Trang chủ    Ảnh chính    Đấu tranh phản bác sự xuyên tạc những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
Thứ ba, 28 Tháng 3 2023 14:03
2540 Lượt xem

Đấu tranh phản bác sự xuyên tạc những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

(LLCT) - Bài viết góp phần nhận diện những quan điểm sai trái, xuyên tạc nhằm phủ nhận những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh của các thế lực thù địch. Trên cơ sở đó, đưa ra những luận cứ khoa học để vạch trần và bác bỏ những luận điệu giả danh “khoa học”, giả danh “cách mạng” của các phần tử cơ hội, phản động.

 

Nhiệm vụ của những người mácxít chân chính là phải làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng - Ảnh minh họa: dangcongsan.vn

Trong tình hình hiện nay, khi chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đang bị các thế lực thù địch xuyên tạc, bôi nhọ, công kích từ nhiều phía, nhiệm vụ của những người mácxít chân chính là phải làm rõ những giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ nhất, có ý kiến cho rằng, chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với bối cảnh lịch sử - xã hội của châu Âu ở thế kỷ XIX; bởi theo họ, trong một chừng mực nhất định, “chủ nghĩa Mác - Lênin chỉ phù hợp với trình độ, lực lượng sản xuất và văn hóa Nga, không phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh lịch sử của thế kỷ XXI”. Từ đó họ cho rằng “chủ nghĩa Mác - Lênin đã lỗi thời”.

Thừa nhận là, thực tiễn hiện nay đã có nhiều đổi thay so với thời đại của các nhà sáng lập chủ nghĩa Mác - Lênin; bên cạnh đó, có một số luận điểm cụ thể của chủ nghĩa Mác - Lênin đã bị thực tiễn lịch sử vượt qua. Song, cho dù với sự phát triển của khoa học - công nghệ và trình độ nhận thức của con người, một số quan điểm lý luận cần phải nhận thức lại, thì linh hồn sống của chủ nghĩa Mác - Lênin với phương pháp biện chứng duy vật và duy vật lịch sử vẫn giữ nguyên bản chất cách mạng, khoa học.

Chủ nghĩa duy vật lịch sử là thành quả vĩ đại bậc nhất trong lịch sử tư tưởng nhân loại, được xem là một trong những phát minh vượt thời đại. V.I.Lênin đã chỉ rõ, triết học Mác ra đời đã khắc phục được “hai cái quên” lớn nhất của lịch sử tư tưởng nhân loại: quên điểm xuất phát là hiện thực khách quan của chủ nghĩa duy tâm đủ mọi loại và quên vai trò tích cực của chủ thể là con người của chủ nghĩa duy vật siêu hình.

Ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác - Lênin tương ứng với ba bộ phận, ba nguồn gốc hình thành: Triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị tư sản Anh và chủ nghĩa xã hội không tưởng Pháp. Ngoài ra, chủ nghĩa Mác - Lênin còn chứa đựng nhiều tri thức khoa học thuộc nhiều ngành khác nhau: Chính trị học, xã hội học, đạo đức học, lịch sử, văn hóa và khoa học dự báo... về quy luật vận động, phát triển của con người và xã hội loài người.

Chủ nghĩa Mác - Lênin giúp nhân loại lựa chọn điều cần và phải đi con đường dẫn tới xã hội không có người bóc lột người, một xã hội tự do, bình đẳng, bác ái. Trong cuốn sách Tại sao Mác đúng(1), Giáo sư Terry Eagleton (Trường Đại học Tổng hợp Lancaste Vương quốc Anh) đã khẳng định cách tiếp cận của C.Mác là cách xem xét tốt nhất đối với chủ nghĩa tư bản. Terry Eagleton cho rằng, những phê phán chủ nghĩa Mác - Lênin là “lạc hậu”, “không còn phù hợp” đó là những phê phán bộc lộ sự thiếu hiểu biết, non kém về lý luận, cách nhìn phiến diện, chụp mũ. Terry Eagleton khẳng định, từ khi ra đời và trong quá trình phát triển, chủ nghĩa Mác - Lênin luôn là sự phê phán quyết liệt nhất về mặt lý luận, phong phú nhất về mặt thực tiễn, không khoan nhượng nhất về mặt chính trị đối với hệ thống tư bản chủ nghĩa. Cho đến nay về cơ bản: chủ nghĩa Mác - Lênin vẫn đúng.

