Xây dựng nguồn nhân lực văn hóa trở thành động lực phát triển thành phố Huế trong kỷ nguyên mới
(LLCT) - Trong bối cảnh thành phố Huế được xác định là “văn hóa, di sản, sinh thái, cảnh quan, thân thiện môi trường, thông minh” và đang từng bước chuyển mình theo hướng phát triển bền vững và hội nhập sâu rộng, nguồn nhân lực văn hóa không chỉ là yếu tố then chốt trong việc bảo tồn di sản mà còn là động lực nội sinh quan trọng thúc đẩy đổi mới sáng tạo, phát triển kinh tế tri thức và nâng cao sức cạnh tranh của địa phương. Bài viết tập trung phân tích thực trạng phát triển nguồn nhân lực văn hóa thành phố Huế, từ đó đề xuất giải pháp nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực này trong kỷ nguyên mới của dân tộc. Bài viết là sản phẩm của Đề tài cấp tỉnh năm 2024: “Phát triển nguồn lực con người trong lĩnh vực văn hóa - du lịch tại tỉnh Thừa Thiên Huế theo tinh thần Nghị quyết số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị” (Mã số: TTH.2023-KX.01)
TS NGUYỄN THỊ CHÂU
Trường Chính trị Nguyễn Chí Thanh, thành phố Huế

1. Mở đầu
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và cạnh tranh không gian sáng tạo giữa các đô thị, vấn đề phát triển bền vững không chỉ phụ thuộc vào nguồn lực vật chất hay ưu thế địa lý, kinh tế như truyền thống, mà ngày càng phụ thuộc vào chất lượng nguồn lực con người, đặc biệt là nguồn nhân lực văn hóa (NNLVH). Trong xu thế đó, thành phố Huế với việc chính thức trở thành thành phố thứ 6 trực thuộc Trung ương theo Nghị quyết số 175/2024/QH15 đã đánh dấu một bước chuyển quan trọng trong quá trình phát triển đô thị. Sự kiện đó đã mở ra những kỳ vọng về đổi mới và tái cấu trúc động lực tăng trưởng của thành phố, trong đó NNLVH cần được xác lập như một động lực nội sinh quan trọng nhất mà Huế đang sở hữu.
2. Nội dung
2.1. Thực trạng xây dựng nguồn nhân lực văn hóa tại thành phố Huế
NNLVH không chỉ tạo ra giá trị văn hóa, mà còn giữ vai trò bảo tồn, phát triển và chuyển hóa các giá trị ấy trong đời sống hiện đại. Thông qua hoạt động sáng tạo, giáo dục, truyền thông và nghiên cứu, đội ngũ này góp phần định hình bản sắc, làm giàu đời sống tinh thần và thúc đẩy phát triển dựa trên tri thức và văn hóa. Do đó, cần tiếp cận khái niệm NNLVH một cách toàn diện. Theo quan điểm của tác giả, NNLVH là tổng thể những con người có tri thức chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, hệ giá trị văn hóa, thái độ tích cực và phẩm chất sáng tạo trong quá trình sáng tác, bảo tồn, khai thác và phát huy giá trị văn hóa trong đời sống xã hội. Với vai trò then chốt ở nhiều cấp độ và lĩnh vực; khi được phát triển đúng hướng, lực lượng này vừa là động lực nội sinh, vừa là nền tảng cho các ngành như du lịch di sản, công nghiệp văn hóa và kinh tế sáng tạo.
Trong những năm gần đây, việc xây dựng NNLVH đã được các cấp ủy đảng, chính quyền thành phố Huế quan tâm và đạt được kết quả, thể hiện rõ qua việc từng bước thiết lập khung chính sách chuyên biệt, mở rộng quy mô đào tạo, nâng cao chất lượng lực lượng sáng tạo, đồng thời thúc đẩy môi trường thực hành nghề nghiệp gắn với các xu thế mới như chuyển đổi số và kinh tế trải nghiệm.
