Trang chủ    Ảnh chính    Về một số quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay
Thứ hai, 14 Tháng 3 2016 16:48
5215 Lượt xem

Về một số quan điểm xuyên tạc, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin hiện nay

(LLCT) - Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Hiến pháp năm 2013 và nhiều văn kiện các đại hội Đảng đã khẳng định: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động”. Sự khẳng định đó phù hợp với thực tiễn cách mạng Việt Nam hơn 85 năm qua dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng yêu cầu cán bộ, đảng viên phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, vận dụng sáng tạo và phát triển phù hợp với thực tiễn Việt Nam. Tuy nhiên, trong thời gian gần đây, xuất hiện trên mạng internet và một số ấn phẩm in, tán phát những quan điểm sai trái, xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin để từ đó phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin và con đường xây dựng CNXH ở nước ta.

1. Quan điểm quy chủ nghĩa Mác - Lênin về tư tưởng “Đấu tranh giai cấp là động lực phát triển xã hội”

Như chúng ta biết, phát hiện ra vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp không phải là công lao của Mác. Trong thư gửi Vâyđơmaiơ ngày 5-3-1852, Mác viết: “...Tôi không có công lao là đã phát hiện ra sự tồn tại của các giai cấp trong xã hội hiện đại, cũng không có công lao là đã phát hiện ra cuộc đấu tranh giữa các giai cấp với nhau. Các nhà sử học tư sản trước tôi rất lâu đã trình bày sự phát triển lịch sử của cuộc đấu tranh giai cấp đó, còn các nhà kinh tế học tư sản thì đã trình bày sự giải phẫu kinh tế của các giai cấp. Cái mới mà tôi đã làm là chứng minh rằng: (1) sự tồn tại của các giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn phát triển lịch sử nhất định của sản xuất, (2) đấu tranh giai cấp tất yếu dẫn đến chuyên chính vô sản, (3) bản thân nền chuyên chính này chỉ là bước quá độ tiến tới thủ tiêu mọi giai cấp và tiến tới xã hội không có giai cấp”(1).

Như vậy, Mác không coi đấu tranh giai cấp là động lực phát triển của xã hội nói chung như một số người quan niệm, mà chỉ là một động lực phát triển của xã hội có đối kháng giai cấpmà thôi. Trong xã hội cộng sản nguyên thủy chưa có giai cấp nên chưa có đấu tranh giai cấp, và sau này trong tương lai khi xã hội không còn phân chia giai cấp nữa thì cũng không còn đấu tranh giai cấp. Nghĩa là Mác khẳng định, đấu tranh giai cấp chỉ gắn với những giai đoạn lịch sử nhất định của sự phát triển xã hội.

Quan điểm khoa học về giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác không phải là áp đặt, bịa đặt mà phản ánh một thực tế khách quan trong xã hội có phân chia giai cấp, đó là sự đối kháng giữa các giai cấp: bóc lột và bị bóc lột, thống trị và bị trị, áp bức và bị áp bức. Do đó, đấu tranh giai cấp trong các xã hội này là tất yếu khách quan, góp phần thúc đẩy xã hội vận động, phát triển lên hình thái cao hơn.

Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác không bao giờ coi đấu tranh giai cấp là động lực duy nhấttrong xã hội có giai cấp. Ngoài động lực này, như Mác đã từng chỉ ra, còn một loạt những động lực khác như nhu cầu, lợi ích, lý tưởng, khoa học - kỹ thuật, v.v.. Vì vậy, không nên cường điệu động lực đấu tranh giai cấp.

Đồng thời, việc nhận thức và giải quyết vấn đề giai cấp và đấu tranh giai cấp phải phù hợp với tình hình thực tiễn, điều kiện lịch sử - cụ thể của mỗi quốc gia dân tộc và phù hợp với từng giai đoạn của cách mạng. Trước đây khi phân tích so sánh về đấu tranh giai cấp ở các nước phương Tây và phương Đông, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cho rằng ở phương Tây đấu tranh giai cấp rất quyết liệt, còn ở phương Đông, những nước như “Ấn Độ hay Trung Quốc về mặt cấu trúc kinh tế, không giống các xã hội phương Tây thời Trung cổ, cũng như thời cận đại, và đấu tranh giai cấp ở đó không quyết liệt như ở đây”(2). Đối với Việt Nam cũng vậy, nước ta là một xã hội phương Đông cổ truyền, nông nghiệp lạc hậu, hơn 90% là nông dân, phân hóa giai cấp chưa sâu sắc. Từ khi thực dân Pháp xâm lược nước ta, yêu cầu đoàn kết dân tộc nổi lên hàng đầu để tập hợp các lực lượng, các giai cấp, các tầng lớp trong xã hội để thực hiện nhiệm vụ cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, Hồ Chí Minh đã phê phán quan điểm giáo điều của một số người về đấu tranh giai cấp ở Việt Nam: “nghe người ta nói giai cấp đấu tranh, mình cũng ra khẩu hiệu giai cấp đấu tranh, mà không xét hoàn cảnh nước mình như thế nào để làm cho đúng”(3).

Ở đây không được lẫn lộn quan điểm khoa học về đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm hữu khuynh phủ nhận đấu tranh giai cấp hoặc quan điểm tả khuynh cường điệu đấu tranh giai cấp, thiên về trấn áp bạo lực, hoặc mượn danh đấu tranh giai cấp để đấu tố, trấn áp những người không ăn cánh, không theo đường lối của mình, có tính chất bè phái như đã từng xảy ra ở một số nước XHCN trước đây.

Trong thời kỳ đổi mới, Đảng ta đã có những nhận thức mới về chuyên chính vô sản và đấu tranh giai cấp. Hội nghị Trung ương 6 khóa VI (3-1989), lần đầu tiên sử dụng khái niệm “hệ thống chính trị” thay cho khái niệm “hệ thống chuyên chính vô sản”. Từ đó đến nay, trong Cương lĩnh năm 1991 và Cương lĩnh năm 2011, trong các văn kiện từ Đại hội VII đến Đại hội XI đều không sử dụng thuật ngữ chuyên chính vô sản. Đây là một bước tiến về nhận thức, phù hợp hơn với điều kiện tình hình mới.

Về đấu tranh giai cấp, Đại hội IX của Đảng nhận định, cùng với những biến đổi to lớn về kinh tế, xã hội thì cơ cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều. Mối quan hệ giữa các giai cấp, các tầng lớp xã hội là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc dưới sự lãnh đạo của Đảng. Nội dung chủ yếu của đấu tranh giai cấp trong giai đoạn hiện nay là thực thiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH theo định hướng XHCN, khắc phục tình trạng nước nghèo, kém phát triển, thực hiện công bằng xã hội, chống áp bức, bất công; đấu tranh ngăn chặn và khắc phục những tư tưởng và hành động tiêu cực; đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của các thế lực thù địch; bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng nước ta thành một nước XHCN phồn vinh, nhân dân hạnh phúc.

Đại hội IX cũng xác định động lực chủ yếuđể phát triển đất nước là đại đoàn kết toàn dân tộc trên cơ sở liên minh giữa công nhân với nông dân và trí thức do Đảng lãnh đạo, kết hợp hài hòa các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, phát huy mọi tiềm năng và nguồn lực của các thành phần kinh tế của toàn xã hội.

Như vậy, Đảng ta không phủ nhận đấu tranh giai cấp trong thời kỳ quá độ, song quan niệm đấu tranh giai cấp cũng như động lực phát triển đất nước phù hợp hơn với sự thay đổi về kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước, với nhiệm vụ của cách mạng trong thời kỳ đổi mới.

2. Về cái gọi là “chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan thể hiện dưới hình thức chủ nghĩa Mác - Lênin”

Quan điểm này đem quy chủ nghĩa Mác - Lênin về chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan, đối lập với tư tưởng “đoàn kết và thống nhất của Hồ Chí Minh”.

Đây là sự quy chụp, áp đặt cho chủ nghĩa Mác - Lênin một cách vô căn cứ, vu khống, bịa đặt. Bởi vì chia rẽ, cực đoan không phải là bản chất của  chủ nghĩa Mác - Lênin mà đó là tư tưởng và hành động sai lầm của những người theo chủ nghĩa chia rẽ, bè phái, tả khuynh hoặc hữu khuynh... Chủ nghĩa Mác - Lênin là một hệ thống các nguyên lý, quy luật khoa học phản ánh những quy luật khách quan của thế giới, dựa trên phương pháp biện chứng duy vật với các quan điểm khách quan, toàn diện, phát triển, lịch sử - cụ thể và thực tiễn chứ không phải dựa trên chia rẽ và cực đoan, phiến diện, không thể đồng nhất, lẫn lộn những sai lầm đó với chủ nghĩa Mác - Lênin.

Trên thực tế, như chúng ta biết, Mác, Ăngghen, Lênin luôn nêu cao tinh thần đoàn kết, thống nhất trong phong trào cách mạng. Trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản, Mác và Ăngghen đã đưa ra khẩu hiệu “vô sản toàn thế giới hãy đoàn kết lại!”. Về sau này Lênin bổ sung thêm: “Vô sản toàn thế giới và các dân tộc bị áp bức hãy đoàn kết lại”. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, xây dựng các chính đảng cách mạng, Mác, Ăngghen, Lênin đều yêu cầu phải đoàn kết, thống nhất để tạo thành sức mạnh của tổ chức cách mạng. Lênin coi giữ gìn sự đoàn kết trong Đảng Cộng sản như giữ gìn con ngươi của mắt mình.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn giương cao ngọn cờ đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế, đoàn kết toàn dân, đoàn kết toàn Đảng. Thực tiễn cách mạng Việt Nam cho thấy khi nào đoàn kết thì thắng lợi, chia rẽ là thất bại. Đảng đấu tranh chống lại tư tưởng và hành động cực đoan, phiến diện, duy ý chí, chia rẽ, bè phái. Coi chia rẽ, bè phái là một trong những tội nặng nhất, làm phá hoại tổ chức đảng. Tổng kết 80 năm lãnh đạo cách mạng Việt Nam, Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đã đúc rút bài học quan trọng: “Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết: đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”. Đảng cũng khẳng định, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc là động lực chủ yếu, là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam.

Có ý kiến cho rằng “ngày nay chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan làm cho Việt Nam hòa bình đã 40 năm, song vẫn còn bị chia rẽ”.

Ý kiến trên đây là cực đoan, võ đoán, bất chấp thực tế lịch sử. Trước kia đất nước bị chia cắt làm hai miền với hai chế độ chính trị - xã hội khác nhau là do sự xâm lược của đế quốc Mỹ muốn xâm chiếm Việt Nam, chia cắt đất nước ta. Để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, nhân dân ta phải tiến hành cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trong suốt 21 năm. Đến ngày 30-4-1975 với Chiến dịch Hồ Chí Minh đại thắng, miền Nam được hoàn toàn giải phóng, đất nước được hòa bình, thống nhất, không còn bị chia rẽ. Đối với những người đã từng tham gia chế độ cũ trước đây, đường lối của Đảng và Nhà nước ta là khép lại quá khứ, hướng tới tương lai, lấy lợi ích của Tổ quốc, của dân tộc làm mẫu số chung để đoàn kết toàn dân, lấy dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh làm mục tiêu chung, làm điểm tương đồng; xóa bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những người có ý kiến khác, chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; thực hiện hòa hợp dân tộc, đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan dung… để tăng cường đồng thuận xã hội, tập hợp đoàn kết mọi người vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Chỉ có những người nào sau 40 năm giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước rồi nhưng vẫn ôm mối hận thù dân tộc, vẫn bị định kiến chi phối, không vượt qua được sự mặc cảm của quá khứ mới tách mình ra khỏi dân tộc, thậm chí tìm cách chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Một bộ phận nhỏ người Việt ở nước ngoài do thiếu thông tin khách quan, trung thực về tình hình trong nước, vẫn ôm hận thù, chống phá Đảng và Nhà nước ta, vu khống Việt Nam đàn áp tôn giáo, dân tộc thiểu số, vi phạm dân chủ, nhân quyền, vận động các thế lực thù địch tiếp tục chống phá Việt Nam. Chính những người này mới là lực lượng theo chủ nghĩa chia rẽ và cực đoan.

3. Về quan điểm coi “Đảng lãnh đạo mắc sai lầm trong việc kiên định quá lâu mô hình xã hội chủ nghĩa kiểu Xôviết, một mô hình lạc hậu của một hệ thống tư tưởng lỗi thời và từ lâu đã bị xếp vào kho tàng lịch sử, làm cho Việt Nam tuy đã có 40 năm hòa bình, thống nhất, song đến nay vẫn trì trệ, suy thoái, “hiện đang bên bờ khủng hoảng”.

Quan điểm này thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, phủ nhận con đường xây dựng CNXH của nước ta, phủ nhận những thành tựu của nước ta sau 30 năm đổi mới.

Trước hết, phải khẳng định quan điểm cho rằng Việt Nam kiên định quá lâu mô hình CNXH Xôviết là không đúng thực tế. Với công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay, Đảng ta đã từ bỏ mô hình này, một mô hình có nhiều khuyết tật, dựa trên cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, phủ nhận kinh tế thị trường, triệt tiêu nhiều động lực phát triển đất nước… Đảng ta đã tự phê bình sai lầm giáo điều trong việc áp dụng mô hình Liên Xô trước đây. Đảng đã tiến hành đường lối đổi mới, đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn để xây dựng mô hình CNXH của Việt Nam. Cương lĩnh năm 2011 của Đảng đã xác định 8 đặc trưng của xã hội XHCN Việt Nam, 8 phương hướng cơ bản và 8 mối quan hệ lớn cần nắm vững là sự khái quát lý luận về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Lý luận đó cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết, bổ sung và phát triển để đáp ứng được yêu cầu của thực tiễn cách mạng.

Chủ nghĩa Mác - Lênin ngày nay vẫn là học thuyết tiên tiến của loài người, điều đó không chỉ những người mácxít thừa nhận mà cả một số học giả tư sản cũng thừa nhận. Thí dụ, Giắc Đêriđa, nhà triết học nổi tiếng người Pháp coi Mác không chỉ là nhà tư tưởng của thế kỷ XX mà còn là nhà tư tưởng của thế kỷ XXI, ông khẳng định nhân loại không thể thiếu Mác được. Chương trình Thời đại chúng tatrên sóng phát thanh radio 4 của đài BBC tại Anh tổ chức thăm dò với 3 vạn phiếu phát ra. Kết quả trong số 20 triết gia vĩ đại được đưa ra để lựa chọn, C.Mác được chọn là triết gia vĩ đại nhất của nhân loại từ trước đến nay bởi những cống hiến khoa học xuất sắc của ông. Giáo sư trường Đại học tổng hợp Lancaste (Vương quốc Anh) Terry Eagleton trong tác phẩm “Tại sao Mác đúng?” vẫn khẳng định tính đúng đắn của những quan điểm của Mác trong điều kiện thế giới ngày nay, ông phản bác ý kiến cho rằng “chủ nghĩa Mác đã chết và không còn nhắc đến nữa”. Ở các nước XHCN như Việt Nam, Trung Quốc, CuBa, Lào và ở nhiều Đảng Cộng sản và công nhân trên thế giới như Đảng Cộng sản Liên bang Nga, Đảng Cộng sản Pháp, Đảng Cộng sản Nhật Bản… vẫn khẳng định vai trò của chủ nghĩa Mác, CNXH khoa học.

Khi đánh giá chủ nghĩa Mác - Lênin, cần phân biệt những giá trị bền vững của những nguyên lý cơ bản của nó với một số luận điểm cụ thể của Mác, Ăngghen, Lênin đúng trong thời đại của các ông nhưng đã bị lịch sử vượt qua trong điều kiện mới của thời đại, nhất là không được lẫn lộn chủ nghĩa Mác - Lênin với những nhận thức sai và làm trái với chủ nghĩa Mác - Lênin của những người lãnh đạo của đảng này hay đảng khác, ở nước XHCN này hay nước XHCN khác. Cần phân biệt chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm chủ nghĩa xét lại, cơ hội giả danh mácxít, cố tình xuyên tạc, vu khống chủ nghĩa Mác - Lênin để chống chủ nghĩa Mác - Lênin.

Cần nhận thức rõ rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin là một học thuyết mang bản chất cách mạng và khoa học, nó không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động, nó không phải nhất thành bất biến. Vì vậy, phải vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin cho phù hợp với thời đại, với điều kiện lịch sử mỗi nước, mỗi giai đoạn. Lênin đã từng nói áp dụng chủ nghĩa Mác ở Nga phải khác với ở Đức, Anh, Pháp...; vì chân lý luôn luôn là cụ thể nên cách mạng phải sáng tạo. Phân tích cụ thể mỗi tình hình cụ thể là bản chất, linh hồn sống của chủ nghĩa Mác.

Đối với cách mạng Việt Nam, vai trò to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin đã được khẳng định trong hơn 85 năm lãnh đạo cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam. Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc chỉ khi đến được với chủ nghĩa Mác - Lênin mới tìm thấy con đường cứu nước, giải phóng dân tộc. Năm 1920 khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy “đây là cái cần thiết cho chúng ta, đây là con đường giải phóng chúng ta”(4). Trong cuốn Đường Kách mệnh, Nguyễn Ái Quốc viết rằng, bây giờ chủ nghĩa nhiều, học thuyết nhiều nhưngchủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhấn, cách mạng nhất là chủ nghĩa Lênin. Về sau trong nhiều tác phẩm, bài diễn văn của mình, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định vai trò chủ nghĩa Mác - Lênin và yêu cầu học tập, tu dưỡng và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin. Người coi chủ nghĩa Mác - Lênin là “cái cẩm nang” thần kỳ, “kim chỉ nam” cho cách mạng Việt Nam. Người viết: “Đảng ta nhờ kết hợp được chủ nghĩa Mác - Lênin với tình hình thực tế của nước ta, cho nên đã thu được nhiều thắng lợi trong công tác”(5); “Học tập chủ nghĩa Mác - Lênin... là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta”(6); “Chúng ta phải nâng cao sự tu dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin để dùng lập trường, quan điểm, phương pháp chủ nghĩa Mác - Lênin mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn những đặc điểm của nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích hợp với tình hình nước ta”(7).

Việc đem đối lập tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin để phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin là sai lầm về quan điểm và phương pháp về lịch sử và lôgíc. Bởi vì, về mặt lịch sử, tư tưởng Hồ Chí Minh có cội nguồn và được hình thành từ các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tinh hoa văn hóa của nhân loại mà đỉnh cao là chủ nghĩa Mác - Lênin thông qua hoạt động trí tuệ và thực tiễn của Người. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là nguồn gốc lý luận, là cơ sở chủ yếu nhất hình thành và phát triển tư tưởng Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh đã vận dụng lập trường quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để nghiên cứu thực tiễn và tìm ra con đường cách mạng Việt Nam, vượt lên trước những nhà yêu nước đương thời, khắc phục được sự khủng hoảng về con đường tiến lên của dân tộc Việt Nam. Tư tưởng Hồ Chí Minh chính là sự vận dụng sáng tạo, phát triển và làm phong phú chủ nghĩa Mác - Lênin trong thời đại mới. Như vậy, về mặt lôgíc, về bản chất, tư tưởng Hồ Chí Minh thống nhất với chủ nghĩa Mác - Lênin chứ không có sự đối lập với chủ nghĩa Mác - Lênin như một số người tưởng tượng ra. Và do đó cũng không có cái gọi là “cuộc nội chiến về tư tưởng giữa tư tưởng Hồ Chí Minh và chủ nghĩa Mác - Lênin” từ năm 1930 đến nay ở Việt Nam như một số người nhận định. Hồ Chí Minh là người đã vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể của Việt Nam. Nhờ vậy, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã đề ra đường lối cách mạng đúng đắn, sáng tạo, đưa cách mạng đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

Vì vậy, Cương lĩnh năm 2011 khẳng định: “Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh”(8).

Còn ý kiến cho rằng, sau 40 năm giải phóng đến nay đất nước vẫn trì trệ, suy thoái, hiện đang bên bờ khủng hoảng .

Nói như vậy là nhắm mắt trước thực tế, bất chấp lịch sử, võ đoán, nói lấy được, không khách quan.

Sau 30 năm đổi mới, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và tình trạng kém phát triển, trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình, đang đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng XHCN từng bước được hình thành, phát triển. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng an ninh được tăng cường. Văn hóa, xã hội có bước phát triển, bộ mặt đất nước và đời sống nhân dân có nhiều thay đổi. Dân chủ XHCN được phát huy và ngày càng mở rộng. Đại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN và hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Sức mạnh mọi mặt của đất nước được tăng lên; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ và chế độ XHCN được giữ vững. Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng và đi vào chiều sâu; vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế được nâng cao.

Những thành tựu đó tạo tiền đề quan trọng để nước ta tiếp tục phát triển trong những năm tới, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Những thành tựu đó khẳng định đường lối đổi mới của Đảng là đúng đắn, sáng tạo, được nhân dân thừa nhận và bạn bè quốc tế đánh giá cao.

Tuy nhiên, bên cạnh đó, đất nước ta cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, còn nhiều hạn chế, yếu kém phải khắc phục, phấn đấu nỗ lực để vượt qua, tận dụng thời cơ, đẩy lùi thách thức, biến thách thức thành cơ hội phát triển đất nước nhanh và bền vững theo con đường XHCN r

________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luân chính trị số 6-2015

(1) C.Mác và Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.28, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr.661-662.

(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.1, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.509.

(3)  Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.5, tr.312.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.10, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.127.

(5), (6), (7) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.97, 611, 92.

(8) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.6.

 

GS, TS Lê Hữu Nghĩa

Phó Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền