Đào tạo - Bồi dưỡng

Nội dung và phương thức giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

09/04/2025 16:36

(LLCT) - Giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng có vai trò quan trọng trong việc định hướng nhân cách, lối sống, chuẩn mực và hệ giá trị đạo đức cho thế hệ trẻ - nguồn nhân lực chất lượng cao và là chủ nhân tương lai của đất nước. Giáo dục đạo đức là yêu cầu tất yếu khách quan của công cuộc “trồng người”, giúp đào tạo thế hệ vừa “hồng” vừa “chuyên” nhằm phục vụ cho sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở quan điểm của Đảng và Nhà nước về giáo dục đạo đức, lối sống cho thế hệ trẻ, bài viết làm rõ những nội dung và phương thức cơ bản trong giáo dục đạo đức cho sinh viên bậc đại học ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.

TS ĐỖ DUY TÚ
Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh

TS NGUYỄN THỊ HOÀI

Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Hà Nội

Giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung, sinh viên nói riêng có vai trò quan trọng trong việc định hướng nhân cách, lối sống, chuẩn mực và hệ giá trị đạo đức cho thế hệ trẻ_Ảnh: Trung Kiên

1. Mở đầu

Luật Giáo dục năm 2019 khẳng định: “Mục tiêu giáo dục nhằm phát triển toàn diện con người Việt Nam có đạo đức, tri thức, văn hóa, sức khỏe, thẩm mỹ và nghề nghiệp; có phẩm chất, năng lực và ý thức công dân; có lòng yêu nước, tinh thần dân tộc, trung thành với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội; phát huy tiềm năng, khả năng sáng tạo của mỗi cá nhân; nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ quốc và hội nhập quốc tế”(1).

Trong đó, giáo dục đại học bên cạnh việc đào tạo nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí, bồi dưỡng, phát triển nhân tài; là thúc đẩy hoạt động nghiên cứu khoa học, góp phần sáng tạo tri thức và các sản phẩm mới, đáp ứng yêu cầu xây dựng, phát triển kinh tế, ổn định chính trị - xã hội, bảo đảm an ninh, quốc phòng trong bối cảnh hội nhập quốc tế. Giáo dục đại học góp phần đào tạo sinh viên phát triển toàn diện về thể chất, đạo đức, tinh thần; hình thành lớp người lao động có tri thức, kỹ năng lao động, trách nhiệm và đạo đức nghề nghiệp; có khả năng tiếp cận và làm chủ các tiến bộ của khoa học, công nghệ; có năng lực tự học, đổi mới, có sức sáng tạo và khả năng thích nghi với thị trường lao động; có tinh thần lập thân, lập nghiệp, có ý thức và trách nhiệm phụng sự Tổ quốc.

Ngày 04-12-2019, Thủ tướng Chính phủ ban hành Chỉ thị 31/CT-TTg về “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên”, trong đó nhấn mạnh: “Tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên thông qua các hoạt động giáo dục, đào tạo và trải nghiệm”(2). Như vậy, giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Việt Nam hiện nay là nội dung quan trọng, cấp thiết và lâu dài, giúp sinh viên phát triển, hình thành đạo đức, nhân cách và chuyển hóa từ nhận thức thành phương châm ứng xử trong lối sống, quá trình học tập, làm việc, góp phần quan trọng vào việc xây dựng một thế hệ trẻ có đủ đức và tài, sẵn sàng đóng góp cho sự nghiệp phát triển bền vững đất nước.