Thứ hai, về một số quan điểm cho rằng “Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác đã lỗi thời”, vì theo họ “chủ nghĩa tư bản hiện đại đã thay đổi bản chất, không còn là chế độ bóc lột nữa”. Tất nhiên, những người chống đối chủ nghĩa Mác không đưa ra được cơ sở lý luận thật sự khoa học và thuyết phục. Bởi việc phát hiện ra Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác là dựa trên cơ sở Học thuyết giá trị lao động, mà trực tiếp là việc phát hiện ra “tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa”, “lao động cụ thể và lao động trừu tượng”. Lao động cụ thể tạo ra giá trị sử dụng của hàng hóa, là điều kiện không thể thiếu trong bất kỳ hình thái kinh tế - xã hội nào. Lao động trừu tượng là lao động của người sản xuất hàng hóa sẽ tạo ra giá trị của hàng hóa. Chỉ có lao động sống mới tạo ra giá trị của hàng hóa, tạo ra giá trị thặng dư.

Giá trị thặng dư là phần giá trị mới dôi ra ngoài giá trị sức lao động do người lao động làm ra bị nhà tư bản chiếm không. Giá trị thặng dư là quy luật kinh tế tuyệt đối của phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Không có giá trị thặng dư thì không có chủ nghĩa tư bản.

C.Mác đã vạch rõ mục đích của nền sản xuất tư bản, vạch trần bản chất bóc lột của chế độ tư bản - thủ phạm cầm tù nhân dân lao động của giai cấp tư sản, kẻ chà đạp lên tự do, độc lập của các quốc gia, dân tộc trên thế giới. Đây là nguồn gốc của mâu thuẫn cơ bản trong xã hội tư bản.

Chừng nào còn chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất, còn hàng hóa sức lao động, thì chừng đó Học thuyết giá trị thặng dư của C.Mác vẫn còn nguyên giá trị. Bởi vì, nhìn về mặt bản chất, chủ nghĩa tư bản hiện đại tuy có những điều chỉnh nhất định về hình thức sở hữu, về quản lý và phân phối... để thích nghi với điều kiện mới, nhưng sự thống trị của chủ nghĩa tư bản tư nhân vẫn tồn tại, thì bản chất bóc lột vẫn không thay đổi. Nhà nước tư bản - về cơ bản vẫn là bộ máy thống trị của giai cấp tư sản. Cho dù có một bộ phận công nhân có mức sống khá sung túc, song họ vẫn phải bán sức lao động và vẫn bị nhà tư bản bóc lột giá trị thặng dư, chỉ có điều: hình thức bóc lột tinh vi hơn.

Phải nhìn nhận rõ, trong điều kiện hiện nay sản xuất giá trị thặng dư có những điểm mới, do áp dụng rộng rãi khoa học - công nghệ hiện đại, nên khối lượng giá trị thặng dư tạo ra chủ yếu nhờ tăng năng suất lao động, chi phí lao động sống cho một đơn vị sản phẩm giảm nhanh; cơ cấu lao động xã hội có sự biến đổi lớn, hàm lượng chất xám chiếm khá cao trong giá trị sản phẩm; lao động trí tuệ tăng, ngày càng có vai trò quyết định trong việc sản xuất ra giá trị thặng dư. Chính vì vậy, tỷ suất và khối lượng giá trị thặng dư tăng lên rất nhiều.

Sự bóc lột của các nước tư bản phát triển trên phạm vi quốc tế ngày càng mở rộng dưới nhiều hình thức, như xuất khẩu tư bản và hàng hóa, trao đổi không ngang giá... nhằm bóc lột, bòn rút từ các nước kém phát triển, mang lại lợi nhuận siêu ngạch cho các nước tư bản. Sự cách biệt giàu và nghèo ngày càng tăng.