Trên cơ sở chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước, các văn bản quy phạm pháp luật liên quan, thành phố Huế chủ động nghiên cứu, tham vấn xin ý kiến chuyên môn nghiệp vụ làm cơ sở ban hành nghị quyết, các văn bản hướng dẫn, phối hợp với các UBND các cấp nhằm kịp thời tổ chức thực hiện hiệu lực, hiệu quả công tác phát triển NNLVH. Ngay sau khi có Nghị quyết số 54-NQ/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế (nay Thành phố Huế) đã ban hành hàng loạt văn bản chỉ đạo cụ thể ở cả cấp ủy và chính quyền. Cụ thể như Chương trình hành động số 69-CTr/TU ngày 03-02-2020 nhằm cụ thể hóa nội dung Nghị quyết 54, trong đó xác định rõ bốn nhóm nhiệm vụ trọng tâm gồm: văn hóa - du lịch, y tế chuyên sâu, giáo dục - đào tạo, và khoa học - công nghệ, với tổng cộng 34 đề án thành phần để triển khai thực hiện. Nghị quyết số 04-NQ/TU về phát triển Thừa Thiên Huế trở thành một trong những trung tâm lớn, đặc sắc của cả nước và khu vực Đông Nam Á về văn hóa và du lịch, trong giai đoạn 2021-2025, tầm nhìn đến năm 2030. Nghị quyết số 17-NQ/TU ngày 13-5-2022 về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao tỉnh Thừa Thiên Huế đến năm 2025, định hướng đến năm 2030. Đặc biệt, nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn lực cho các lĩnh vực ưu tiên, ngày 24 - 02 - 2025, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa XVI đã ban hành Chương trình hành động thực nghị Nghị quyết 57- NQ/TW về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia. UBND tỉnh Thừa Thiên Huế (nay là UBND thành phố Huế) đã ban hành nhiều kế hoạch, chương trình …nhằm mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Huế phát triển toàn diện, phù hợp với yêu cầu của thời đại và bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, với trọng tâm là ưu tiên phát triển nhân lực trong các lĩnh vực văn hóa, nghệ thuật và công nghiệp sáng tạo. Những định hướng và chính sách nêu trên không chỉ mang tính chiến lược dài hạn mà còn cho thấy quyết tâm chính trị và sự chủ động thể chế hóa của thành phố trong việc phát triển nguồn nhân lực văn hóa như một động lực quan trọng của quá trình xây dựng đô thị di sản đặc thù.
Thành phố Huế là nơi tập trung đội ngũ trí thức lớn thứ ba cả nước với hàng trăm giáo sư, phó giáo sư, tiến sĩ và thạc sĩ(1). Trong đó, có rất nhiều người có khả năng sáng tạo, tạo ra những sản phẩm văn hóa mới, có giá trị cao về nội dung và nghệ thuật. Những sản phẩm đó góp phần nâng cao giá trị và sức hấp dẫn của văn hóa Huế, thu hút du khách cũng như người tiêu dùng trong nước và quốc tế. Cùng với đó, lĩnh vực thủ công mỹ nghệ cũng là thế mạnh của thành phố, với đội ngũ nghệ nhân giàu kinh nghiệm và sáng tạo, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị các nghề truyền thống, từ các sản phẩm như áo dài, đồ đồng, mây tre đan, hoa giấy đến các sản phẩm mộc mỹ nghệ, Huế không chỉ giữ gìn bản sắc văn hóa đặc trưng mà còn mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong nước và quốc tế. Sự kết hợp giữa kỹ thuật truyền thống và đổi mới sáng tạo chính là yếu tố then chốt giúp các ngành nghề thủ công mỹ nghệ tại Huế phát triển bền vững trong bối cảnh hiện đại.
Huế hiện có hệ thống cơ sở giáo dục chuyên sâu tương đối hoàn chỉnh, với hạt nhân là Trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế và Trường Trung cấp Văn hóa nghệ thuật Huế. Năm 2025, Trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế ghi nhận 417 thí sinh dự thi, mức cao nhất trong một thập kỷ, tiếp tục khẳng định vai trò “cái nôi” đào tạo mỹ thuật, thiết kế của miền Trung. Trường đã cập nhật chương trình liên ngành (mỹ thuật, công nghệ, quản trị) và tăng cường hợp tác quốc tế, giúp sinh viên nắm vững kỹ năng số, ngoại ngữ và tư duy khởi nghiệp(2). Giáo dục và đào tạo của thành phố Huế tiếp tục giữ vững vị trí trong nhóm dẫn đầu của cả nước về quy mô trường lớp, chất lượng giáo dục toàn diện, giáo dục mũi nhọn, số học sinh đạt giải cao trong các kỳ thi học sinh giỏi quốc gia, quốc tế. Các cơ sở giáo dục nghề nghiệp trên địa luôn bảo đảm tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 70,25% năm 2023, tiệm cận ngưỡng mục tiêu 75% năm 2025, trong đó, tỷ lệ lao động trong ngành dịch vụ là 51% theo kế hoạch phát triển nhân lực của thành phố(3).
