Nghiên cứu lý luận

Nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới

21/10/2025 11:26

(LLCT) - Trong thời kỳ đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước điều chỉnh và hoàn thiện nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân. Từ chỗ bị coi là “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, kinh tế tư nhân dần được thừa nhận là một bộ phận quan trọng, đến nay đã được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Sự phát triển nhận thức này phản ánh quá trình đổi mới tư duy lý luận gắn với thực tiễn phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Để kinh tế tư nhân thực sự là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng cần tiếp tục tạo môi trường thuận lợi cho kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới.

TS ĐẶNG VĂN LUẬN
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Tổng Bí thư Tô Lâm và các đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước tham quan Triển lãm "Những thành tựu trong phát triển kinh tế tư nhân và các gian hàng trưng bày sản phẩm của các doanh nghiệp tư nhân"_Nguồn: nhandan.vn

1. Mở đầu

Kinh tế tư nhân từ chỗ bị coi là “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, trong thời kỳ đổi mới, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam dần thừa nhận đây là một bộ phận quan trọng, và đến nay đã được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia. Kinh tế tư nhân là một thành phần kinh tế tất yếu trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, một động lực quan trọng khơi dậy nguồn lực tạo ra những chuyển biến đối với nền kinh tế trong thời kỳ đổi mới ở Việt Nam.

Trong kỷ nguyên mới của dân tộc, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu, đánh giá đúng vai trò của kinh tế tư nhân nhằm thống nhất về nhận thức, tạo ra những chuyển biến về hành động để kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế, góp phần thực hiện mục tiêu “Đến năm 2030, kỷ niệm 100 năm thành lập Đảng: Là nước đang phát triển, có công nghiệp hiện đại, thu nhập trung bình cao. Đến năm 2045, kỷ niệm 100 năm thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam: Trở thành nước phát triển, thu nhập cao”(1).

2. Nội dung

2.1. Quá trình nhận thức của Đảng Cộng sản Việt Nam về kinh tế tư nhân trong thời kỳ đổi mới

Giai đoạn 1986 - 2001: Bước đầu đổi mới nhận thức về kinh tế tư nhân

Mở đầu thời kỳ đổi mới, trên cơ sở vận dụng quan điểm của V.I. Lênin, “coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ”(2) lên chủ nghĩa xã hội, và xuất phát từ thực tế khách quan, tại Đại hội VI, Đảng chính thức thừa nhận kinh tế tư nhân là một thành phần quan trọng trong đầu tư và phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam. Đảng khẳng định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với các thành phần kinh tế... Xóa bỏ những thành kiến thiên lệch...”(3), “bằng những biện pháp thích hợp, sử dụng mọi khả năng của các thành phần kinh tế khác trong sự liên kết chặt chẽ và dưới sự chỉ đạo của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa”(4). Theo đó, các thành phần kinh tế phi xã hội chủ nghĩa được thừa nhận sự tồn tại và hoạt động dưới sự chỉ đạo, dẫn dắt của thành phần kinh tế xã hội chủ nghĩa. Nhưng lúc này, kinh tế tư nhân vẫn được coi là đối tượng “cần có chính sách sử dụng và cải tạo”(5).

Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 05-4-1988 của Bộ Chính trị khóa VI xác định hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, từ đó đổi mới cơ bản cách thức quản lý hợp tác xã nông nghiệp, tạo động lực cho kinh tế tư nhân trong nông nghiệp hồi phục và phát triển năng động, bước đầu chuyển sang sản xuất hàng hóa.

Nghị quyết số 16-NQ/TW ngày 15-7-1988 của Bộ Chính trị khóa VI và các nghị quyết sau đó tiếp tục khẳng định đường lối đổi mới, nhất quán thực hiện chính sách kinh tế nhiều thành phần, khẳng định kinh tế tư nhân được phát triển trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh. Đó là khởi đầu quan trọng trong đổi mới nhận thức đối với kinh tế tư nhân mở đường cho những bước đột phá sau này.

Tiếp tục quan điểm của Đại hội VI, Đại hội VII (tháng 6-1991) đưa ra quan điểm rõ ràng hơn về việc khuyến khích và tạo điều kiện cho kinh tế tư nhân phát triển. Trong đó khẳng định: “Kinh tế tư nhân được phát triển, đặc biệt trong lĩnh vực sản xuất, theo sự quản lý, hướng dẫn của Nhà nước”(6), đồng thời “mọi người được tự do kinh doanh theo pháp luật, được bảo hộ quyền sở hữu và thu nhập hợp pháp”(7). Do đó, “kinh tế tư bản tư nhân được phát triển không hạn chế về quy mô và địa bàn hoạt động trong những ngành, nghề mà luật pháp không cấm”(8). Kinh tế tư nhân từ chỗ bị coi là một thành phần kinh tế “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, có thể sử dụng nhưng cần “cải tạo” bằng những bước đi thích hợp, đến là một thành phần kinh tế độc lập, có tiềm năng phát triển và đóng góp cho sự phát triển kinh tế đất nước.

Đại hội VIII (năm 1996), Đảng tiếp tục “thực hiện nhất quán, lâu dài chính sách này, khuyến khích mọi doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước khai thác các tiềm năng, ra sức đầu tư phát triển, yên tâm làm ăn lâu dài, hợp pháp, có lợi cho quốc kế dân sinh, đối xử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế trước pháp luật, không phân biệt sở hữu và hình thức tổ chức kinh doanh”(9).

Giai đoạn 2001 - 2011: Thể chế hóa chính sách về kinh tế tư nhân

Từ nhận thức kinh tế “tư bản tư nhân được kinh doanh trong những ngành có lợi cho quốc kế dân sinh do luật pháp quy định”(10) (Đại hội VII); đến Đại hội IX (tháng 01-2001) của Đảng đã có bước phát triển mới trong nhận thức: “Kinh tế tư bản tư nhân được khuyến khích phát triển không hạn chế về quy mô trong những ngành, nghề, lĩnh vực và địa bàn mà pháp luật không cấm”(11), “tạo môi trường kinh doanh thuận lợi về chính sách, pháp lý để kinh tế tư bản tư nhân phát triển”(12) trong nền kinh tế nhiều thành phần định hướng xã hội chủ nghĩa(13) ở Việt Nam.

Đây là lần đầu tiên trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đưa ra những đánh giá xác đáng về vai trò của kinh tế tư nhân trong phát triển kinh tế, huy động các nguồn lực xã hội vào sản xuất, kinh doanh, tạo thêm việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, tăng ngân sách nhà nước, góp phần giữ vững ổn định chính trị - xã hội của đất nước.

Đến Đại hội X, Đảng nêu rõ: “Kinh tế tư nhân có vai trò quan trọng, là một trong những động lực của nền kinh tế”(14) với nhiều thành phần kinh tế trên cơ sở nhiều hình thức sở hữu. Đây cũng là lần đầu tiên kinh tế tư nhân được xác định chính thức với tư cách là một thành phần kinh tế được khuyến khích phát triển. Đồng thời, cũng là lần đầu tiên, vấn đề đảng viên làm kinh tế tư nhân được Đảng chính thức công nhận. Thực tế, vấn đề này đã được đặt ra và tranh luận từ những năm đầu thời kỳ đổi mới, nhưng tới Hội nghị Trung ương 3 khóa X mới thảo luận và thông qua “Quy định đảng viên làm kinh tế tư nhân”. Tinh thần được nhấn mạnh là đảng viên tiên phong, gương mẫu trong mọi lĩnh vực, để vừa phát huy được khả năng làm kinh tế của đảng viên, vừa giữ được tư cách, phẩm chất, bảo đảm tuân thủ đầy đủ quy định của Điều lệ Đảng, nghị quyết, quyết định của Đảng và các quy định của pháp luật, cơ chế, chính sách của Nhà nước. Điều này đã mở đường cho đảng viên kinh doanh hợp pháp nhằm huy động, phát huy tiềm năng của mọi người dân, trong đó có đội ngũ đảng viên, tạo động lực để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.

Giai đoạn 2011 đến nay: Hoàn thiện thể chế và định hướng chiến lược

Đại hội XI của Đảng chủ trương hoàn thiện cơ chế, chính sách đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế, cải thiện môi trường đầu tư, kinh doanh, áp dụng các hình thức thu hút đầu tư đa dạng, hấp dẫn để huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực của các thành phần kinh tế, thúc đẩy hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân, khuyến khích tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Đây là bước phát triển về tư duy lý luận của Đảng, tạo cơ sở cho xây dựng và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách phát triển kinh tế tư nhân ở Việt Nam.

Ngày 9-12-2011, Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 09-NQ/TW về xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Nghị quyết nhấn mạnh tầm quan trọng của đội ngũ doanh nhân trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đặc biệt trong bối cảnh đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Những quan điểm của Đảng đã được thể chế hóa trong Hiến pháp năm 2013: “Nền kinh tế Việt Nam là nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế; kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ đạo”(15). Đồng thời, khuyến khích hình thành các tập đoàn kinh tế tư nhân đa sở hữu và tư nhân góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước. Điều này cho thấy, Đảng đã nhận thức rõ trong phát triển kinh tế, sự phát triển của các tập đoàn kinh tế tư nhân là một xu thế tất yếu, là kênh quan trọng giúp Nhà nước thực thi nhiệm vụ kinh tế đã đề ra.

Đại hội XII có những phát triển mới trong tư duy của Đảng về kinh tế tư nhân, đồng thời yêu cầu tiếp tục “hoàn thiện cơ chế, chính sách khuyến khích, tạo thuận lợi phát triển mạnh kinh tế tư nhân ở hầu hết các ngành và lĩnh vực kinh tế, trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế”(16), “khuyến khích doanh nghiệp tư nhân hợp tác, liên kết với doanh nghiệp nhà nước, hợp tác xã, kinh tế hộ; phát triển các công ty cổ phần có sự tham gia rộng rãi của các chủ thể xã hội, nhất là người lao động”(17), nhằm huy động nguồn lực xã hội. “Phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp với tỷ trọng đóng góp của khu vực kinh tế tư nhân vào GDP đạt 60 - 65%”(18); “tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt 17,3 triệu tỷ đồng, tương đương 33,2% GDP”(19).

Từ chỗ bị coi là “tàn dư” của chế độ xã hội cũ, kinh tế tư nhân dần được thừa nhận là một bộ phận quan trọng, đến nay đã được xác định là một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia.

Ngày 04-5-2025 Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Việc ưu tiên phát triển kinh tế tư nhân với tư cách là một khu vực kinh tế có nhiều thế mạnh trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một chủ trương đúng đắn, hợp quy luật, vận dụng sâu sắc quan điểm của V.I.Lênin về xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ. Đảng khẳng định: kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, là lực lượng tiên phong trong phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số. “Tốc độ tăng trưởng khu vực tư nhân bình quân 10-12%/năm, cao hơn tốc độ tăng GDP chung của cả nước. Đóng góp vào GDP 55-58%, vào ngân sách nhà nước 35-40%, và tạo việc làm cho 84-85% lực lượng lao động. Năng suất lao động khu vực tư nhân tăng bình quân 8,5-9,5%/năm”(20). “Quy mô doanh nghiệp tăng mạnh. Cả nước có 2 triệu doanh nghiệp tư nhân hoạt động (tương đương 20 doanh nghiệp/1.000 dân). Hình thành ít nhất 20 doanh nghiệp, tập đoàn tư nhân lớn có khả năng tham gia chuỗi giá trị toàn cầu”(21), thương hiệu tầm khu vực và quốc tế. Năng lực công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số của khu vực tư nhân thuộc nhóm 3 nước dẫn đầu ASEAN và nhóm 5 nước hàng đầu châu Á. Đến năm 2045, khu vực tư nhân được định hướng sẽ phát triển nhanh, mạnh, bền vững, có năng lực cạnh tranh cao trên phạm vi khu vực và quốc tế. Việt Nam “có ít nhất 3 triệu doanh nghiệp tư nhân, đóng góp trên 60% GDP quốc gia”(22).

Qua gần 40 năm đổi mới, quan điểm của Đảng về kinh tế tư nhân đã có sự phát triển triển mạnh mẽ: từ chỗ là “đối tượng cải tạo” đến được công nhận là “một động lực quan trọng của nền kinh tế”.

2.2. Thực trạng phát huy vai trò động lực quan trọng của kinh tế tư nhân

Sau gần 40 năm thực hiện đường lối đổi mới, vị trí, vai trò của kinh tế tư nhân đã có những bước phát triển quan trọng:

Một là, về số lượng doanh nghiệp thành lập tăng mạnh, “từ 5.000 doanh nghiệp năm 1990 lên 50.000 doanh nghiệp năm 2000, và 200.000 doanh nghiệp năm 2005 (tức gấp 40 lần sau 15 năm)”(23); “giai đoạn 2010 - 2020, bình quân mỗi năm có trên 100.000 doanh nghiệp được thành lập mới; giai đoạn 2021 đến nay, bình quân mỗi năm có hơn 145.000 doanh nghiệp thành lập mới”(24). Đến nay “có hơn 940.000 doanh nghiệp, hơn 5 triệu hộ kinh doanh, đóng góp khoảng 50% GDP, hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước”(25).

Hai là, đóng góp vào thu ngân sách nhà nước liên tục tăng, “năm 2010 mới chỉ đạt 70 nghìn tỷ đồng, chiếm 11,9% tổng thu ngân sách nhà nước; đến năm 2015 đạt 129,6 nghìn tỷ đồng, chiếm 12,7% và tăng 85% so với năm 2010. Trong những năm gần đây, đóng góp của khu vực này tăng nhanh. Tốc độ đóng góp vào thu ngân sách nhà nước của khu vực kinh tế tư nhân luôn cao hơn tốc độ tăng thu ngân sách chung của cả nền kinh tế. Năm 2016 đạt 157,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 13,88%; đến năm 2020 đạt 247,1 nghìn tỷ đồng, chiếm 16,36% và gấp 3,5 lần năm 2010, gấp gần 2 lần năm 2015”(26) . “Năm 2023, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp 46% GDP, tạo 30% nguồn thu ngân sách nhà nước”(27), góp phần quan trọng trong huy động các nguồn lực xã hội cho đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh, tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, tăng thu ngân sách nhà nước, tạo việc làm, cải thiện đời sống nhân dân, bảo đảm an sinh xã hội.

Ba là, tạo việc làm, thúc đẩy tái cấu trúc nền kinh tế, đặc biệt ở vùng nông thôn, địa bàn khó khăn. “Giai đoạn 2017 - 2024, khu vực kinh tế tư nhân sử dụng bình quân hơn 43,5 triệu lao động, chiếm hơn 82% tổng số lao động có việc làm trong nền kinh tế”(28). Năng suất lao động trong khu vực kinh tế tư nhân tăng trung bình 4-6%/năm trong giai đoạn 2016 – 2023(29), đóng góp đáng kể vào mức tăng năng suất lao động chung của cả nước.

Bốn là, tỷ trọng vốn đầu tư của kinh tế tư nhân trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, “từ 44% năm 2010 lên 56% năm 2024; đóng góp hơn 30% tổng thu ngân sách nhà nước, khoảng 30% tổng kim ngạch xuất nhập khẩu”(30). Đây là khu vực năng động trong đổi mới công nghệ, sáng tạo sản phẩm và dịch vụ. Các doanh nghiệp khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo tăng nhanh, “từ 1.500 startup năm 2015 lên khoảng 4.000 startup năm 2024”(31). Nhiều tập đoàn, doanh nghiệp lớn hình thành, phát triển, từng bước khẳng định vị thế trên thị trường khu vực và toàn cầu, đóng vai trò quan trọng trong chuỗi cung ứng nội địa, tham gia tích cực các Hiệp định thương mại tự do (FTA) như EVFTA, CPTPP….

Mặc dù có nhiều đóng góp quan trọng, khu vực kinh tế tư nhân vẫn còn những hạn chế, chưa phát huy hết tiềm năng, nội lực và chưa đóng góp xứng đáng cho kinh tế quốc gia.

Một là, mục tiêu phát triển kinh tế tư nhân đề ra tại Nghị quyết 10-NQ/TW năm 2017 (đạt 1,5 triệu doanh nghiệp và đóng góp 55% GDP vào năm 2025) chưa đạt được. Trong đó, chưa có các tập đoàn lớn mang tính dẫn dắt nền kinh tế, chưa có doanh nghiệp lọt vào top 500 doanh nghiệp hàng đầu thế giới. Khu vực kinh tế tư nhân chưa thực sự trở thành lực lượng dẫn dắt nền kinh tế như kỳ vọng; tỷ trọng đầu tư vào các ngành, lĩnh vực có tính dẫn dắt, tạo động lực còn thấp, chưa có các dự án quy mô đủ lớn để tạo động lực bứt phá, sức lan tỏa, hỗ trợ cơ cấu lại và nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.

Hai là, “hơn 97% doanh nghiệp tư nhân có quy mô nhỏ và vừa, siêu nhỏ (70% số doanh nghiệp có quy mô rất nhỏ, dưới 10 lao động và vốn đăng ký dưới 5 tỉ đồng)(32), sức cạnh tranh, hiệu quả hoạt động, kỹ năng quản trị còn hạn chế; năng suất lao động thấp hơn khu vực doanh nghiệp FDI và doanh nghiệp nhà nước. Năng suất lao động của khu vực kinh tế tư nhân thấp nhất trong ba khu vực, “năm 2020 là 90,8 triệu đồng/lao động đã tăng lên 124 triệu đồng/lao động năm 2023, trong khi khu vực kinh tế nhà nước tương ứng là 405,6 triệu đồng đã tăng lên 536 triệu đồng/lao động và kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài là 339,9 triệu đồng đã tăng lên 398,1 triệu đồng/lao động”(33). Quá trình chuyển đổi số diễn ra chậm (65% doanh nghiệp vừa và nhỏ chưa có chiến lược ứng dụng công nghệ số); tỷ lệ doanh nghiệp tư nhân tham gia vào chuỗi cung ứng của doanh nghiệp FDI thấp (chỉ khoảng 21%)(34).

Ba là, tỷ lệ doanh nghiệp đang hoạt động bình quân so với dân số còn thấp, thấp hơn so với các nước trong khu vực. So với các nước, tỷ lệ hộ kinh doanh so với dân số Việt Nam năm 2024 chỉ đạt 2,17%, thấp hơn nhiều so với Mỹ (6,88%), Canađa (8,97%), Anh (8,55%), Ấn Độ (4,19%), và Thái Lan (5,63%)(35). Tốc độ doanh nghiệp rút khỏi thị trường tăng nhanh từ năm 2021 đến nay, phản ánh những khó khăn trong bối cảnh biến động kinh tế trong nước và quốc tế (36).

Bốn là, việc tiếp cận các nguồn lực còn khó khăn, nhất là về tài chính, tín dụng. Theo “khảo sát của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương cũng cho thấy, các doanh nghiệp nhỏ và vừa tiếp cận các nguồn tài chính chính thống qua hệ thống ngân hàng và các nguồn chính thống khác chỉ chiếm 25%. Còn lại, đến 75% doanh nghiệp vẫn phải huy động từ bạn bè, vay mượn phi chính thống”(37). Các doanh nghiệp tư nhân chiếm chưa đến 10% tổng vốn hóa thị trường chứng khoán.

Năm là, kết nối giữa doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp tư nhân với doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp FDI còn hạn chế. Theo số liệu, “tổng dòng vốn FDI của Việt Nam năm 2024 đạt 36 tỷ USD, tương đương 10% GDP. Lĩnh vực có vốn đầu tư nước ngoài thu hút khoảng 35% tổng lực lượng lao động của Việt Nam. Mặc dù đạt được những kết quả ấn tượng nhưng thực tế cho thấy Việt Nam vẫn gặp khó khăn trong việc thiết lập mối liên kết giữa các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp địa phương khi chỉ có khoảng 18% các doanh nghiệp trong nước tham gia vào chuỗi giá trị và thậm chí con số này còn giảm theo từng năm”(38).

Sáu là, một bộ phận doanh nghiệp tư nhân chưa nghiêm túc tuân thủ pháp luật, thông tin chưa minh bạch, thiếu tầm nhìn chiến lược; đạo đức, văn hóa kinh doanh còn hạn chế (cạnh tranh thiếu lành mạnh, sản xuất hàng nhái, hàng kém chất lượng, vi phạm hợp đồng…). Thậm chí, một số doanh nghiệp tư nhân trốn thuế, thao túng thị trường, găm hàng, đội giá… Công tác quản lý hộ kinh doanh cá thể còn nhiều hạn chế, bất cập. Đối với khu vực hộ kinh doanh cá thể, năm 2024 có khoảng 2,75 triệu hộ kinh doanh trong số gần 3,7 triệu hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh (chiếm gần 75%) đóng thuế(39). Hoạt động của nhiều hộ kinh doanh chưa minh bạch, tư duy ngắn hạn, mang tính thời vụ, thiếu động lực trở thành doanh nghiệp. Tình trạng cơ sở kinh doanh, hộ kinh doanh vi phạm quy định về phòng cháy chữa cháy, an ninh trật tự, an toàn thực phẩm, vệ sinh môi trường, gây ô nhiễm môi trường còn phổ biến.

2.3. Giải pháp phát huy kinh tế tư nhân trong thời kỳ mới

Thứ nhất, thể chế hóa quan điểm của Đảng, hoàn thiện thể chế, chính sách, rà soát và sửa đổi hệ thống pháp luật của Nhà nước, nhằm xóa bỏ các quy định chồng chéo, mâu thuẫn trong phát triển kinh tế tư nhân. Cụ thể hóa hơn nữa quyền sở hữu tư nhân theo Hiến pháp 2013, bảo đảm tính minh bạch và bảo vệ pháp lý. Thúc đẩy cơ chế vận hành của “Nhà nước kiến tạo”, chuyển từ Nhà nước quản lý hành chính sang Nhà nước đồng hành cùng doanh nghiệp tư nhân thông qua chính sách ưu đãi, giảm rủi ro pháp lý.

Thứ hai, đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính hơn nữa nhằm đơn giản hóa quy trình gia nhập và rút lui thị trường. “Thực hiện cắt giảm ít nhất 30% thời gian xử lý thủ tục hành chính, ít nhất 30% chi phí tuân thủ pháp luật, ít nhất 30% điều kiện kinh doanh và tiếp tục cắt giảm mạnh trong những năm tiếp theo” (40) trong năm 2025. Đồng thời, áp dụng mô hình chính phủ “một cửa điện tử” trong đăng ký doanh nghiệp, cấp phép đầu tư… Qua đó, hạn chế tình trạng quan liêu, nhũng nhiễu, tiêu cực trong hoạt động vận hành của doanh nghiệp như thanh tra, kiểm tra doanh nghiệp.

Thứ ba, phát triển kinh tế tư nhân là một cách tạo điều kiện để Nhà nước tiếp cận và huy động được các nguồn lực xã hội, như giải quyết khó khăn về vốn, phát triển thị trường vốn (cổ phiếu, trái phiếu doanh nghiệp) để giảm phụ thuộc vào tín dụng ngân hàng. Khuyến khích các quỹ đầu tư mạo hiểm hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân khởi nghiệp sáng tạo. Từ đó, góp phần tiếp cận đất đai và công nghệ, ưu tiên doanh nghiệp tư nhân tham gia đấu thầu dự án công, cung cấp đất công nghiệp với giá hợp lý. Hỗ trợ chuyển giao công nghệ từ doanh nghiệp nhà nước và đối tác nước ngoài.

Thứ tư, phát triển nguồn nhân lực số chất lượng cao trong tiến trình chuyển đổi số. Phát triển, phát huy vai trò nguồn nhân lực số là chìa khóa trong tiến trình chuyển đổi số quốc gia. Đào tạo, phát triển nguồn nhân lực số là trung tâm mang tính chiến lược nhằm tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực số lớn về số lượng, mạnh về chất lượng, bảo đảm yêu cầu của quá trình chuyển đổi số quốc gia hợp tác giữa doanh nghiệp và trường đại học để xây dựng chương trình đào tạo thực tiễn, đáp ứng lực lượng lao động trong bối cảnh Cách mạng công lần thứ tư.

Thứ tư, thúc đẩy liên kết hiệu quả giữa khu vực doanh nghiệp tư nhân và khu vực nhà nước thông qua xây dựng và triển khai các mô hình hợp tác công - tư (PPP) phù hợp với điều kiện thực tiễn. Ưu tiên tạo điều kiện để doanh nghiệp tư nhân tham gia đầu tư vào các lĩnh vực then chốt như phát triển hạ tầng, năng lượng tái tạo, nhằm huy động nguồn lực xã hội cho tăng trưởng bền vững. Thiết lập cơ chế phối hợp chặt chẽ, thường xuyên giữa các hiệp hội doanh nghiệp và cơ quan quản lý nhà nước để bảo đảm môi trường chính sách ổn định, minh bạch và hiệu quả.

Thứ năm, tăng cường vai trò giám sát và phản biện xã hội. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và truyền thông xã hội. Thành lập diễn đàn đối thoại thường niên giữa Chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp. Công khai kết quả thực thi chính sách hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân để bảo đảm tính minh bạch.

Các giải pháp cần được triển khai đồng bộ, lấy doanh nghiệp làm trung tâm, kết hợp giữa cải cách thể chế và nâng cao năng lực nội tại của doanh nghiệp tư nhân. Đề cao tinh thần “không để ai bị bỏ lại phía sau” trong quá trình phát triển kinh tế tư nhân, đặc biệt chú trọng đến doanh nghiệp siêu nhỏ, nhỏ và vừa.

3. Kết luận

Chủ trương về phát triển kinh tế tư nhân của Đảng từng bước được hoàn thiện qua các kỳ đại hội trong thời kỳ đổi mới. Từ chỗ coi kinh tế tư nhân là thành phần bổ trợ, đến nay Đảng khẳng định đây là một động lực quan trọng nhất của sự phát triển kinh tế quốc gia. Sự chuyển biến đó phản ánh tư duy đổi mới, thực tiễn hóa lý luận huy động mọi nguồn lực và kiên định mục tiêu phát triển đất nước vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Kinh tế tư nhân được khuyến khích phát triển lành mạnh, bình đẳng với các thành phần khác, gắn với lợi ích quốc gia - dân tộc. Đây là minh chứng rõ nét cho bản lĩnh, sự nhạy bén và năng lực lãnh đạo trong thời kỳ đổi mới của Đảng Cộng sản Việt Nam.

_________________

Ngày nhận bài: 22-6-2025; Ngày bình duyệt: 10-10-2025; Ngày duyệt đăng:

Email tác giả: tsdangvanluan@gmail.com

(1), (17), (18) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2021, tr.112, 130, 240.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.56.

(3), (4) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần I, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2010, tr.58, 53.

(5), (6), (7), (8), (9), (11), (12) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), Phần I, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.333, 374, 374, 437, 622-623, 149, 26.

(13) ĐCSVN: Nghị quyết số 14-NQ/TW ngày 18-3-2002 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

(14) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc thời kỳ đổi mới (khóa VI, VII, VIII, IX, X), phần II, Sđd, tr.354.

(15) Quốc hội: Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb Lao động, Hà Nội, 2014, tr.26.

(16) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.107-108.

(19) Vương Trần: Việt Nam bước vào nhóm các nước thu nhập trung bình cao, https://laodong.vn, ngày 12-10-2025.

(20), (21), (22), (25), (40) ĐCSVN: Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 4-5-2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

(23) Ánh Phương, Gần 1 triệu doanh nghiệp tư nhân tạo việc làm cho hơn 43 triệu lao động, https://vov.vn, ngày 18-05-2025.

(24), (36) Anh Phương: Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Văn Thắng: “Năm 2028 Việt Nam vào tốp 3 ASEAN về môi trường kinh doanh, https://www.sggp.org.vn, ngày 19-06-2025.

(26), (27) Tạp chí điện tử Con số & Sự kiện: Kinh tế tư nhân: Thực trạng và tiềm năng phát triển, https://consosukien.vn, ngày 07-9-2023.

(28), (30) Nhị Hà: Kinh tế tư nhân vươn mình, https://daidoanket.vn/, ngày 25-05-2025.

(29) Nguyễn Quỳnh: Kinh tế tư nhân có thể đóng góp 50% GDP vào năm 2030, https://vov.vn, ngày 05/03/2025.

(31) Phương Dung: Việt Nam có 4.000 doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, https://vnexpress.net/, 1-10-2024.

(32) Vân Phong: Doanh nghiệp tư nhân cần gì để ‘nâng lượng và tăng chất’?, https://thesaigontimes.vn, ngày 13-10-2024.

(33) Nguyễn Như Quỳnh: Kinh tế tư nhân - Động lực bứt phá vì một Việt Nam thịnh vượng, hùng cường, https://vids.mpi.gov.vn, ngày 09-06-2025.

(34) Nguyễn Hạnh: Doanh nghiệp lớn phải nỗ lực, tiên phong, dẫn dắt các doanh nghiệp vừa và nhỏ, https://congthuong.vn, ngày 31-05-2025.

(35) Diệp Diệp: Bộ Tài chính đề xuất cách quản lý thuế mới với 3,6 triệu hộ kinh doanh, https://vov.vn, ngày 12-6-2025.

(37) Gia Cư: Khơi thông “điểm nghẽn” tiếp cận vốn cho doanh nghiệp nhỏ và vừa, https://thoibaotaichinhvietnam.vn, ngày 31-7-2024.

(38) VnEconomy: Liên kết giá trị giữa FDI với doanh nghiệp trong nước, https://vneconomy.vn, ngày 28-4-2025.

(39) Phương Dung: Khuyến khích hộ kinh doanh lên doanh nghiệp để được hưởng ưu đãi, https://vnexpress.net, ngày 17-6-2025.