2. Nội dung

2.1. Nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên ở Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế

Thứ nhất, giáo dục sinh viên truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc

Yêu nước, tự hào dân tộc là một trong những phẩm chất cơ bản, tạo nên cốt cách con người Việt Nam truyền thống và hiện đại. Vì vậy, việc giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho sinh viên đại học là tất yếu trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Giáo dục truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc cho sinh viên phải gắn với giáo dục ý thức trách nhiệm đối với quê hương, đất nước; đồng thời gắn với giáo dục ý thức, lập trường giai cấp và rèn luyện bản lĩnh chính trị, qua đó định hướng sinh viên đem tài năng, trí tuệ cống hiến cho Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Bên cạnh đó, giáo dục cho sinh viên về lý tưởng, mục tiêu CNXH để họ trung thành với lý tưởng của Đảng, tiếp tục kế thừa sự nghiệp của Đảng, của các thế hệ trước trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN.

Giáo dục sinh viên truyền thống yêu nước, tinh thần tự hào dân tộc, phục vụ nhân dân, phụng sự Tổ quốc trong bối cảnh hội nhâp quốc tế hiện nay thực chất là vấn đề giáo dục lý tưởng, ý thức chính trị, trách nhiệm xã hội cho các chuyên gia, trí thức tương lai. Trong đó, chú trọng sự hài hòa cả lý trí và tình cảm, vừa giáo dục bổn phận, nghĩa vụ với Tổ quốc, vừa làm cho sinh viên hiểu được thực chất của yêu nước là yêu thương nhân dân lao động, yêu nhân dân cũng chính là thước đo của lòng yêu nước.

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng hiện nay, phải giáo dục cho sinh viên lòng tự hào dân tộc, có năng lực kế thừa và phát huy những giá trị tốt đẹp trong văn hóa và truyền thống dân tộc, đặc biệt là tinh thần đoàn kết, khoan dung và đặt lợi ích quốc gia, dân tộc lên trên hết. Đồng thời, giáo dục về vai trò của sinh viên - chủ nhân tương lai của đất nước trong sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH, xây dựng thành công CNXH, từng bước khẳng định vị thế của Việt Nam. Bên cạnh đó, cần đào tạo cho sinh viên có tư duy phản biện, năng lực tự phê phán, qua đó ý thức sâu sắc được những hạn chế, yếu kém để có thể thức tỉnh, rèn luyện và vươn lên, lập thân, lập nghiệp, khẳng định vai trò xung kích của bản thân. Sinh viên phải biết kết hợp hài hòa giữa cái chung và cái riêng; biết phân biệt cái hay, cái đẹp với những điều phản giá trị; không khoan nhượng với cái xấu, cái ác,… từ đó hình thành thái độ và hành vi sống đúng chuẩn mực đạo đức, đóng góp cho sự phát triển đất nước.

Tinh thần yêu nước, tự hào dân tộc phải gắn bó chặt chẽ với tinh thần phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đây cũng chính là giáo dục nghĩa vụ công dân, ý thức trách nhiệm xã hội cho sinh viên. Bởi, bản thân sinh viên đang sống, học tập và rèn luyện trong xã hội với tư cách là những công dân của đất nước. Phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân cũng là thước đo về đạo đức, về bổn phận, về nghĩa vụ, trách nhiệm mà mỗi trí thức trẻ cần nhận thức sâu sắc và rèn luyện thường xuyên trong thực tiễn.

Thứ hai, giáo dục sinh viên ý thức tự giác trong học tập, lao động và nghiên cứu khoa học

Theo V.I.Lênin, “nhiệm vụ của thanh niên nói chung, và của đoàn thanh niên cộng sản và các tổ chức khác nói riêng, có thể tóm gọn bằng một từ. Nhiệm vụ đó là: học tập”(3). Đây là hoạt động chủ yếu nhất và là nhiệm vụ hàng đầu của sinh viên. Vì vậy, việc giáo dục cho sinh viên ý thức tự giác trong học tập và nghiên cứu khoa học là vấn đề quan trọng, nhằm hình thành và nuôi dưỡng tình yêu lao động, kỷ luật học tập, đạo đức nghiên cứu, từng bước xác lập cho sinh viên những giá trị và tác phong lao động công nghiệp trong thời đại chuyển đổi số mạnh mẽ hiện nay.