Dù có điều chỉnh đến đâu thì các mâu thuẫn cơ bản trong xã hội vẫn ngày càng trầm trọng, bởi nó thể hiện bản chất của chủ nghĩa tư bản, đó là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất và tính chất tư hữu ngày càng tăng của chiếm hữu tư liệu sản xuất; mâu thuẫn giữa tư bản và lao động làm thuê, mâu thuẫn giữa các nước đang phát triển, chậm phát triển và các nước tư bản phát triển, mâu thuẫn trong nội bộ các nước tư bản với nhau v.v..

Dù hình thức bóc lột có biến tướng, tinh vi đến mức nào chăng nữa thì bản chất bóc lột của tư bản đối với lao động vẫn là bóc lột giá trị thặng dư - tức là bóc lột lao động sống. Do vậy, Học thuyết giá trị thặng dư vẫn còn nguyên giá trị, chủ nghĩa tư bản vẫn giữ nguyên bản chất bóc lột của nó.

Thứ ba, về sự xuyên tạc, phủ nhận lý luận về “hình thái kinh tế - xã hội” của C.Mác.

Những người chống chủ nghĩa Mác cho rằng, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội chỉ là một lý thuyết về “chủ nghĩa xã hội không tưởng”, không bao giờ thực hiện được; rằng học thuyết hình thái kinh tế - xã hội là “sai lầm”, đã “lỗi thời” vì thực tiễn đã thay đổi; là một hình thức của thuyết “quyết định luận” lịch sử.

Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác dựa trên cơ sở các quan hệ kinh tế hiện thực; các mâu thuẫn hiện thực giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất; giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng; mâu thuẫn giữa các giai cấp đối kháng nhau trong xã hội, trên cơ sở đó đã tìm ra quy luật vận động khách quan của lịch sử xã hội. Sự phát triển của lịch sử xã hội loài người đã minh chứng, sản xuất vật chất là phương thức tồn tại của xã hội loài người, không có sản xuất vật chất thì xã hội loài người không thể tồn tại, vận động và phát triển.

Hơn nữa, lý luận hình thái kinh tế - xã hội của C.Mác có phương pháp tiếp cận toàn diện về xã hội, từ quan hệ của con người đối với tự nhiên, quan hệ của con người đối với con người trong sản xuất vật chất đến các quan hệ xã hội, các quan điểm chính trị, triết học, pháp luật, đạo đức... Sự ra đời của xã hội mới từ trong lòng xã hội cũ là do sự vận động của sản xuất vật chất, của mâu thuẫn giữa lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất, giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, trên cơ sở đó kéo theo sự thay đổi các quan hệ xã hội, các thiết chế xã hội, đặc biệt là do sự phát triển không ngừng của lực lượng sản xuất.

Rõ ràng, cách tiếp cận của C.Mác là biện chứng, khoa học, không thể phủ nhận một cách vô căn cứ.

Thứ tư, về những ý kiến phê phán luận điểm của C.Mác về đấu tranh giai cấp, cách mạng xã hội, thực chất là những quan điểm chống đối chủ nghĩa Mác - Lênin núp dưới danh nghĩa “khoa học, cách mạng”.

Cùng với việc cố tình xuyên tạc và phủ nhận về lịch sử phát triển của xã hội loài người, các thế lực phản động đã xuyên tạc những luận điểm của C.Mác về đấu tranh giai cấp, về cách mạng xã hội.

Họ cho rằng, C.Mác đã “làm nghèo đi những hình thức tiến hóa của xã hội, khuyến khích thù hận, mâu thuẫn, đấu tranh giai cấp liên miên”. Dựa vào một số cải cách ở các nước tư bản, nhất là dựa vào các mô hình xã hội dân chủ ở Bắc Âu, họ cho rằng từ chủ nghĩa tư bản tiến sang chủ nghĩa xã hội không nhất thiết phải thông qua cách mạng xã hội mà cứ để cho nó phát triển tự nhiên, thông qua việc mở rộng dân chủ, đấu tranh nghị trường để nhân dân tự lựa chọn chế độ chính trị.

Bám vào quan điểm về đấu tranh giai cấp, chúng bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin về vấn đề con người, các thế lực thù địch lớn tiếng rêu rao: “chủ nghĩa Mác - Lênin đã bỏ rơi con người”; “chủ nghĩa cộng sản là chủ nghĩa tam vô”(2)...

Họ đã cố tính lờ đi hoặc cố tình bỏ qua, khi vấn đề con người là một trong những phạm trù trung tâm của chủ nghĩa Mác - Lênin. Chủ nghĩa Mác luôn khẳng định “con người vừa là xuất phát điểm, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của sự phát triển”. Một trong những điểm khác nhau căn bản của chủ nghĩa Mác - Lênin với các trào lưu tư tưởng khác, đó là chủ nghĩa Mác - Lênin không có mục đích nào khác ngoài mục đích giải phóng triệt để con người khỏi mọi hình thức người nô dịch người, người áp bức người, người bóc lột người. Con người ở đây không phải là một thiểu số có địa vị đặc biệt trong xã hội, mà là quần chúng nhân dân, là cộng đồng xã hội, vừa là mỗi cá nhân trong cộng đồng ấy.

Mục tiêu của chủ nghĩa Mác - Lênin là giải phóng con người, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện, con người làm chủ đất nước, xã hội và bản thân. Với chủ nghĩa Mác - Lênin, phát triển kinh tế - xã hội cũng là vì con người, nhằm phục vụ con người.

Thứ năm, một số ý kiến phủ nhận mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; mượn danh nghĩa “phê phán”, nhằm xuyên tạc  chủ nghĩa xã hội hiện thực, bác bỏ con đường xã hội chủ nghĩa, công khai ca ngợi con đường tư bản chủ nghĩa.

Họ xuyên tạc rằng “chủ nghĩa xã hội chỉ là ảo tưởng không bao giờ thực hiện được, bởi nó được dựng lên từ một “hệ thống triết học tư biện” chứ không phải từ “hiện thực khách quan”; rằng sẽ “không có một xã hội hoàn hảo như chủ nghĩa Mác - Lênin đặt ra”; rằng “chủ nghĩa Mác là một giấc mơ về xã hội không tưởng”... Lợi dụng sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và ở các nước Đông Âu, họ phủ nhận những thành quả cách mạng của nhân dân các nước đó, để rồi “phán quyết” sự tan rã của Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu là một tất yếu. Từ đó vội vàng kết luận: “chủ nghĩa xã hội chỉ là một lý thuyết của một học thuyết chưa được chứng thực, nếu có chỉ là sự thất bại và đổ vỡ”.

Tuy nhiên, như chúng ta đã biết, chủ nghĩa xã hội dựa trên quan điểm của học thuyết Mác - Lênin không phải là “hệ thống lý luận tư biện” và càng không phải “phi hiện thực khách quan”, mà được hình thành từ cơ sở lý luận - thực tiễn trong tiến trình phát triển của lịch sử xã hội loài người. Bởi vậy, học thuyết Mác về chủ nghĩa xã hội đã chỉ ra cơ sở và bản chất, quy luật vận động của sự vật, hiện tượng trong mối quan hệ của nó, từ đó tìm ra các thuộc tính chung của sự vật, hiện tượng.

Cụ thể, học thuyết Mác ra đời dựa trên những điều kiện kinh tế - xã hội của châu Âu, kết hợp giữa lý luận và thực tiễn, C.Mác, Ph.Ăngghen đã tìm ra được quy luật vận động của xã hội loài người.