Đồng thời, thành phố Huế cũng luôn chú trọng tôn vinh và phát huy vai trò của đội ngũ nghệ nhân, nghệ sĩ, họ là những “ký ức sống” của di sản Huế. Năm 2023, Huế có 01 Nghệ nhân Nhân dân và 06 Nghệ nhân Ưu tú được phong tặng(4) con số cao nhất trong vòng một thập niên, cho thấy chính sách tôn vinh, bảo vệ và tạo động lực truyền nghề của thành phố đã bắt đầu phát huy hiệu quả, nhằm gìn giữ, lan tỏa các giá trị văn hóa di sản không chỉ trên địa bàn thành phố mà còn trên cả nước.
Đồng thời, các không gian sáng tạo và biểu diễn nghệ thuật cũng được mở rộng đáng kể. Các sự kiện văn hóa quy mô như Festival Huế, Tuần lễ Festival Nghề truyền thống hay Festival Nghệ thuật Quốc tế không chỉ trở thành thương hiệu đặc sắc của địa phương mà còn là “sân khấu thực hành” quan trọng cho đội ngũ nhân lực văn hóa trẻ. Riêng Festival Nghệ thuật Quốc tế Huế 2024 đã quy tụ gần 30 đoàn nghệ thuật trong và ngoài nước với trên 500 nghệ sĩ tham gia, thu hút hơn 100.000 lượt khách và tạo ra doanh thu du lịch hơn 150 tỷ đồng trong một tuần diễn ra sự kiện(5). Đội ngũ văn nghệ sĩ thành phố Huế hợp tác với nghệ sĩ quốc tế đã tạo nên một diễn đàn văn hóa đa quốc gia, giúp nâng cao vị thế của thành phố trong cộng đồng quốc tế. Chính các hoạt động này đã làm cho các ngành CNVH thành phố Huế dần khẳng định vị thế, tạo nên những dấu ấn riêng. Đây là minh chứng cho khả năng kết nối giữa lực lượng sáng tạo, hệ sinh thái dịch vụ hậu cần (âm thanh, ánh sáng, truyền thông, lưu trú…) và nhu cầu thực tế từ thị trường văn hóa - du lịch.
Đặc biệt, trong xu thế chuyển đổi số, Huế cũng từng bước thích nghi và thúc đẩy sự phát triển của đội ngũ nhân lực văn hóa theo hướng tích hợp công nghệ. Dự án số hóa Hoàng cung Huế, ứng dụng thực tế ảo (VR) và thực tế tăng cường (AR) trong tham quan di tích đã được Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế triển khai hiệu quả, giành Giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam năm 2024(6). Thành công này không chỉ khẳng định năng lực tiếp nhận công nghệ của đội ngũ chuyên môn mà còn mở ra nhu cầu mới đối với các vị trí như kỹ sư dựng hình 3D, lập trình viên XR những nghề nghiệp mới trong lĩnh vực bảo tồn di sản và sáng tạo nội dung số. Tuy nhiên, trong quá trình phát triển NNLVH tại thành phố Huế hiện vẫn bộc lộ một số hạn chế, thách thức cả về quy mô, chất lượng và cơ chế chính sách hỗ trợ…, cụ thể:
Trước hết, hệ thống đào tạo NNLVH tại Huế dù đã có bước đổi mới nhất định song vẫn còn thiếu đồng bộ, chậm thích ứng với yêu cầu mới của nền kinh tế sáng tạo và chuyển đổi số. Phần lớn chương trình đào tạo hiện nay vẫn thiên về kỹ năng nghề truyền thống trong các lĩnh vực mỹ thuật, âm nhạc, sân khấu, thiếu sự tích hợp các môn học liên ngành như quản trị sáng tạo, kỹ năng số, thiết kế trải nghiệm người dùng (UX), truyền thông đa phương tiện hoặc quản lý bản quyền sở hữu trí tuệ. Bên cạnh đó, đội ngũ giảng viên giảng dạy các chuyên ngành văn hóa - nghệ thuật tại Huế còn gặp khó khăn về cơ cấu và năng lực thực hành thực tế, nhất là trong lĩnh vực công nghệ sáng tạo và kinh tế số.
Thứ hai, sự liên kết giữa hệ thống đào tạo với thị trường lao động văn hóa còn khá lỏng lẻo. Các cơ sở giáo dục chủ yếu vẫn thực hiện chương trình đào tạo theo hướng truyền thống, chưa có nhiều hợp tác bài bản với doanh nghiệp trong lĩnh vực sáng tạo, tổ chức văn hóa nghệ thuật hay các đơn vị dịch vụ hậu cần văn hóa - du lịch. Đáng lưu ý, theo thống kê, mặc dù có tới 91,26% sinh viên sau tốt nghiệp có việc làm, nhưng chỉ 44,99% làm đúng chuyên ngành được đào tạo, riêng nhóm ngành nhân văn - nghệ thuật ghi nhận tỷ lệ làm trái ngành lên tới 63%(7). Bên cạnh đó, chỉ khoảng 10-20% sinh viên được nhà tuyển dụng đánh giá đáp ứng yêu cầu kỹ năng mềm và khả năng chịu áp lực công việc(8), những yếu tố đặc biệt quan trọng trong chuỗi giá trị công nghiệp văn hóa (CNVH) và dịch vụ du lịch sáng tạo. Thực trạng này phản ánh rõ nét tình trạng mất cân đối cung - cầu lao động văn hóa tại Huế: vừa dư thừa lao động có bằng cấp nhưng thiếu kỹ năng phù hợp, vừa thiếu hụt nhân lực có năng lực thực sự về quản lý, sáng tạo và vận hành sản phẩm - dịch vụ văn hóa chuyên nghiệp, nhất là trong bối cảnh chuyển đổi số và hội nhập quốc tế hiện nay.
Thứ ba, chính sách thu hút, đãi ngộ và giữ chân nhân tài trong lĩnh vực văn hóa - nghệ thuật tại Huế chưa đủ sức cạnh tranh so với các trung tâm lớn. Mức thu nhập trung bình của lao động văn hóa tại Huế hiện vẫn ở mức thấp hơn so với mặt bằng chung, nhất là khi so với Hà Nội, Đà Nẵng hoặc TP. Hồ Chí Minh, nơi có hệ sinh thái công nghiệp văn hóa phát triển và thị trường tiêu thụ rộng mở. Bên cạnh đó, cơ hội thăng tiến nghề nghiệp cũng còn hạn chế, khiến nhiều nghệ sĩ, nghệ nhân trẻ sau khi học tập, đào tạo tại Huế có xu hướng chuyển dịch sang làm việc tại các địa phương khác hoặc ra nước ngoài.
Thứ tư, đầu tư tài chính cho NNLVH còn chưa tương xứng, quy mô và năng lực phát triển của các doanh nghiệp văn hóa, sáng tạo tại Huế còn nhỏ lẻ, phân tán và thiếu liên kết ngành. Hầu hết các doanh nghiệp trong lĩnh vực này chủ yếu hoạt động theo mô hình hộ gia đình, tổ chức sự kiện hoặc kinh doanh dịch vụ lưu niệm, quà tặng thủ công, chưa hình thành được chuỗi giá trị khép kín, từ sáng tạo nội dung đến sản xuất và phân phối sản phẩm văn hóa theo tiêu chuẩn thị trường hiện đại. Đặc biệt, số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (start-up) trong lĩnh vực văn hóa tại Huế còn rất hạn chế, phản ánh sự thiếu hụt môi trường hỗ trợ về tài chính, công nghệ và cơ chế chính sách cho lĩnh vực này.
Thứ năm, công tác thống kê, quản lý dữ liệu liên quan đến NNLVH trên địa bàn thành phố vẫn chưa được thực hiện bài bản, hệ thống hóa. Hiện nay, chưa có cơ sở dữ liệu đầy đủ, cập nhật về số lượng, chất lượng, kỹ năng và nhu cầu đào tạo của lực lượng lao động văn hóa tại Huế, gây khó khăn cho công tác hoạch định chính sách, dự báo nhu cầu nhân lực cũng như xây dựng các chương trình hỗ trợ cụ thể. Khung chính sách phát triển NNLVH còn thiếu tính chuyên biệt và chưa cụ thể hóa thành các tiêu chuẩn nghề nghiệp hiện đại; các chương trình thực hiện Nghị quyết 17-NQ/TU mới dừng lại ở định hướng tổng thể, chưa cụ thể hóa được khung năng lực cụ thể cho lĩnh vực văn hóa.
2.2. Giải pháp phát triển nguồn nhân lực văn hóa của thành phố Huế
Thứ nhất, cần xây dựng chiến lược tổng thể phát triển NNLVH gắn với tầm nhìn thành phố sáng tạo. Thành phố Huế cần ban hành “Chiến lược phát triển nguồn nhân lực văn hóa đến năm 2045 trên địa bàn thành phố Huế” thay thế cho “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030 trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế” nhằm bảo đảm phù hợp với sự phát triển mới của thành phố Huế, trong đó, xác định rõ mục tiêu cụ thể, có định lượng rõ ràng về số lượng, chất lượng, cơ cấu phân bố và lĩnh vực chuyên môn. Chiến lược này không chỉ dừng lại ở việc quy hoạch chung, mà còn phải thiết lập hệ tiêu chuẩn nghề nghiệp cho từng nhóm nhân lực, từ nghệ nhân, nghệ sĩ đến nhà quản trị sáng tạo, kỹ sư công nghệ văn hóa.
Cùng với đó, cần thiết lập “Bản đồ nhân lực văn hóa Huế đến năm 2035” nhằm điều tra, số hóa đầy đủ lực lượng làm việc trong 11 phân ngành công nghiệp văn hóa như di sản, du lịch, biểu diễn, thiết kế, phim ảnh… Bản đồ này phải được liên thông với cơ sở dữ liệu dân cư, việc làm, đào tạo và quy hoạch đô thị để dự báo nhu cầu nhân lực trong 5-10 năm tới, giúp chính quyền và các đơn vị liên quan chủ động xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nhân lực. Song, nhân lực văn hóa cần được tích hợp vào hệ thống quy hoạch tổng thể thành phố trực thuộc trung ương, xem đây như một thành tố bắt buộc ngang với hạ tầng kỹ thuật và xã hội, nhất là trong các lĩnh vực đô thị di sản, sinh thái và thông minh.
Đồng thời, xác lập khung chính sách cho vùng di sản sáng tạo là một yêu cầu cấp thiết. Cần quy hoạch ba “hành lang sáng tạo” gồm Kinh thành - Gia Hội, sông Hương mở rộng, và khu vực Thủy Biều - Tam Giang, kết nối giữa các không gian di sản với hoạt động du lịch, khởi nghiệp sáng tạo. Mỗi hành lang cần dành quỹ đất từ 5 đến 10 ha ưu tiên phát triển không gian làm việc chung, studio sáng tạo, khu trình diễn nghệ thuật, kết hợp với các tiện ích phục vụ cộng đồng. Việc hình thành các hành lang sáng tạo không chỉ góp phần tạo ra môi trường làm việc thuận lợi cho đội ngũ nhân lực văn hóa mà còn trở thành điểm đến hấp dẫn, thúc đẩy giao lưu văn hóa và phát triển kinh tế địa phương.
Thứ hai, cần xây dựng chính sách đặc thù về đào tạo, hỗ trợ sáng tạo và thị trường văn hoá. Các chính sách này đóng vai trò thiết yếu nhằm nâng cao chất lượng và phát huy hiệu quả NNLVH tại Huế, bảo đảm sự phát triển hài hòa giữa yếu tố truyền thống và yêu cầu đổi mới sáng tạo trong bối cảnh hội nhập. Trong đó, cần thiết kế và triển khai các chương trình đào tạo linh hoạt, gắn trực tiếp với nhu cầu thị trường và đặc thù địa phương. Bảo đảm việc liên kết giữa các cơ sở đào tạo như Đại học Nghệ thuật, Nhạc viện, Khoa Du lịch thuộc Đại học Huế với các doanh nghiệp văn hóa, các đơn vị sử dụng lao động là yếu tố quyết định. Mô hình đào tạo “nghệ nhân, doanh nhân trẻ” theo hướng vừa học vừa làm trong thời gian từ 12 đến 18 tháng cần được thí điểm và nhân rộng, giúp đội ngũ trẻ có thể tham gia thực tiễn ngay từ khi đang học tập. Đặc biệt, cần chú trọng lồng ghép các môđun đào tạo mới như: Di sản ảo (Virtual Heritage)(9), thực tế ảo mở rộng (XR) nhằm đáp ứng xu hướng chuyển đổi số trong lĩnh vực văn hóa. Để thị trường văn hóa phát triển bền vững, cần xây dựng sản phẩm và chuỗi giá trị văn hóa đặc thù cho Huế.
Cùng với đó, việc phát triển hệ sinh thái ươm tạo và khởi nghiệp sáng tạo văn hóa cần được chú trọng như một giải pháp mang tính đột phá. Định hướng hình thành “Hệ sinh thái tài năng văn hóa Huế”, kết nối các tài năng trẻ với cộng đồng sáng tạo và doanh nghiệp văn hóa. Trên cơ sở Trung tâm Khởi nghiệp Đổi mới Sáng tạo thành phố Huế (Hue Innovation Hub) đã được thành lập, cần bổ sung các chương trình và không gian hỗ trợ chuyên biệt dành cho lĩnh vực văn hóa sáng tạo, kết nối trực tiếp với các doanh nghiệp văn hóa, nghệ nhân và giới trẻ khởi nghiệp. Thành phố cần nghiên cứu triển khai cơ chế ưu đãi về thuế và đất đai dành riêng cho các dự án start-up trong lĩnh vực văn hóa, đồng thời phát triển các gói hỗ trợ tài chính, kỹ thuật, tư vấn pháp lý phù hợp.
Cuối cùng, chính sách an sinh xã hội dành riêng cho NNLVH cũng cần được thiết lập với các cơ chế đặc thù. Việc thành lập quỹ để hỗ trợ bảo hiểm y tế, hưu trí bổ sung cho nghệ sĩ tự do, nghệ nhân làng nghề là hết sức cần thiết, trong đó ngân sách nhà nước đối ứng tối đa 30% nhằm chia sẻ rủi ro, bảo đảm sự ổn định lâu dài cho đội ngũ hoạt động trong lĩnh vực văn hóa vốn thường xuyên chịu nhiều biến động về thu nhập. Những chính sách đặc thù trên không chỉ tạo ra hệ thống hỗ trợ toàn diện cho nguồn nhân lực văn hóa Huế mà còn góp phần chuyển đổi cơ cấu ngành văn hóa - du lịch từ phát triển dựa trên tài nguyên sang phát triển dựa trên con người.
Thứ ba, xây dựng môi trường sáng tạo thuận lợi với phối hợp đa ngành giữ vai trò nền tảng nhằm bảo đảm cho nguồn nhân lực văn hóa tại Huế phát triển một cách toàn diện, bền vững và phù hợp với đặc trưng văn hóa - xã hội địa phương. Cần tập trung hoàn thiện hạ tầng và không gian sáng tạo phục vụ riêng cho lĩnh vực văn hóa. Trên cơ sở hiện có, thành phố cần quy hoạch và chuyển đổi công năng một phần các trụ sở làm việc cũ của các cơ quan, công sở để lại sau khi di dời về khối nhà hành chính tập trung của thành phố (ưu tiên các công trình có lịch sử, kiến trúc phản ánh văn hóa Huế), như: văn phòng làm việc của Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật (cũ); trụ sở của Trung tâm Thông tin xúc tiến du lịch thành phố Huế (cũ) số 4 Hoàng Hoa Thám; trụ sở Công ty An Phú Tân tại đường Bùi Thị Xuân; v.v… để trở thành “Nhà lab sáng tạo di sản”, phố nghệ thuật, nhằm làm nơi tích hợp các chức năng maker-space, studio thực tế ảo, không gian thử nghiệm ý tưởng bảo tồn số, giao lưu văn hóa gắn với truyền thống, văn hóa Huế.
Bên cạnh đó, để bảo đảm sự bền vững về xã hội và giữ gìn bản sắc văn hóa Huế trong quá trình hội nhập và phát triển, cần chuẩn hóa bộ Quy tắc ứng xử “Người Huế - Công dân văn hóa”, Với các giá trị đặc sắc về văn hóa, lễ giáo, hiếu học, tinh thần tôn sư trọng đạo; sống khoan dung, hòa thuận; mẫu mực, nhẹ nhàng, gần gũi với thiên nhiên. Bộ quy tắc này không chỉ áp dụng cho cán bộ, công chức mà cần được nhân rộng ra toàn bộ cộng đồng dân cư và doanh nghiệp.
Thứ tư, thành phố cần xây dựng kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ văn hóa các cấp theo tiêu chuẩn chức danh, trang bị, bổ sung những kiến thức chuyên môn nghiệp vụ và kỹ năng quản lý điều hành, từng bước tiêu chuẩn hóa đội ngũ cán bộ văn hóa đáp ứng với yêu cầu quá trình phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Bên cạnh các tiêu chuẩn về chính trị, phẩm chất, đạo đức, lối sống cần tập trung đầu tư đào tạo, bồi dưỡng kiến thức lý luận về văn hóa, nhất là những kỹ năng thực hành trong việc tổ chức, quản lý, kiểm tra các hoạt động trong các lĩnh vực văn hóa, và các lĩnh vực liên quan đến phát triển CNVH của thành phố hiện nay.
Đồng thời, thành phố Huế cần bổ sung tiêu chí “Đánh giá bảo tồn bản sắc” trong hệ thống phân hạng trách nhiệm xã hội doanh nghiệp (CSR) nhằm bảo đảm phát triển bền vững gắn với giữ gìn giá trị văn hóa. Các sáng kiến CSR trong bảo tồn di sản giúp “cải thiện đáng kể kết quả bảo tồn so với các nỗ lực do các chính phủ dẫn dắt”(10). “Doanh nghiệp có chỉ số bảo vệ di sản thấp cần khẩn trương nâng cao thực hành, vì điều đó phản ánh rủi ro tài chính, uy tín và kết quả bảo tồn kém”(11). Đây là bước đi cần thiết để bảo đảm rằng phát triển NNLVH không tách rời nhiệm vụ bảo vệ, gìn giữ và phát huy giá trị bản sắc riêng có của Huế, đồng thời khẳng định vị thế của thành phố như một đô thị di sản, sáng tạo kiểu mẫu ở Việt Nam và khu vực.
Thứ năm, để bảo đảm các giải pháp phát triển NNLVH được thực hiện đồng bộ, hiệu quả và bền vững, thành phố Huế cần xây dựng cơ chế triển khai và giám sát chặt chẽ, minh bạch. Cần lập “Sổ tay Nguồn nhân lực Văn hóa Huế” dưới dạng trực tuyến, công bố công khai và cập nhật định kỳ hàng quý. Hệ thống chỉ số này không chỉ giúp cơ quan quản lý nhà nước theo dõi sát tình hình thực tế mà còn tạo điều kiện để người dân, doanh nghiệp và các tổ chức xã hội cùng tham gia giám sát, đánh giá tiến độ và kết quả thực hiện.
Hơn nữa, trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp lần thứ tư, các ngành CNVH thành phố Huế, nhất là nghệ thuật biểu diễn, đang có những thay đổi mạnh mẽ, đặc biệt là xu hướng chuyển đổi số. Để đáp ứng nhu cầu phát triển của các ngành CNVH, bên cạnh những đặc trưng văn minh, hiện đại, tôn trọng pháp luật, có lối sống văn hóa, nhân ái, nghĩa tình, thủy chung, trong sáng, NNLVH cần phải có trình độ, năng lực, có khả năng làm việc trong môi trường số, thích ứng với môi trường số. Họ phải sử dụng thành thạo các công nghệ số, có khả năng sáng tạo, tư duy phản biện, giải quyết vấn đề và làm việc nhóm hiệu quả. Đây cũng là một vấn đề lớn đặt ra cho việc đào tạo, bồi dưỡng NNLVH cho phát triển CNVH ở Thành phố Huế.
Tổ chức đối thoại thường niên giữa chính quyền địa phương, các trường, viện nghiên cứu, doanh nghiệp và đội ngũ nghệ sĩ, nhằm trao đổi, tháo gỡ khó khăn, chia sẻ kinh nghiệm và định hướng phát triển chung. Đây là diễn đàn thiết yếu giúp củng cố sự phối hợp đa ngành và tăng cường sự đồng thuận xã hội trong phát triển NNLVH. Chủ động đưa các sáng kiến then chốt hay các hành lang sáng tạo vào cam kết với UNESCO và mạng lưới Thành phố sáng tạo toàn cầu, qua đó thu hút thêm nguồn lực quốc tế về tài chính, kỹ thuật và chuyên gia, đồng thời nâng cao vị thế của Huế trên bản đồ sáng tạo văn hóa thế giới.
3. Kết luận
Nguồn nhân lực văn hóa là nguồn lực đặc thù, mang đậm bản sắc và tiềm năng riêng có của thành phố Huế, cần được xác lập như một động lực nội sinh chủ lực trong chiến lược phát triển. Với nền tảng di sản văn hóa phong phú, Huế hội đủ điều kiện để phát triển mô hình “tăng trưởng dựa vào sáng tạo”, phù hợp với xu thế kinh tế tri thức và CNVH. Để hiện thực hóa mục tiêu đó, thành phố Huế cần xây dựng hệ sinh thái phát triển NNLVH đồng bộ, gồm: quy hoạch dài hạn gắn với tầm nhìn văn hóa - kinh tế; chính sách đặc thù về đào tạo, hỗ trợ sáng tạo và phát triển thị trường văn hóa; cùng với môi trường sáng tạo thuận lợi, có sự phối hợp đa ngành, bảo đảm phù hợp với đặc trưng văn hóa - xã hội địa phương. Chỉ khi các yếu tố này được vận hành nhịp nhàng, đồng bộ, NNLVH mới thực sự trở thành bệ phóng vững chắc, đưa Huế phát triển bền vững và khẳng định vị thế là trung tâm văn hóa, sáng tạo đặc sắc của cả nước trong giai đoạn mới.
_________________
Ngày nhận bài: 05-7-2025; Ngày bình duyệt: 10-7-2025; Ngày duyệt đăng: 25-7-2025.
(1) Nguyễn Công Hậu: Thừa Thiên Huế phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, https://nhandan.vn, truy cập ngày 8-7-2025.
(2) Phương Nguyễn: Trường Đại học Nghệ thuật, Đại học Huế: Đào tạo mỹ thuật trong bối cảnh hiện nay, https://nguonluc.com.vn, truy cập ngày 8-7-2025.
(3) Quỳnh Nga: Nhiều chính sách thu hút nhân lực chất lượng cao tại Thừa Thiên Huế, https://baophapluat.vn, truy cập ngày 21-03-2025.
(4) N. MINH: 7 nghệ nhân được trao danh hiệu Nghệ nhân nhân dân, Nghệ nhân ưu tú, https://huengaynay.vn, truy cập ngày 21-03-2025.
(5) Vi Thảo: Những con số ấn tượng trong Tuần lễ Festival nghệ thuật quốc tế Huế 2024, https://dantri.com.vn, truy cập ngày 21-03-2025.
(6) Liên Minh: Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đoạt giải thưởng Chuyển đổi số Việt Nam 2024, https://huengaynay.vn, truy cập ngày 21-03-2025.
(7) Hữu Phúc: Sinh viên ra trường làm việc trái ngành: Muôn vàn lý do, https://huengaynay.vn, truy cập ngày 21-03-2025.
(8) Đức Quang: Tăng tự tin cho sinh viên, https://huengaynay.vn, /truy cập ngày 21-03-2025.
(9) Addison, Alonzo. (2001). Virtual Heritage: Technology in the Service of Culture. 343-354. 10.1145/584993.585055.
(10) Wankar, M. (2022). Innovative approaches to heritage preservation: CSR and the built heritage of Delhi. Kurdish Studies, 10(1), 79–84. https://doi.org/10.53555/ks.v10i1.3208
(11) Mason, A. R. (2025). The Heritage Sustainability Index: A tool to benchmark corporate safeguard policies and practices for the protection of cultural heritage. Heritage, 8, Article 96. https://doi.org/10.3390/heritage8030096