Đối với các trường đại học, vấn đề giáo dục tri thức khoa học, tri thức ngành, chuyên ngành, đại cương, kỹ năng, đạo đức để đào tạo sinh viên có khả năng học tập suốt đời và phát triển thành chuyên gia là yêu cầu tất yếu. Do đó, giáo dục đạo đức cho sinh viên phải là quá trình thống nhất giữa giáo dục tri thức khoa học với giáo dục đạo đức, tạo dựng cho sinh viên thói quen cảm nhận và hành vi sáng tạo các giá trị chân - thiện - mỹ, đáp ứng yêu cầu tình cảm, lối sống và phong cách ứng xử theo những chuẩn mực đạo đức của dân tộc, phù hợp với thời đại.

Đặc biệt, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư hiện nay, yếu tố tri thức, sức sáng tạo của người lao động trở thành nhân tố quan trọng, quyết định đến sự phát triển của các quốc gia càng đòi hỏi người lao động phải không ngừng nỗ lực phát triển và hoàn thiện bản thân. Do đó, giáo dục cho sinh viên nhận thức được giá trị và ý nghĩa của học tập, nghiên cứu là tiền đề để sinh viên xác định mục đích và động cơ học tập, rèn luyện, có thái độ học tập đúng đắn, tích cực, chủ động trong tìm kiếm, tiếp nhận và sáng tạo tri thức. Sinh viên đại học phải xác định học tập như một lao động trí tuệ, chủ động tự rèn luyện phẩm chất của trí thức trong tương lai.

Lao động là phương thức tồn tại, là hoạt động đặc trưng, cơ bản nhất của xã hội loài người và là một trong những nguồn gốc hình thành con người. Việc giáo dục cho sinh viên ý thức tự giác học tập, lao động, nghiên cứu khoa học là nhiệm vụ có tầm quan trọng bậc nhất của trường đại học.

Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Muốn thật thà yêu Tổ quốc, yêu nhân dân, yêu chủ nghĩa xã hội thì phải yêu lao động, vì không có lao động thì chỉ là nói suông”(4). Với Người, lao động thì phải càng chăm chỉ, có năng suất, hiệu quả và phải đi liền với tiết kiệm. Với sứ mệnh đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho sự phát triển của đất nước, trường đại học đóng vai trò quan trọng trong việc đào tạo chuyên môn, kỹ năng, nghiệp vụ cho lao động, đồng thời góp phần giáo dục kỷ luật lao động, trách nhiệm và các kỹ năng lao động cho sinh viên. Vì vậy, bên cạnh kiến thức chuyên môn, cần chú trọng giáo dục sinh viên tình yêu lao động một cách sâu sắc, coi đó là một biểu hiện đẹp của nhân cách con người. Giáo dục để sinh viên biết yêu lao động và trân trọng các thành quả của lao động, có chuẩn mực và hành vi đạo đức đúng đắn, phù hợp quy phạm pháp luật trong các quan hệ lao động, đam mê và có trách nhiệm với công việc, luôn cần cù, sáng tạo và tự rèn luyện các kỹ năng lao động của bản thân. Từ đó, sinh viên có thái độ, hành vi trách nhiệm, kỷ luật trong lao động, ứng xử đúng mực với bản thân và trân trọng thành quả lao động của người khác.

Đối với sinh viên Việt Nam hiện nay, giáo dục đạo đức có vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách, lối sống, qua đó hình thành ý thức và trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức trong thực tiễn học tập, nghiên cứu khoa học và cuộc sống.

Thứ ba, giáo dục sinh viên truyền thống đoàn kết và trách nhiệm xã hội

Đoàn kết là một truyền thống quý báu của dân tộc Việt Nam, là một trong những động lực quyết định mọi thắng lợi của dân tộc trong các giai đoạn lịch sử. Ngày nay, để thực hiện thành công chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam, hội nhập quốc tế, đòi hỏi sự nỗ lực và đoàn kết, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân. Do đó, việc giáo dục cho sinh viên tinh thần đoàn kết và trách nhiệm xã hội là nội dung cần được chú trọng thực hiện.

Trước hết, giáo dục sinh viên ý thức đoàn kết cộng đồng, trách nhiệm xã hội thông qua các hoạt động rèn luyện kỹ năng làm việc nhóm, các hoạt động chính trị xã hội, hoạt động thiện nguyện vì cộng đồng. Tinh thần đoàn kết gắn với trách nhiệm xã hội, do đó, giáo dục sinh viên tinh thần hợp tác, chia sẻ trách nhiệm của bản thân cộng đồng, với tập thể, với xã hội để hướng tới mục tiêu phát triển bền vững đất nước.

Vấn đề giáo dục tinh thần đoàn kết dân tộc cho sinh viên cần đặt trong mối quan hệ với đoàn kết quốc tế. Cần quán triệt chặt chẽ nguyên lý chủ nghĩa yêu nước gắn liền với chủ nghĩa quốc tế, tinh thần dân tộc gắn với tinh thần thời đại. Giáo dục sinh viên tinh thần đoàn kết quốc tế, chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi, chủ nghĩa nước lớn, phân biệt chủng tộc, sắc tộc; đồng thời đứng vững trên lập trường giai cấp và mang tính nhân loại. Đoàn kết quốc tế trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, sinh viên cần xây dựng tư duy rộng mở, tinh thần khoan dung, không để khác biệt trở thành rào cản của quá trình hợp tác, hội nhập với thế giới. Giáo dục tinh thần đoàn kết quốc tế cho sinh viên phải chú trọng giáo dục lòng tự tôn dân tộc, ý thức trách nhiệm tự vươn lên, tự khẳng định mình, không ỷ lại, trông chờ sự giúp đỡ từ bên ngoài. Việc giao lưu, học tập tinh hoa văn hóa nhân loại phải đứng vững trên nền móng bản sắc dân tộc, độc lập tự chủ và sáng tạo chứ không sao chép, bắt chước, máy móc.

Giáo dục sinh viên tinh thần đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, trách nhiệm xã hội đòi hỏi các chủ thể giáo dục đạo đức phải nhấn mạnh sự đoàn kết, trách nhiệm trong tập thể, đặc biệt là giáo dục sinh viên phương thức xây dựng tình bạn, sự trung thực, tín nghĩa và trách nhiệm trong môi trường đại học. Đây cũng chính là sự chuẩn bị cho sinh viên những bài học về đạo đức về ứng xử, tiền đề để sinh viên bước vào môi trường lao động, lập thân, lập nghiệp khi ra trường. Trong giáo dục đạo đức sinh viên hiện nay, cần hướng dẫn sinh viên nhận thức, vận dụng những kiến thức đã học nhằm giải quyết những vấn đề thực tiễn nảy sinh trong các mối quan hệ xã hội và trong quá trình học tập, rèn luyện, sinh hoạt tập thể. Đây cũng là cách thức tăng cường sức mạnh đoàn kết trong tổ chức của sinh viên. Cần giáo dục cho sinh viên hiểu được giá trị của sự đoàn kết, đồng lòng, hợp tác, sức mạnh của tập thể, qua đó, mở rộng nhận thức và hướng tới đoàn kết dân tộc và đoàn kết quốc tế.

Thứ tư, giáo dục sinh viên tình yêu thương con người, lối sống cao đẹp và ứng xử chuẩn mực trong các mối quan hệ

Tình yêu thương con người là tình cảm cao quý, là giá trị nhân văn trong văn hóa và truyền thống của dân tộc Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng, tình yêu thương con người là một trong những phẩm chất đạo đức cao đẹp nhất của con người mới Việt Nam nói chung và thế hệ thanh niên, sinh viên nói riêng. Tình yêu thương con người trong tư tưởng của Người là tình cảm nhân ái, nhân đạo, nhân văn rộng lớn mà trước hết dành cho những người cùng khổ, những người lao động bị áp bức, bóc lột. Đó cũng là tình yêu thương đối với bạn bè, đồng chí, với mọi người trong quan hệ hằng ngày. Tình yêu thương con người trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh thể hiện ở mọi mối quan hệ, đòi hỏi mỗi người phải thật sự độ lượng, tôn trọng người khác, giúp đỡ nhau cùng tiến bộ, sống với nhau có tình, có nghĩa. Người từng nói: “Hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin là phải sống với nhau có tình có nghĩa. Nếu thuộc bao nhiêu sách mà sống không có tình có nghĩa thì sao gọi là hiểu chủ nghĩa Mác - Lênin được”(5).

Tình yêu thương con người giúp mỗi cá nhân, trong đó có sinh viên biết sống đẹp hơn, sẵn sàng thực hiện những điều tốt đẹp nhất vì người khác, đồng thời góp phần làm cho xã hội trong sáng, lành mạnh và ngày càng tốt đẹp hơn. Trong quá trình hội nhập quốc tế, giao lưu văn hóa với thế giới và khu vực, sinh viên hiện nay có nhiều điều kiện thuận lợi trong tiếp cận các thông tin mới, tiếp xúc với các giá trị văn hóa, lối sống, quan niệm mới mẻ, từ đó hình thành tâm lý, ý thức, niềm tin, tình cảm để thúc đẩy thành hành động. Nhưng trong thực tế, một bộ phận sinh viên có biểu hiện thay đổi quan niệm và cách ứng xử trong các mối quan hệ chưa phù hợp. Do đó, việc giáo dục cho sinh viên lòng yêu thương con người, lối sống cao đẹp và ứng xử chuẩn mực trong tình bạn, tình yêu, chống những hiện tượng phi đạo đức, phi văn hóa do mặt trái hội nhập quốc tế đem lại.

Thứ năm, giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên

Các trường đại học ở Việt Nam hiện nay đang hướng đến xây dựng đại học đa ngành, đa lĩnh vực có quy mô lớn, có nhiệm vụ đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao và nhân tài khoa học, công nghệ cho đất nước. Do đó, việc định hướng nghề nghiệp và giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trong nhà trường cần được các chủ thể giáo dục thực hiện. Mặt khác, giáo dục đạo đức nghề nghiệp là một định hướng rất quan trọng, là một đích đến; toàn bộ nội dung giáo dục đạo đức cho sinh viên là một quá trình chuẩn bị để hình thành và phát triển những phẩm chất đạo đức nghề nghiệp. Sau khi tốt nghiệp, sinh viên tham gia thị trường lao động với tư cách là đội ngũ lao động có trình độ cao, một bộ phận sẽ là nhà khoa học, trí thức, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, sáng tạo và hưởng thụ các giá trị văn hóa. Điều này đòi hỏi bản thân sinh viên phải có đạo đức nghề nghiệp, đây cũng chính là thước đo về sự trưởng thành của nhân cách sinh viên.

Giáo dục đạo đức nghề nghiệp cho sinh viên trước hết xuất phát từ việc giáo dục, bồi đắp tri thức về nghề nghiệp, chuyên ngành và bồi dưỡng ý thức thực học, để sinh viên có thực lực và thực tài. Trong quá trình GDĐĐ nghề nghiệp, các trường đại học phải giáo dục lý tưởng nghề nghiệp. Việc giáo dục cho sinh viên lý tưởng và đạo đức nghề nghiệp giúp hình thành bản lĩnh nghề nghiệp. Đồng thời, cần có những biện pháp hạn chế những biểu hiện của chủ nghĩa cá nhân, thực dụng, ảo tưởng, những nhận thức sai lệch về nghề nghiệp.

Trong xã hội, mỗi ngành nghề đều có vai trò và sự đóng góp vào sự phát triển, do đó cần giáo dục sinh viên có thái độ tôn trọng đối với các ngành nghề, để khi tham gia thị trường lao động, bên cạnh việc ý thức được giá trị của ngành nghề bản thân lựa chọn, sinh viên biết tôn trọng tính đặc thù, khác biệt, giá trị riêng của từng ngành nghề trong xã hội.

2.2. Hình thức và một số phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên đại học trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay

Hội nhập quốc tế phản ánh xu hướng toàn cầu hóa, nơi mà các quốc gia ngày càng có mối quan hệ gắn kết chặt chẽ với nhau thông qua thương mại, đầu tư, chuyển giao công nghệ, trao đổi văn hóa, và các cam kết chung về an ninh, môi trường, nhân quyền và nhiều lĩnh vực khác.

Hiện nay, Việt Nam đang đẩy mạnh hội nhập quốc tế sâu rộng, đạt được nhiều thành tựu quan trọng trên các lĩnh vực. Trong đó, hội nhập quốc tế với sự phát triển mạnh mẽ của công nghệ số và các nền tảng mạng xã hội cũng tạo ra nhiều cơ hội cũng như thách thức trong giáo dục đạo đức cho thanh niên nói chung, sinh viên hiện nay nói riêng. Để thực hiện tốt việc giáo dục đạo đức cho sinh viên hiện nay cần vận dụng linh hoạt, hiệu quả các hình thức và phương pháp giáo dục đạo đức, góp phần tạo dựng nguồn nhân lực trẻ chất lượng cao có bản lĩnh, trí tuệ và đạo đức, góp phần thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Về hình thức giáo dục đạo đức: Để nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên, cần thực hiện tốt hai hình thức giáo dục chủ yếu:

Một là, giáo dục đạo đức thông qua giảng dạy các môn học. Trong chương trình đào tạo các ngành ở bậc đại học, có một số môn chứa đựng nhiều nội dung liên quan đến vấn đề GDĐĐ cho sinh viên, đặc biệt là: nhóm các môn lý luận chính trị (Triết học Mác - Lênin; Kinh tế chính trị Mác - Lênin; Chủ nghĩa xã hội khoa học; Tư tưởng Hồ Chí Minh; Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam; nhóm các môn pháp luật (pháp luật Việt Nam đại cương, các môn Luật chuyên ngành); nhóm các môn Đạo đức học, Tâm lý học, Xã hội học, Đạo đức kinh doanh,...

Hai là, giáo dục đạo đức thông qua các hoạt động giáo dục (bao gồm: hoạt động giáo dục trong và ngoài nhà trường, hoạt động giáo dục trải nghiệm, hoạt động giáo dục theo chủ đề, sinh hoạt câu lạc bộ và các hoạt động ngoại khóa).

Để thực hiện tốt hai hình thức giáo dục này, các trường đại học, các chủ thể giáo dục cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ số và các nền tảng mạng xã hội nhằm giúp sinh viên tiếp cận thông tin nhanh chóng và đa dạng, đồng thời tạo điều kiện để phát huy hiệu quả các hình thức giáo dục, nội dung giáo dục, quản lý tốt các hoạt động giáo dục đạo đức cũng như giao lưu văn hóa, phát huy giá trị đạo đức, tiếp thu tri thức nhân loại. Mặt khác, các hình thức giáo dục chỉ có thể phát huy hiệu quả khi có sự phối hợp chặt chẽ giữa các chủ thể: gia đình, nhà trường, xã hội và phát huy tính tích cực, chủ động, tự giáo dục của bản thân sinh viên.

Về phương pháp giáo dục đạo đức cho sinh viên trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, tùy đặc thù, môi trường, điều kiện cụ thể, các chủ thể giáo dục có thể vận dụng linh hoạt một số phương pháp cơ bản sau:

Một là, giáo dục bằng lời nói. Đây là phương pháp giáo dục truyền thống, đến nay vẫn chứa đựng giá trị lý luận và thực tiễn. Bởi “Lời nói của nhà giáo dục là sự tác động cần thiết nhất, tinh tế nhất của một người tin vào sự đúng đắn và đẹp đẽ của những quan điểm và thế giới quan của mình đến trái tim của người khát khao trở nên tốt đẹp”(6). Vì vậy, lời nói của giảng viên có sức ảnh hưởng rất lớn, đồng thời là công cụ giáo dục tinh tế và sắc bén định hướng những lý tưởng đạo đức cao đẹp cho sinh viên.

Hai là, phương pháp thuyết giảng. Phương pháp này góp phần cung cấp những kiến thức đạo đức cho sinh viên. Các chủ thể giáo dục, đặc biệt là nhà giáo dục, trong đó có đội ngũ giảng viên, nhân viên, các chuyên gia, nhà khoa học sẽ dùng chính kiến thức và trải nghiệm của mình để phân tích, giải thích, chứng minh các chuẩn mực đạo đức, các chuẩn mực xã hội được quy định nhằm giúp sinh viên hiểu và nắm được ý nghĩa, nội dung, quy tắc để thực hiện tốt các chuẩn mực này. Qua đó, hình thành và phát triển tình cảm đạo đức, nhu cầu đạo đức cho sinh viên.

Ba là, phương pháp thuyết phục trong giáo dục đạo đức giúp sinh viên nhận thức sâu sắc giá trị đạo đức qua lý lẽ và thí dụ thực tế. Để thực hiện tốt phương pháp thuyết phục, trong quá trình giáo dục đạo đức, các chủ thể giáo dục phải bảo đảm tính dân chủ và bình đẳng giữa đối tượng giáo dục và chủ thể giáo dục. Hồ Chí Minh khẳng định: “Trong trường, cần có dân chủ. Đối với mọi vấn đề, thầy và trò cùng nhau thảo luận, ai có ý kiến gì đều thật thà phát biểu. Điều gì chưa thông suốt, thì hỏi, bàn cho thông suốt. Dân chủ nhưng trò phải kính thầy, thầy phải quý trò, chứ không phải là “cá đối bằng đầu””(7). Để bảo đảm dân chủ trong giáo dục, phải tăng cường đối thoại, tạo cơ hội cho sinh viên thể hiện ý kiến, tiếng nói và nguyện vọng của bản thân.

Bốn là, phương pháp nêu gương. Đây là phương pháp quan trọng nhằm định hướng đối tượng giáo dục theo hình mẫu tốt đẹp. Dựa trên cơ sở tâm lý của đối tượng giáo dục, các chủ thể giáo dục có thể sử dụng những tấm gương điển hình của tập thể, cá nhân xuất sắc, tiêu biểu trong các lĩnh vực, đặc biệt là những tấm gương về đạo đức và chuẩn mực về hành vi để giáo dục và khuyến khích sinh viên noi theo, tránh những hành vi lệch chuẩn. Phương pháp này có giá trị lớn trong phát triển nhận thức và tình cảm của sinh viên, tuy nhiên việc áp dụng phải bảo đảm sự nhất quán giữa nói và làm. Các chủ thể giáo dục (gia đình, nhà trường, đặc biệt là giảng viên) cần nêu gương về tính trung thực, khiêm tốn, giản dị, trong sạch, qua đó lan tỏa các yếu tố tích cực tới sinh viên. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”(8). Do đó, nói đi đôi với làm, ý thức đạo đức đi đôi với thực hành đạo đức, nói đi đôi với làm gương về đạo đức là nguyên tắc quan trọng trong giáo dục và xây dựng đạo đức cho sinh viên.

Năm là, phương pháp khích lệ, khuyến khích nhu cầu tự giáo dục trong bản thân sinh viên. Trong giáo dục đạo đức cho sinh viên, đây là phương pháp quan trọng nhằm tạo động lực và nâng cao ý thức trách nhiệm xã hội cho sinh viên. Thay vì áp đặt những quy tắc cứng nhắc, các chủ thể giáo dục có thể sử dụng lời khen ngợi, ghi nhận những nỗ lực của sinh viên để tạo cảm giác tự hào và động lực phấn đấu. Việc tổ chức các hoạt động ngoại khóa, các phong trào thi đua về đạo đức cũng góp phần tạo môi trường thực hành, phát huy tính tích cực và sáng tạo của sinh viên. Đồng thời, tạo điều kiện để sinh viên thảo luận, chia sẻ quan điểm về những vấn đề đạo đức, qua đó hiểu sâu hơn về giá trị đạo đức và ý nghĩa trong đời sống hằng ngày.

Sáu là, phương pháp đàm thoại. Đây là hình thức trao đổi trực tiếp giữa chủ thể giáo dục và đối tượng giáo dục, giúp củng cố nhận thức, tình cảm và niềm tin của sinh viên. Thông qua đàm thoại, sinh viên có cơ hội trình bày quan điểm, lắng nghe ý kiến từ người khác và thảo luận về các vấn đề đạo đức. Điều này không chỉ giúp họ hiểu rõ hơn về giá trị đạo đức mà còn tạo nền tảng cho sự phát triển nhân cách toàn diện.

Bảy là, phương pháp tập luyện thói quen, nhằm tổ chức cho sinh viên thực hiện các hoạt động giáo dục định kỳ, thường xuyên, thông qua các tổ chức, câu lạc bộ, Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên,… Trong thực hiện phương pháp này, Đảng ủy, Ban Giám hiệu, các khoa, phòng, ban, đội ngũ giảng viên, nhân viên, các tổ chức Đoàn - Hội cần có kế hoạch, nội dung, hình thức phù hợp để tập hợp, giáo dục, qua đó rèn luyện các kỹ năng cho sinh viên, hình thành các phẩm chất đạo đức, lối sống phù hợp chuẩn mực và quy định của pháp luật, đạo đức xã hội.

Bên cạnh đó, các chủ thể giáo dục có thể lựa chọn linh hoạt các phương pháp phù hợp đối tượng, mục đích, môi trường, như: phương pháp rèn luyện, phương pháp thi đua, khen thưởng, trách phạt,… nhằm giáo dục đạo đức cho sinh viên một cách có hiệu quả nhất, phù hợp với điều kiện thực tế.

3. Kết luận

Giáo dục đạo đức là một trong những nội dung quan trọng trong giáo dục con người toàn diện. Đối với sinh viên Việt Nam hiện nay, giáo dục đạo đức có vai trò to lớn, tác động mạnh mẽ đến sự hình thành nhân cách, lối sống, qua đó hình thành ý thức và trách nhiệm trong việc giữ gìn và phát huy các giá trị đạo đức trong thực tiễn học tập, nghiên cứu khoa học và cuộc sống. Thực hiện tốt việc giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt Nam hiện nay là nền tảng xây dựng nguồn nhân lực chất lượng cao, có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, góp phần tạo lập thế hệ công dân toàn cầu có trách nhiệm xã hội và tinh thần cống hiến, thúc đẩy sự phát triển bền vững và thịnh vượng của đất nước.

_________________

Ngày nhận bài: 22-10-2024; Ngày bình duyệt: 24-3-2025; Ngày duyệt đăng: 9-4-2025

Email tác giả: tu.dd@ou.edu.vn

(1) Quốc hội: Luật giáo dục, 2019.

(2) Thủ Tướng Chính phủ: Chỉ thị 31/CT-TTg về tăng cường giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh, sinh viên, 2019, tr.1, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn.

(3) V.I. Lênin: Toàn tập, t.41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1997, tr.211, 354.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị Quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.401.

(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.15, Sđđ, tr.668.

(6) V.A.Xukhomlinxki: Giáo dục con người chân chính như thế nào?, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1984, tr.19.

(7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.9, Sđđ, tr.266.

(8) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Sđd, tr.284.