Một trong những cống hiến to lớn của chủ nghĩa Mác - Lênin là đã phát hiện ra sự thật lịch sử: “Không phải ý thức của con người quyết định tồn tại của họ; trái lại tồn tại xã hội của họ quyết định ý thức của họ”(3). Đây chính là điểm xuất phát có tính nguyên tắc để nhận thức và giải thích toàn bộ lịch sử nhân loại trên lập trường duy vật biện chứng.

Với điểm xuất phát đó, các nhà kinh điển đã từng bước tìm ra cấu trúc và quy luật vận động, phát triển của xã hội loài người, rút ra những kết luận có tính tất yếu về sự ra đời, diệt vong, thay thế của những hình thái kinh tế - xã hội nhất định.

Cho đến nay, mặc dù hệ thống xã hội chủ nghĩa mô hình Xô viết đã tan rã, nhưng không ai có thể phủ nhận sự tồn tại khách quan và tính ưu việt của nó. Những thành tựu bước đầu trong công cuộc cải cách ở Trung Quốc, đổi mới ở Việt Nam... đang chứng minh cho sức sống và giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin.

Thứ sáu, cùng với việc xuyên tạc chủ nghĩa Mác - Lênin, những người có thái độ thù địch với cách mạng Việt Nam còn đang cố tình bôi nhọ, xuyên tạc tiểu sử, thân thế sự nghiệp và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm thực hiện chiến lược “diễn biến hòa bình”, và “hạ bệ thần tượng Hồ Chí Minh”.

Họ cho rằng, “Hồ Chí Minh du nhập chủ nghĩa Mác - Lênin vào Việt Nam là một sai lầm lịch sử, chỉ đưa đến tai họa”. Họ lý giải: “chủ nghĩa Mác - Lênin là tư tưởng ngoại lai, xa lạ với truyền thống dân tộc”; rằng lý luận Mác - Lênin chỉ giải quyết “vấn đề đấu tranh giai cấp”; “không thể áp đặt mẫu học thuyết Mác - Lênin vào Việt Nam”, nhất là trong bối cảnh hiện nay, Việt Nam đang thực hiện “kinh tế thị trường”. Thâm độc hơn, một số người còn tách rời tư tưởng Hồ Chí Minh với chủ nghĩa Mác - Lênin. Đây là một thủ đoạn hết sức tinh vi, vừa phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa xuyên tạc tư tưởng Hồ Chí Minh, phá hoại nền tảng tư tưởng của Đảng.

Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin trước hết từ học thuyết của V.I.Lênin “về cách mạng thuộc địa”. Người tiếp thu, bảo vệ, phát triển học thuyết Mác - Lênin bằng những luận điểm mới.

Sớm nhận thấy khát vọng giải phóng của cả dân tộc và sức mạnh vĩ đại của chủ nghĩa yêu nước trong tất cả các tầng lớp nhân dân, Người kêu gọi cả dân tộc đứng lên “đem sức ta mà tự giải phóng cho ta”(4). Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, cách mạng thuộc địa không những không phụ thuộc vào cách mạng vô sản ở chính quốc, mà có thể và cần phải chủ động tiến hành trước cách mạng vô sản để giành thắng lợi. Đây là một luận điểm sáng tạo, có giá trị lý luận và thực tiễn rất to lớn của Hồ Chí Minh, đã được thực tế cách mạng Việt Nam và phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới trong thế kỷ XX chứng minh là hoàn toàn đúng đắn.

Từ quan điểm giai cấp và đấu tranh giai cấp của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã nhận thức và giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp ở Việt Nam. Người chỉ rõ, quyền lợi của bộ phận (giai cấp) phải phục tùng quyền lợi của tổng thể (dân tộc). Trong sự nghiệp giải phóng ở Việt Nam tr­ước hết phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc. Vấn đề dân tộc độc lập được giải quyết, thì vấn đề giải phóng giai cấp đồng thời cũng đ­ược giải quyết.

