củng cố niềm tin của nhân dân đối với chính quyền và thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội. Nhận thức, trách nhiệm của lãnh đạo ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với công tác dân vận ngày càng được nâng cao. Nhiều địa phương đã gắn dân vận với những nhiệm vụ chính trị trọng tâm như xây dựng nông thôn mới, giải phóng mặt bằng cho các dự án trọng điểm, bảo vệ môi trường, phát triển đô thị bền vững. Chẳng hạn, tỉnh Hà Nam và Nam Định (trước sáp nhập) đã vận dụng linh hoạt công tác dân vận trong xây dựng nông thôn mới nâng cao, vận động người dân hiến đất, góp công để mở rộng đường giao thông nông thôn, góp phần đưa hai tỉnh trở thành những địa phương dẫn đầu cả nước về tiêu chí nông thôn mới.
Nội dung và phương thức dân vận cũng có những bước đổi mới đáng kể, chuyển từ tuyên truyền, vận động một chiều sang đối thoại, lắng nghe và phản hồi kịp thời. Ở Hà Nội, các buổi tiếp công dân định kỳ của Chủ tịch Ủy ban nhân dân thành phố đã trở thành diễn đàn dân chủ, giúp chính quyền trực tiếp lắng nghe và giải quyết kịp thời các bức xúc, nhất là liên quan đến đất đai, giải phóng mặt bằng các dự án hạ tầng lớn. Ở Quảng Ninh, hoạt động “Ngày thứ Bảy vì dân” được duy trì thường xuyên, lãnh đạo ủy ban nhân dân tỉnh và cán bộ các sở, ngành trực tiếp xuống cơ sở để gặp gỡ, giải quyết thủ tục hành chính cho người dân và doanh nghiệp, qua đó tăng cường mối quan hệ gần gũi, tin cậy giữa chính quyền và Nhân dân.
Cải cách hành chính được gắn kết chặt chẽ với công tác dân vận, đặc biệt thông qua triển khai cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” và phát triển dịch vụ công trực tuyến. Thái Bình, Hải Phòng và Hưng Yên (trước sáp nhập) là những địa phương có nhiều nỗ lực trong xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số, giúp nâng cao mức độ hài lòng của nhân dân và doanh nghiệp. Hệ thống trung tâm phục vụ hành chính công ở nhiều tỉnh đã tạo điều kiện thuận lợi để người dân dễ dàng tiếp cận dịch vụ, giảm phiền hà, tiết kiệm chi phí, thời gian.
Đặc biệt, trong bối cảnh đại dịch Covid-19, công tác dân vận càng thể hiện rõ vai trò của ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Tại tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang (trước sáp nhập) - những địa phương là tâm dịch trong năm 2021, chính quyền tỉnh đã phát huy công tác dân vận trong việc tuyên truyền, vận động nhân dân chấp hành nghiêm các biện pháp phòng dịch, đồng thời huy động sự chung tay của doanh nghiệp và cộng đồng để hỗ trợ công nhân, người lao động gặp khó khăn. Những nỗ lực này đã góp phần giữ vững ổn định xã hội, bảo đảm an sinh và phục hồi sản xuất nhanh chóng.
Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng vẫn còn một số hạn chế, bất cập.
Một số lãnh đạo ủy ban nhân dân chưa coi trọng công tác dân vận như nhiệm vụ chính trị trọng tâm, thiếu cơ chế gắn kết giữa dân vận với quản lý hành chính. Cơ chế phối hợp giữa ủy ban nhân dân cấp tỉnh với Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể còn thiếu đồng bộ; công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện dân vận chưa thường xuyên, hiệu quả chưa cao.
Việc thực hiện nội dung, phương thức dân vận chưa đồng đều giữa các tỉnh; có nơi hoạt động tiếp công dân, đối thoại trực tiếp còn hình thức, chưa đi sâu tháo gỡ các vấn đề bức xúc. Thực tế ở một số dự án giải phóng mặt bằng tại Hà Nội, Hải Phòng, Hưng Yên (trước sáp nhập) cho thấy vẫn còn tình trạng né tránh, đùn đẩy trách nhiệm giữa các cơ quan, khiến người dân bức xúc, dẫn tới khiếu kiện đông người, vượt cấp.
Việc ứng dụng công nghệ thông tin tuy đã được đẩy mạnh nhưng vẫn thiếu đồng bộ, đặc biệt ở khu vực nông thôn và một số địa bàn còn hạn chế về hạ tầng số. Công tác dân vận trong lĩnh vực đất đai, tái định cư vẫn còn hạn chế, chưa thiệu quả, dẫn đến dễ phát sinh điểm nóng. Ví dụ, tại Thái Bình và Nam Định (trước sáp nhập), một số dự án hạ tầng lớn đã vấp phải sự phản đối của người dân do công tác tuyên truyền, vận động chưa thấu đáo, chính sách bồi thường, hỗ trợ chưa phù hợp.
Năng lực cán bộ làm công tác dân vận ở các địa phương chưa đồng đều. Một bộ phận cán bộ còn hạn chế kỹ năng đối thoại, thuyết phục và xử lý tình huống nhạy cảm, dẫn đến việc giải quyết các mâu thuẫn, xung đột từ cơ sở chưa thật sự hiệu quả. Điều này cho thấy yêu cầu cấp thiết phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận cả về trình độ, kỹ năng và bản lĩnh chính trị, đạo đức công vụ.
2.3. Những tác động của việc thực hiện tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp và yêu cầu đặt ra đối với công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
Việc thực hiện tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp (tỉnh và xã) từ ngày 01-7-2025 đã tạo ra bước ngoặt lớn trong quản lý nhà nước ở Việt Nam. Đối với vùng đồng bằng sông Hồng - nơi có mật độ dân cư cao, kinh tế - xã hội phát triển năng động nhưng cũng tiềm ẩn nhiều mâu thuẫn, xung đột lợi ích, sự thay đổi này càng có tác động sâu rộng. Những tác động này vừa mang lại thuận lợi, vừa đặt ra khó khăn mới cho công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Những tác động tích cực
Việc thực hiện tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp mang lại nhiều tác động tích cực đối với công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trước hết, việc tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp giúp tinh gọn bộ máy, loại bỏ tầng nấc trung gian là cấp huyện, từ đó nâng cao tính minh bạch, hiệu lực và hiệu quả quản lý nhà nước. Điều này tạo điều kiện cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh trực tiếp tiếp cận, đối thoại và phục vụ nhân dân ở cơ sở, giảm nguy cơ quan liêu, hình thức, giảm chi phí trung gian. Trong bối cảnh đó, công tác dân vận của ủy ban nhân dân tỉnh cũng có điều kiện thuận lợi hơn để triển khai đồng bộ, nhanh chóng, trực tiếp đến người dân.
Bên cạnh đó, việc bỏ cấp huyện mở ra cơ hội để tăng cường tính chủ động và trách nhiệm của ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong quản lý, điều hành. Khi vai trò được nâng lên, ủy ban nhân dân tỉnh cần quan tâm nhiều hơn đến công tác dân vận như một công cụ quản trị xã hội hiệu quả, vừa củng cố niềm tin, vừa huy động sự tham gia tích cực của của nhân dân vào các chương trình phát triển kinh tế - xã hội.
Mặt khác, tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp tạo điều kiện thúc đẩy ứng dụng công nghệ thông tin, xây dựng chính quyền số, chính quyền điện tử. Với việc cắt giảm tầng nấc trung gian, yêu cầu trao đổi thông tin giữa cấp tỉnh và xã trở nên trực tiếp hơn, đòi hỏi ủy ban nhân dân tỉnh phải đầu tư mạnh mẽ vào hạ tầng số, dịch vụ công trực tuyến, cơ chế phản hồi điện tử với người dân. Đây là bước tiến quan trọng để công tác dân vận chuyển từ “trực tiếp truyền thống” sang “dân vận số”, nâng cao khả năng tiếp cận, minh bạch và hiệu quả phục vụ.
Việc tinh gọn bộ máy nhằm tăng tính tập trung, thống nhất trong chỉ đạo, điều hành, khắc phục tình trạng đùn đẩy trách nhiệm. Khi các chính sách dân vận được ủy ban nhân dân tỉnh ban hành, khả năng triển khai trực tiếp xuống cấp xã sẽ cao hơn, hạn chế sự chồng chéo, cắt khúc, từ đó nâng cao hiệu quả tiếp nhận, phản hồi ý kiến nhân dân.
Những khó khăn, thách thức
Bên cạnh những tác động tích cực, việc tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp cũng đặt ra những khó khăn, yêu cầu mới đối với công tác dân vận.
Trước đây, chính quyền cấp huyện đóng vai trò cầu nối trung gian trong tiếp nhận, phản ánh tâm tư, nguyện vọng của nhân dân lên cấp tỉnh thì nay ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải đổi mới cơ chế, phương thức mới, hiệu quả hơn để bảo đảm sự gắn bó mật thiết giữa chính quyền với nhân dân.
Bên cạnh đó, khối lượng công việc của ủy ban nhân dân cấp tỉnh tăng lên đáng kể, đặc biệt trong lĩnh vực dân vận. Ủy ban nhân dân tỉnh không chỉ phải trực tiếp quản lý, chỉ đạo các xã mà còn phải thường xuyên tiếp xúc, giải quyết các vấn đề của nhân dân trên địa bàn rộng lớn. Điều này đòi hỏi bộ máy và đội ngũ cán bộ phải có năng lực, kỹ năng dân vận tốt hơn; nếu không sẽ dẫn đến tình trạng quá tải, hành chính hóa, làm giảm hiệu quả công tác dân vận.
Mặt khác, sự thay đổi về tổ chức bộ máy ảnh hưởng đến tâm tư, tình cảm của cán bộ, công chức và nhân dân. Việc bỏ cấp huyện, người dân có phần lo lắng về khả năng tiếp cận chính quyền cấp tỉnh, nhất là ở các khu vực nông thôn, vùng xa trung tâm tỉnh lỵ. Nếu công tác dân vận của ủy ban nhân dân tỉnh không chủ động, kịp thời giải thích, thuyết phục và tạo đồng thuận trong nhân dân sẽ dễ dẫn đến bức xúc, khiếu kiện.
Ngoài ra, yêu cầu tăng cường dân vận trong bối cảnh chuyển đổi số cũng đặt ra nhiều thách thức. Không phải tất cả người dân, nhất là người cao tuổi, nông dân, lao động phổ thông, đều có khả năng tiếp cận với các hình thức dân vận qua môi trường số. Khoảng cách số có thể trở thành rào cản mới, nếu ủy ban nhân dân tỉnh không quan tâm xây dựng cơ chế hỗ trợ, bồi dưỡng kỹ năng số cho cán bộ cơ sở và nhân dân.
Như vậy, bên cạnh những cơ hội thuận lợi, việc thực hiện tổ chức chính quyền địa phương 02 cấp còn tiềm ẩn nhiều khó khăn, thách thức, đòi hỏi ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng cần tiếp tục đổi mới công tác này.
Yêu cầu mới đặt ra đối với công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh
Trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải đáp ứng những yêu cầu mới, sâu sắc và toàn diện hơn so với trước đây. Trước hết, công tác dân vận phải được coi là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm, gắn chặt với công tác quản lý, điều hành và chịu sự giám sát trực tiếp của người đứng đầu ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Đây không chỉ là yêu cầu về nhận thức mà là đòi hỏi mang tính chế định trong quản lý nhà nước, bởi chỉ khi dân vận được đặt đúng vị trí, các chính sách, quyết sách mới có thể đi vào cuộc sống, tạo được sự đồng thuận xã hội và phát huy sức mạnh nhân dân trong quá trình phát triển.
Cùng với đó, ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải trực tiếp đối thoại, lắng nghe và giải quyết kịp thời kiến nghị, nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Trong điều kiện không còn cấp huyện, vai trò trực tiếp của cấp tỉnh càng trở nên quan trọng. Việc duy trì các kênh đối thoại công khai, minh bạch không chỉ giúp chính quyền giảm thiểu khoảng trống thông tin giữa chính quyền và nhân dân mà còn tăng cường niềm tin xã hội, phòng ngừa các điểm nóng phát sinh từ cơ sở.
Một yêu cầu nổi bật khác là công tác dân vận cần được đổi mới mạnh mẽ về nội dung và phương thức theo hướng hiện đại, khoa học, lấy sự hài lòng của người dân làm thước đo. Trong bối cảnh chuyển đổi số, ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải khai thác hiệu quả các nền tảng công nghệ số, xây dựng chính quyền điện tử, chính quyền số để nâng cao tính công khai, minh bạch và khả năng tiếp cận thông tin của người dân. Điều này không chỉ giảm thiểu phiền hà trong giải quyết thủ tục hành chính mà còn tạo ra điều kiện thuận lợi để nhân dân thực hiện quyền giám sát, phản biện xã hội một cách chủ động và hiệu quả hơn.
Trong điều kiện tinh gọn bộ máy và khối lượng công việc tăng lên, yêu cầu đặt ra đối với cán bộ dân vận cần được trang bị khả năng giao tiếp, thuyết phục, xử lý tình huống nhạy cảm, đồng thời thành thạo trong ứng dụng công nghệ số để kết nối với người dân một cách nhanh chóng, hiệu quả. Đây là yếu tố then chốt quyết định sự thành công của công tác dân vận trong kỷ nguyên phát triển mới.
2.4. Một số giải pháp tăng cường công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng
Trong bối cảnh thực hiện tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp (tỉnh và xã), công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh đứng trước yêu cầu phải đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ, toàn diện. Từ nhận thức đến hành động, từ nội dung đến phương thức, từ đội ngũ cán bộ đến cơ chế, công cụ hỗ trợ đều cần được củng cố và nâng cao. Để đáp ứng yêu cầu này, cần triển khai một số giải pháp trọng tâm sau:
Một là, nâng cao nhận thức, trách nhiệm và năng lực lãnh đạo, quản lý của ủy ban nhân dân cấp tỉnh đối với công tác dân vận.
Để công tác dân vận đạt hiệu quả, đòi hỏi đội ngũ lãnh đạo ủy ban nhân dân cấp tỉnh, đặc biệt là chủ tịch và các phó chủ tịch ủy ban nhân dân, phải thực sự coi đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm, gắn với chức năng quản lý nhà nước. Nâng cao nhận thức không chỉ dừng lại ở việc thấm nhuần quan điểm “dân là gốc” của Đảng mà còn phải cụ thể hóa thành các chỉ đạo, kế hoạch, chương trình hành động. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần xác định công tác dân vận là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá hiệu quả điều hành chính quyền, qua đó khẳng định vị thế của chính quyền phục vụ nhân dân.
Trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, trách nhiệm của lãnh đạo ủy ban nhân dân tỉnh càng được nâng lên khi trực tiếp bao quát, điều hành các lĩnh vực phát triển kinh tế - xã hội. Năng lực lãnh đạo ở đây không chỉ là khả năng ra quyết định đúng đắn, kịp thời mà còn thể hiện ở năng lực tổ chức, điều hành, kiểm tra, giám sát việc thực thi dân vận tại các sở, ngành, địa phương. Điều này đòi hỏi cán bộ lãnh đạo ủy ban nhân dân tỉnh phải thường xuyên cập nhật kiến thức, rèn luyện bản lĩnh chính trị, nâng cao trình độ quản lý và kỹ năng dân vận.
Hai là, đổi mới nội dung và phương thức dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trong bối cảnh hiện nay, nếu vẫn duy trì cách tiếp cận dân vận truyền thống theo hướng hành chính hóa, nặng về tuyên truyền một chiều, thì khó có thể đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhân dân. Do đó, ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần đổi mới mạnh mẽ cả nội dung và phương thức dân vận. Về nội dung, trọng tâm phải hướng tới giải quyết những vấn đề thiết thực, cụ thể gắn với đời sống người dân như an sinh xã hội, việc làm, y tế, giáo dục, môi trường, an toàn thực phẩm. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải coi sự hài lòng của người dân là thước đo quan trọng trong thực hiện công tác dân vận.
Về phương thức, cần đa dạng hóa kênh tiếp xúc, từ đối thoại trực tiếp, tiếp công dân, họp báo, đến ứng dụng các nền tảng số như cổng dịch vụ công, mạng xã hội, hệ thống phản ánh hiện trường trực tuyến. Việc kết hợp giữa phương thức truyền thống và hiện đại sẽ giúp ủy ban nhân dân cấp tỉnh vừa bảo đảm tính gần gũi, thân thiện, vừa tận dụng được lợi thế của công nghệ để mở rộng khả năng tiếp cận và phản hồi nhanh chóng. Đặc biệt, cần đổi mới phương thức tuyên truyền chính sách theo hướng đối thoại, giải thích, đồng hành, thay vì áp đặt hay hành chính hóa.
Ba là, xây dựng và bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, công chức làm công tác dân vận chuyên nghiệp.
Một trong những yếu tố quyết định chất lượng dân vận chính là đội ngũ cán bộ, công chức trực tiếp thực hiện. Trong điều kiện ủy ban nhân dân cấp tỉnh đảm nhận khối lượng công việc lớn, phạm vi quản lý rộng, thì việc xây dựng một đội ngũ cán bộ dân vận chuyên nghiệp, tận tụy, gần dân là nhiệm vụ có tính đột phá. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần rà soát, bố trí đội ngũ cán bộ chuyên trách hoặc bán chuyên trách về dân vận tại các sở, ngành, đồng thời hình thành bộ phận dân vận trong cơ cấu văn phòng ủy ban nhân dân để tham mưu trực tiếp cho lãnh đạo.
Bên cạnh đó, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân vận cần được tiến hành thường xuyên, gắn với yêu cầu mới của tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp. Nội dung bồi dưỡng không chỉ tập trung vào những vấn đề lý luận mà cần trang bị kỹ năng thực hành, như kỹ năng đối thoại, giải quyết khiếu nại, xử lý khủng hoảng truyền thông, kỹ năng sử dụng công nghệ số phục vụ dân vận. Đồng thời, phải có cơ chế đánh giá, khen thưởng, kỷ luật minh bạch để khuyến khích cán bộ làm công tác dân vận phấn đấu, nâng cao hiệu quả công việc.
Bốn là, tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp giữa lãnh đạo ủy ban nhân dân cấp tỉnh với nhân dân.
Trong điều kiện chính quyền địa phương 2 cấp, việc duy trì đối thoại trực tiếp với người dân càng trở nên quan trọng. Chủ tịch và các phó chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh cần thường xuyên tổ chức tiếp dân, đối thoại định kỳ với người dân, doanh nghiệp. Đây là cơ hội để giải quyết bức xúc từ cơ sở, tháo gỡ khiếu nại, kiến nghị kéo dài, đồng thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng thực tiễn. Các cuộc đối thoại không chỉ củng cố niềm tin của nhân dân mà còn tạo điều kiện để lãnh đạo tỉnh điều chỉnh chính sách sát với thực tiễn địa phương, cơ sở, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả.
Năm là, đẩy mạnh cải cách hành chính, ứng dụng công nghệ số trong công tác dân vận.
Cải cách hành chính là giải pháp mang tính nền tảng để nâng cao chất lượng công tác dân vận. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần đẩy mạnh tinh giản thủ tục hành chính, minh bạch hóa quy trình xử lý công việc, coi sự hài lòng của nhân dân là chỉ số đánh giá quan trọng. Việc ứng dụng công nghệ số vào công tác dân vận cũng là xu hướng tất yếu, nhất là khi nhân dân ngày càng tiếp cận nhanh với các nền tảng trực tuyến.
Cần xây dựng và hoàn thiện cổng thông tin phản ánh, góp ý của người dân; tích hợp các ứng dụng di động để tiếp nhận và phản hồi ý kiến nhanh chóng; đồng thời phát triển hệ thống phân tích dữ liệu lớn (big data) để dự báo nhu cầu, nguyện vọng của người dân, từ đó chủ động điều chỉnh chính sách. Bên cạnh đó, cần tăng cường truyền thông số, xây dựng hình ảnh chính quyền gần gũi, thân thiện, có trách nhiệm, qua đó nâng cao hiệu quả dân vận trong môi trường mạng xã hội - nơi mà thông tin đa chiều, phức tạp và nhiều thách thức.
Sáu là, huy động các nguồn lực xã hội, phát huy sức mạnh tổng hợp trong công tác dân vận.
Dân vận không phải là nhiệm vụ riêng của cơ quan dân vận hay ủy ban nhân dân, mà là công việc chung của cả hệ thống chính trị. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần chủ động phối hợp với Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, tổ chức xã hội, để hình thành mạng lưới dân vận rộng khắp, đa dạng. Việc huy động các nguồn lực xã hội không chỉ giúp tăng cường tính đồng thuận mà còn tạo sức mạnh vật chất và tinh thần trong thực hiện các chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, trong điều kiện tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp, sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, doanh nghiệp, cộng đồng dân cư sẽ là nhân tố quan trọng hỗ trợ cho ủy ban nhân dân cấp tỉnh trong việc tiếp cận, lắng nghe và giải quyết nguyện vọng của nhân dân. Đây cũng là cách thức để mở rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của người dân, xây dựng niềm tin vào chính quyền.
Bảy là, tăng cường kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Để bảo đảm công tác dân vận đạt hiệu quả thực chất, tránh hình thức, ủy ban nhân dân cấp tỉnh cần xây dựng cơ chế kiểm tra, giám sát chặt chẽ. Hoạt động này phải được tiến hành thường xuyên, có kế hoạch cụ thể, gắn với trách nhiệm của từng cá nhân, tổ chức. Việc sơ kết, tổng kết định kỳ là cần thiết để đúc rút kinh nghiệm, nhân rộng mô hình hay, cách làm hiệu quả, đồng thời kịp thời chấn chỉnh những hạn chế, sai sót. Kết quả công tác dân vận cần được coi là tiêu chí đánh giá năng lực, uy tín của lãnh đạo và cán bộ, công chức ủy ban nhân dân cấp tỉnh. Điều này không chỉ góp phần nâng cao tinh thần trách nhiệm mà còn tạo động lực thúc đẩy đổi mới, sáng tạo trong thực hiện dân vận. Bên cạnh giám sát nội bộ, cần tăng cường cơ chế giám sát của nhân dân, thông qua các tổ chức chính trị - xã hội và các kênh thông tin công khai, minh bạch, để bảo đảm công tác dân vận thực sự hiệu quả, bền vững.
3. Kết luận
Tăng cường công tác dân vận của ủy ban nhân dân cấp tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong bối cảnh tổ chức chính quyền địa phương 2 cấp vừa là yêu cầu khách quan, vừa là nhiệm vụ chính trị có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển bền vững của vùng và cả nước. Việc tăng cường công tác dân vận không chỉ giúp củng cố mối quan hệ máu thịt giữa chính quyền và nhân dân mà còn là nền tảng để xây dựng chính quyền phục vụ, liêm chính, hành động và hiệu quả. Trong kỷ nguyên phát triển mới của dân tộc, công tác dân vận cần được đổi mới mạnh mẽ cả về tư duy, phương thức và công cụ, bảo đảm thích ứng với xu thế chuyển đổi số, hội nhập quốc tế và yêu cầu quản trị hiện đại. Ủy ban nhân dân cấp tỉnh phải thực sự coi dân vận là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên, là “chìa khóa” để phát huy sức mạnh đồng thuận xã hội, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bằng sông Hồng. Khi công tác dân vận được thực hiện tốt, mọi chủ trương, chính sách sẽ đi vào cuộc sống, góp phần xây dựng chính quyền trong sạch, vững mạnh, thực sự do nhân dân và vì nhân dân.
_________________
Ngày nhận bài: 22-9-2025; Ngày bình duyệt: 12-10-2025; Ngày duyệt đăng: 20-10-2025.
Email tác giả: nguyenthuhien@gmail.com
Tài liệu tham khảo:
1. Ban Bí thư: Kết luận số 114-KL/TW ngày 14-7-2015 về nâng cao hiệu quả công tác dân vận của cơ quan nhà nước các cấp.
2. Ban Bí thư: Kết luận số 120-KL/TW ngày 07-01-2016 về tiếp tục đẩy mạnh, nâng cao chất lượng, hiệu quả việc xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở.
3. Ban Bí thư: Kết luận số 107-KL/TW ngày 24-12-2024 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30-7-2021 ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23-11-2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
6. Quốc hội: Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 ngày 16-6-2025.
7. Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới, Hà Nội.
8. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 về phê duyệt quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.
3. Ban Bí thư: Kết luận số 107-KL/TW ngày 24-12-2024 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30-7-2021 ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23-11-2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
6. Quốc hội: Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 ngày 16-6-2025.
7. Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới, Hà Nội.
8. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 về phê duyệt quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.
3. Ban Bí thư: Kết luận số 107-KL/TW ngày 24-12-2024 về tiếp tục tăng cường lãnh đạo công tác tiếp công dân và giải quyết khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh.
4. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Quyết định số 23-QĐ/TW ngày 30-7-2021 ban hành Quy chế công tác dân vận của hệ thống chính trị.
5. Ban Chấp hành Trung ương Đảng: Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23-11-2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045.
6. Quốc hội: Luật Tổ chức chính quyền địa phương số 72/2025/QH15 ngày 16-6-2025.
7. Thủ tướng Chính phủ: Chỉ thị số 33/CT-TTg ngày 26/11/2021 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường và đổi mới công tác dân vận của cơ quan hành chính nhà nước, chính quyền các cấp trong tình hình mới, Hà Nội.
8. Thủ tướng Chính phủ: Quyết định số 368/QĐ-TTg ngày 04/5/2024 về phê duyệt quy hoạch vùng đồng bằng sông Hồng thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến 2050.