Đối với cách mạng Việt Nam, phải tiến hành cách mạng giải phóng dân tộc theo con đ­ường cách mạng vô sản, do Đảng Cộng sản lãnh đạo mới thành công, tiến tới làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhằm triệt để giải phóng con ngư­ời. Đó là sự sáng tạo của Hồ Chí Minh trong tiếp thu, vận dụng và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin vào một n­ước thuộc địa, kém phát triển. Không giáo điều, máy móc khi vận dụng lý luận cách mạng.

Để thực hiện mục tiêu “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội”, phải “phát huy sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại”, tạo nên sức mạnh chiến thắng kẻ thù. Theo Hồ Chí Minh, mục tiêu, con đường của cách mạng Việt Nam là “độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội”, bởi vì chỉ có chủ nghĩa xã hội mới bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc và giải phóng triệt để con người. Độc lập dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh là đất nước hòa bình, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, không phụ thuộc vào n­ước nào, cả về chính trị và về kinh tế, dân tộc tự quyết định con đường phát triển.

Đặc biệt, khi vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin về xây dựng Đảng Cộng sản, trên những nguyên lý cơ bản, Hồ Chí Minh đã đưa ra hệ thống quan điểm chỉ đạo về xây dựng một chính đảng mácxít ở một nước thuộc địa, giai cấp công nhân có số lượng ít, chủ yếu là công nhân khai thác mỏ, đồn điền mà chưa phải công nhân từ nền sản xuất công nghiệp hiện đại như ở phương Tây. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập trên cơ sở lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; phong trào công nhân và phong trào yêu nước - đó là một sáng tạo của Hồ Chí Minh.

Để hoàn thành sứ mệnh lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh quán triệt, Đảng phải tự nâng mình lên hơn nữa sao cho ngang tầm với trí tuệ của thời đại; “Đảng là đạo đức, là văn minh”; mỗi đảng viên phải ra sức trau dồi đạo đức cách mạng, không ngừng tăng cường mối liên hệ với nhân dân, để xứng đáng “vừa là người lãnh đạo, vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân”.

Từ quan điểm “cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, Hồ Chí Minh chủ trương xây dựng lực lượng cách mạng bao gồm tất cả các tầng lớp nhân dân, xây dựng lực lượng toàn dân, nhằm phát huy vai trò và sức mạnh của toàn dân tộc. Dưới sự lãnh đạo của Người, Đảng ta thực hiện chiến lược xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nòng cốt là liên minh công, nông, trí.

Hồ Chí Minh đã tiếp thu, vận dụng, bổ sung và phát triển sáng tạo lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đã được kiểm chứng trong thực tiễn, tuyệt nhiên không phải là “sự vay mượn, chắp vá”, hay “nhập khẩu cách mạng” như ý kiến của các thế lực thù địch đã xuyên tạc.

Hiện nay, cuộc đấu tranh trên mặt trận tư tưởng lý luận diễn ra hết sức phức tạp.  Để làm thất bại chiến lược “diễn biến hòa bình”, các âm mưu và thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt của kẻ thù, tăng cường bảo vệ giá trị bền vững của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mỗi cán bộ, đảng viên phải nâng cao trình độ lý luận chính trị, để trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đấu tranh phản bác những quan điểm sai trái, xuyên tạc của kẻ địch. Đồng thời phải thường xuyên tổng kết thực tiễn, tìm tòi nghiên cứu, phát hiện những vấn đề mới, góp phần bổ sung, phát triển lý luận, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 540 (tháng 02-2023)

Ngày nhận bài: 12-12-2022; Ngày bình duyệt: 08-02-2023; Ngày duyệt đăng: 21-02-2023.

 

(1) Terry Eagleton: Tại sao Mác đúng, Nxb Chính trị Hành chính, Hà Nội, 2012.

(2) Chủ nghĩa tam vô: Vô gia đình, Vô tổ quốc, Vô thần.

(3) C.Mác - Ph.Ăngghen: Toàn tập, t.13, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.15.

(4) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.3, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, tr.596.

PGS, TS TRẦN MINH TRƯỞNG

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

ThS TẠ VĂN SOÁT

Trường Chính trị Đồng Nai

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền