Trang chủ    Ảnh chính    Xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam theo nguyên tắc “dân tộc hóa” của Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943
Thứ ba, 06 Tháng 6 2023 15:18
1160 Lượt xem

Xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam theo nguyên tắc “dân tộc hóa” của Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943

(LLCT) - Trên cơ sở phân tích các nguyên tắc của Đề cương về Văn hóa Việt Nam năm 1943, sự vận dụng các nguyên tắc trong xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, trong đó có văn hóa chính trị, bài viết đề xuất một số giải pháp xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam theo tinh thần “dân tộc hóa” của Đề cương về Văn hóa Việt Nam trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Hình ảnh trong Tuần "Đại đoàn kết dân tộc - Di sản văn hóa Việt Nam" năm 2022 - Ảnh: vov.vn

1. Hội nhập quốc tế và những thách thức đối với việc thực hiện, vận dụng nguyên tắc “dân tộc hóa” trong xây dựng nền văn hóa Việt Nam

Đề cương về Văn hóa Việt Nam ra đời đã được 80 năm (năm 1943), nhưng đến nay vẫn còn nguyên những giá trị, là phương pháp luận định hướng, truyền cảm hứng cho nghiên cứu, xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc nói chung, văn hóa chính trị nói riêng. Đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế hiện nay.

Trong bối cảnh Đảng ta còn hoạt động bí mật, nhân dân ta chưa giành được chính quyền, Chiến tranh thế giới thứ II đang diễn ra khốc liệt, bản Đề cương về Văn hóa Việt Nam đã thể hiện tầm nhìn xuyên thời gian, sự quan tâm đến vận mệnh văn hóa dân tộc của Đảng Cộng sản Đông Dương; đồng thời đặt đúng vị trí của văn hóa trong đời sống xã hội, xác định đúng vai trò lãnh đạo văn hóa trong sứ mệnh lãnh đạo cách mạng của Đảng.

Ba nguyên tắc của Đề cương về Văn hóa, gồm: (1) Dân tộc hóa (chống mọi ảnh hưởng nô dịch và thuộc địa khiến cho văn hóa Việt Nam phát triển độc lập); (2) Đại chúng hóa (chống mọi chủ trương hành động làm cho văn hóa phản lại đông đảo quần chúng hoặc xa đông đảo quần chúng); (3) Khoa học hóa (chống lại tất cả những cái gì làm cho văn hóa trái khoa học, phản tiến bộ).

Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, nhiều quốc gia, trong đó có Việt Nam đang đương đầu với nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế. Nhưng nguyên nhân tụt hậu kinh tế không chỉ nằm trong kinh tế mà còn nằm trong chính trị, ngoại giao và đặc biệt là trong văn hóa; thậm chí nguyên nhân quan trọng nhất lại nằm trong văn hóa - văn hóa hội nhập. Không có văn hóa hội nhập, không thể hội nhập thành công. Cũng như trong các lĩnh vực khác, trong hội nhập quốc tế, văn hóa cũng “soi đường cho quốc dân đi”.

Vì vậy, “dân tộc hóa” văn hóa, theo cách nói của Đề cương về Văn hóa năm 1943, một mặt phải có cách tiếp cận mới về độc lập, chủ quyền, bản sắc và các giá trị văn hóa. Mặt khác, chủ quyền và bản sắc của quốc gia dân tộc không chỉ cần được phát huy, mà còn chủ động, tích cực tham gia định hình các giá trị, chuẩn mực văn hóa hội nhập đối với các khu vực và toàn cầu.

Nhưng, hội nhập quốc tế trong tất cả các lĩnh vực, kể cả văn hóa luôn có hai mặt: tích cực - lợi ích và tiêu cực - bất lợi. Mặt tích cực là giúp cho văn hóa mỗi dân tộc (theo nghĩa quốc gia - dân tộc) luôn phát triển, tiếp nhận được những giá trị tiến bộ của văn hóa các dân tộc khác, làm giàu thêm cho văn hóa của dân tộc mình, quảng bá được văn hóa của mình cho các dân tộc khác. Tuy nhiên, mặt tiêu cực là nguy cơ san bằng và đồng nhất các hệ giá trị, các chuẩn mực văn hóa dân tộc, đe dọa và làm suy kiệt sự phong phú, khả năng sáng tạo của các nền văn hóa dân tộc, dẫn đến nguy cơ tha hóa, vong bản, thậm chí thủ tiêu các giá trị văn hóa dân tộc.  

Tuy nhiên cần nhận thức rằng, các lợi ích và bất lợi có thể ở dạng tiềm năng và đối với mỗi quốc gia, chúng tác động thông qua năng lực của quốc gia đó trong việc tận dụng cơ hội và vượt qua những thách thức. Những thách thức lớn mà nhiều nước như Việt Nam có thể phải đương đầu khi xây dựng nền văn hóa “đậm đà bản sắc dân tộc” trong bối cảnh hội nhập quốc tế, chủ yếu là:

Thứ nhất, giải quyết tốt mối quan hệ giữa thị trường và văn hóa

Một mặt, cần thấy rằng cách thức sản xuất vật chất, suy cho cùng sẽ quyết định cách thức sản xuất tinh thần. Do đó, không tránh khỏi sự chi phối của các quy luật kinh tế thị trường đối với phát triển văn hóa. Vậy, muốn phát triển văn hóa phải nắm bắt sự vận động của quy luật kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập.

Mặt khác, theo nghĩa rộng, thành tựu phát triển kinh tế thị trường hiện đại là một thành tựu văn hóa. Vì vậy, sản xuất vật chất trong bối cảnh hội nhập quốc tế phải đạt đến trình độ văn hóa, văn hiến, văn minh. Kinh tế thị trường cũng không thể phát triển được nếu nó không vận hành theo các giá trị và chuẩn mực văn hóa. Nói một cách cụ thể, các hoạt động sản xuất, kinh doanh trong nền kinh tế thị trường hiện đại sẽ không có lợi nhuận nếu không tuân thủ các giá trị và chuẩn mực văn hóa. Một chính sách kinh tế sẽ khó có thể phát huy tác dụng nếu không dựa trên nền tảng tinh thần là văn hóa và văn hóa chính trị.

Các ngành công nghiệp văn hóa trong bối cảnh hội nhập tồn tại như một phương thức để đưa các giá trị văn hóa đến người dân. Chúng đại chúng hóa, thị trường hóa các giá trị văn hóa chính trị, từ dân chủ, pháp quyền đến tham gia chính trị của công dân. Bằng cách ấy, công nghiệp văn hóa vừa thu được lợi nhuận, vừa xã hội hóa chính trị. Quốc gia nào nắm được xu hướng này, dựa trên nền tảng bản sắc dân tộc và làm chủ các công nghệ hiện đại liên quan sẽ trở thành quốc gia “xuất khẩu” văn hóa, và có thể các quốc gia khác buộc phải “nhập khẩu”. Trong mối quan hệ đó, cần chống lại khuynh hướng tầm thường hóa văn hóa, biến các giá trị văn hóa chính trị thành những “món ăn nhanh” hoặc “giải trí” thông thường. 

Thứ hai, thích nghi với sự đa dạng văn hóa và khoan dung văn hóa trong bối cảnh hội nhập. Khoan dung văn hóa và “xung đột giữa các nền văn minh” đang là một thực tế ở quy mô mỗi quốc gia và trên phạm vi toàn cầu. Khoan dung văn hóa trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập, không còn là khẩu hiệu mang tính đạo đức, mà là giá trị, chuẩn mực chính trị và quan trọng hơn, nó phải được thể chế hóa, trở thành luật pháp, chính sách và quy tắc ứng xử trong hội nhập quốc tế. Đó là một đòi hỏi cao của phát triển văn hóa chính trị của mỗi quốc gia, vì nó đòi hỏi vừa phải bảo vệ bản sắc dân tộc, vừa phải mở rộng giao lưu, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Với ý nghĩa đó, hội nhập là một vận hội nâng tầm đối với sự nghiệp phát triển văn hóa dân tộc Việt Nam nói chung, văn hóa chính trị Việt Nam nói riêng

Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về hội nhập văn hóa

Đảng Cộng sản Việt Nam đã có nhiều quan điểm chỉ đạo nhằm tận dụng lợi thế, vượt qua những thách thức do hội nhập quốc tế mang lại trong quá trình phát triển đất nước.

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) ghi rõ: Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát triển; đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ đối ngoại, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội trên thế giới.

Những quan điểm chỉ đạo trên là cơ sở để hoạch định chính sách, hoạt động thực tiễn nhằm hóa giải những thách thức đối với sự phát triển văn hóa và văn hóa chính trị của Việt Nam trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Để làm được những điều đó, Việt Nam phải là một quốc gia có bản sắc và bản lĩnh văn hóa (dân tộc hóa). Bản sắc và bản lĩnh ấy sẽ tạo được niềm tin của các đối tác, là cơ sở, là chỗ dựa để cùng giải quyết những vấn đề đặt ra trong quá trình hợp tác. Do đó, Việt Nam phải ý thức và tỏ rõ những phẩm chất của văn hóa và văn hóa chính trị dân tộc. Đó không chỉ là những giá trị, chuẩn mực đặc sắc, độc đáo của Việt Nam mà còn dung hợp, tương đồng với các giá trị, chuẩn mực của các đối tác khác, của bạn bè quốc tế. Vì vậy, phải thay đổi nhận thức, hành vi và thể chế của văn hóa chính trị trong bối cảnh hội nhập theo hướng:

Một là, xây dựng các giá trị, chuẩn mực, quy tắc ứng xử, các nhân vật văn hóa và các biểu tượng văn hóa, phản ánh những nội dung, xu hướng chính trị tiến bộ của dân tộc, của nhân loại; từ đó đóng vai trò “soi đường cho quốc dân đi”. 

Hai là, khi xây dựng được một nền văn hóa chính trị Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, theo yêu cầu, cần biến nó thành nền tảng tinh thần của các hoạt động chính trị; làm cơ sở cho mọi tư duy và hành vi chính trị, làm cơ sở để thiết kế bộ máy nhà nước và hệ thống chính trị, hoạch định chính sách, làm chuẩn mực cho mọi hành vi ứng xử chính trị cho Nhà nước và công dân trong nội trị cũng như ngoại giao…

Ba là, xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cần bao hàm tính dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học. Tính dân tộc, nhân văn, dân chủ vừa là sản phẩm của một nền văn hóa, vừa là quan điểm mang tính phương pháp luận để xây dựng nền văn hóa đó.

2. Các giải pháp xây dựng văn hóa chính trị Việt Nam theo tinh thần “dân tộc hóa” trong bối cảnh hội nhập

Một là, cần có nhận thức và cách tiếp cận mới về “dân tộc hóa” văn hóa trong hội nhập quốc tế

Trước đây, trong bối cảnh Đề cương về Văn hóa Việt Nam ra đời, nước ta và nhiều quốc gia trên thế giới còn bị bao phủ trong văn hóa nô dịch và văn hóa thuộc địa. Trong bối cảnh đó, “dân tộc hóa” văn hóa là xây dựng nền văn hóa độc lập, càng ít chịu chi phối, ảnh hưởng bởi văn hóa nô dịch, văn hóa thực dân càng tốt.

Tuy nhiên, trong thế giới toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, các tính chất “phẳng”, “chật”, “nhanh”, “phụ thuộc lẫn nhau”… ngày càng rõ. Cách tiếp cận “độc lập” theo cách biệt phái, đơn phương, đơn dạng, thụ động, khép kín không chỉ không phù hợp với xu thế phát triển chung, mà còn cản trở xu thế đó, cản trở chính ngay sự phát triển của bản thân Việt Nam.

Do sự phụ thuộc lẫn nhau, cần thiết, bổ sung cho nhau trong hội nhập, hình thái mới của giao lưu văn hóa thời hiện đại về cơ bản đã từ chối phương thức “áp đặt - bị áp đặt”, “đồng hóa - bị đồng hóa” hay “tiếp nhận - không tiếp nhận” kiểu văn hóa nô dịch, văn hóa thực dân, mà là sự cộng sinh, tích hợp. Trong bối cảnh đa dạng văn hóa như vậy, sự đối thoại, chia sẻ giữa các nền văn hóa đang ngày càng đóng vai trò quan trọng, quyết định hơn so với đối đầu vũ trang để giải quyết những vấn đề xung đột chính trị, tôn giáo, sắc tộc, lãnh thổ…

Từ nền tảng truyền thống, những giá trị văn hóa cổ truyền được bảo tồn và phát huy cho đến nay, đang tạo ra hệ giá trị văn hóa mới của thời hiện đại, đi kèm với đó là những yếu tố tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại. Sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc làm cho nhiều giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam không chỉ được khẳng định, mà đồng thời, hệ giá trị văn hóa Việt Nam còn được bổ sung thêm nhiều giá trị mới, làm cho bản sắc văn hóa dân tộc phong phú, đa dạng, tiến bộ hơn. Nếu thực hiện tốt hai quá trình đó, Việt Nam vẫn là Việt Nam, nhưng rất hiện đại. Trái lại, chúng ta sẽ rơi vào trạng thái thoái hóa, suy yếu, lạc hậu và hệ lụy là không giữ được bản sắc, mất đi các giá trị văn hóa truyền thống.

Hai là, làm rõ những yếu kém trong xây dựng văn hóa, nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa chính trị

Trong sự nghiệp lãnh đạo của Đảng, chúng ta có nhiều nghị quyết chuyên đề về văn hóa. Đường lối văn hóa của Đảng nhất quán với việc xây dựng một nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc và tuyên chiến với mọi loại hình văn hóa cũ lạc hậu, bảo thủ, nô dịch, hướng tới những giá trị dân tộc, dân chủ, nhân văn, khoa học.

Tuy nhiên, những thành tựu văn hóa đạt được hiện nay chưa tương xứng, chưa đủ tầm với vai trò là nền tảng tinh thần của xã hội, là động lực của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, văn hóa chưa được đặt ngang hàng với kinh tế và chính trị. Công tác nghiên cứu lý luận chưa làm rõ nhiều vấn đề có liên quan đến văn hóa trong quá trình đổi mới, trong việc xác định những giá trị truyền thống cũng như hệ giá trị mới cần xây dựng, trong việc xử lý các mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế, văn hóa và chính trị, văn hóa và kinh tế...; chưa xây dựng được chiến lược phát triển văn hóa song song với chiến lược phát triển kinh tế. “So với những thành quả trên lĩnh vực chính trị, kinh tế, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành quả trong lĩnh vực văn hóa chưa tương xứng; chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả xây dựng con người và môi trường văn hóa lành mạnh”(1).

Để nâng cao nhận thức về vai trò của văn hóa chính trị, trước hết cần tuyên truyền, giáo dục trong cán bộ, công chức, viên chức, nhân dân về nội dung của văn hóa chính trị Việt Nam. Làm sao để những nội dung đó trở thành một bộ phận quan trọng của đời sống chính trị. Trên cơ sở đó, bồi đắp tri thức, xây dựng các kỹ năng và thái độ cho cán bộ, công chức, viên chức, người dân trong công tác, trong ứng xử chính trị.

Ba là, đẩy mạnh công tác giáo dục văn hóa chính trị trong nhà trường

Cần đưa một cách khéo léo và tinh tế những nội dung của văn hóa chính trị vào hệ thống nhà trường từ bậc học thấp nhất đến cao nhất. Các nước Mỹ, Nhật, Ôxtrâylia, Canađa, Nga… đã chú trọng đưa nội dung văn hóa chính trị vào nhà trường với nhiều hình thức khác nhau, từ chào cờ, hát quốc ca, giáo dục chủ nghĩa yêu nước, đến thực hành dân chủ.

Những nội dung của văn hóa chính trị cần thường xuyên đổi mới, cập nhật với những diễn biến của đời sống thực tế và phải có phương pháp đúng. Học sinh từ mẫu giáo sẽ được dạy những nội dung đề cao tinh thần dân tộc, giá trị quốc gia, giá trị văn hóa, giá trị gia đình, sự đoàn kết cộng đồng, tinh thần trách nhiệm, sự khác biệt văn hóa và những sự kiện lịch sử quan trọng.

Bốn là, xây dựng các giá trị quốc gia và giá trị văn hóa chính trị cốt lõi, các chuẩn mực và quy tắc ứng xử của văn hóa chính trị Việt Nam

Những giá trị văn hóa chính trị cốt lõi, những chuẩn mực và quy tắc ứng xử, những nhân vật văn hóa chính trị và các biểu tượng văn hóa chính trị Việt Nam hiện có thể còn chưa được xác định đầy đủ, và có thể chưa nhận được sự thống nhất cao của giới học thuật và dư luận xã hội. Tuy nhiên, dù số lượng của chúng có thể thay đổi, nhưng vị trí của chúng trong các tầng cầu trúc văn hóa không thể thay đổi. Do đó, cần thường xuyên đưa những nội dung mới vào các giá trị chính trị cốt lõi, các chuẩn mực và quy tắc ứng xử, các nhân vật văn hóa chính trị, các biểu tượng văn hóa chính trị đã được thống kê và khái quát hóa.

Đối với các giá trị cốt lõi

Nội dung của chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa cộng đồng, chủ nghĩa nhân văn, tinh thần thân dân, tinh thần hòa hiếu, tinh thần thượng võ, tính tự lực, tự cường, tính ứng biến linh hoạt, sáng tạo... có thể biến đổi theo những yêu cầu và tính chất của thời đại.

Các giá trị, chuẩn mực, quy tắc ứng xử, các biểu tượng văn hóa chính trị Việt Nam đến nay phản ánh rất rõ quá trình đấu tranh giành độc lập, chống ngoại xâm. Tuy nhiên, những nội dung sản xuất, xây dựng hòa bình trong văn hóa chính trị Việt Nam còn mờ nhạt. Việc giáo dục văn hóa chính trị, không chỉ là giáo dục truyền thống, mà còn cần giáo dục văn hóa chính trị hiện tại. Thậm chí, quan trọng hơn là làm sao để con người hiện tại ứng xử với nhau có văn hóa chính trị.

Yếu tố truyền thống vẫn được coi trọng và có vị trí xứng đáng, nhưng cần thiết phải bổ sung những chất liệu mới. Do đó, cần làm rõ nhận thức và hành động làm cho dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; nhân dân được sống tự do, hạnh phúc. Tôn vinh, biểu dương những suy nghĩ và hành động, những tấm gương làm cho Việt Nam rút ngắn khoảng cách phát triển với các nước tiên tiến, sánh vai với các cường quốc năm châu. Yêu nước là dũng cảm đấu tranh với bảo thủ trì trệ, lạc hậu, tham nhũng, là trọng hiền tài, sử dụng người tài, đối xử xứng đáng với tài năng của họ… Đó chính là khát vọng của mỗi con người về một đất nước phồn vinh, hạnh phúc.

Đối với các chuẩn mực và quy tắc ứng xử

Cần bổ sung, xây dựng những chuẩn mực chính trị mới phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển của đất nước, của thời đại, làm rạng rỡ thêm những giá trị, chuẩn mực, biểu tượng văn hóa chính trị truyền thống Việt Nam.

Hiện nay, các chuẩn mực và quy tắc ứng xử đã được phản ánh trong hệ thống pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu nhiều chuẩn mực, đặc biệt là trong kiểm soát quyền lực nhà nước, công khai minh bạch hoạt động của các cơ quan nhà nước (trách nhiệm giải trình), trong biểu đạt ý chí của nhân dân. Gần đây, Chính phủ, chính quyền nhiều địa phương đã ban hành bộ quy tắc ứng xử của công chức, viên chức. Đó là những dấu hiệu tích cực trong xây dựng văn hóa chính trị. Tuy nhiên, cần nỗ lực hơn nữa, để những cố gắng đó thực sự mang ý nghĩa văn hóa, không đơn thuần là những hoạt động hành chính, hình thức.

Đối với các nhân vật văn hóa chính trị, các biểu tượng chính trị

Cần xây dựng tôn vinh các nhân vật, các biểu tượng chính trị trong sản xuất, trong hòa bình, biểu tượng của khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc. Trên thực tế, không ít những biểu tượng mới về đất nước, con người Việt Nam xuất hiện trong xản xuất, trong kinh doanh, như xây dựng “Thương hiệu Việt”, “Việt Nam - điểm đến của thiên niên kỷ”…, nhưng chưa thật tự giác như một biểu hiện của việc thấm nhuần văn hóa chính trị.

Xây dựng các giá trị quốc gia nói chung, giá trị văn hóa chính trị nói riêng, các chuẩn mực và quy tắc ứng xử của văn hóa chính trị là một sự thể hiện “sức mạnh mềm” của quốc gia trong hội nhập quốc tế. Đó đồng thời cũng là “quyền lực mềm”. Không chỉ các cường quốc, mà Việt Nam cũng cần có “chiến lược về quyền lực mềm”. Do đó, cần xây dựng, quảng bá, khẳng định văn hóa nói chung, văn hóa chính trị Việt Nam ra thế giới.

Năm là, xây dựng chiến lược “quyền lực mềm” trong hội nhập quốc tế. 

Theo Joseph Nye, nguồn của quyền lực mềm bao gồm giá trị về văn hoá, chính trị và chính sách ngoại giao của một nước(2). Để bảo đảm cho những giá trị văn hóa, chính trị và chính sách có sức hấp dẫn, chúng phải bảo đảm tính chính đáng, hợp công lý, hợp đạo đức và thuyết phục. Trong hội nhập quốc tế, tất yếu phải có sự phối hợp hành động chung giữa các quốc gia. Nếu một quốc gia có những giá trị văn hóa, chính trị, chính sách đại diện cho những giá trị mà thế giới chia sẻ, theo đuổi, thì quốc gia đó được chấp nhận, được các quốc gia khác tin tưởng, tăng khả năng đạt được mục đích, khẳng định được vị thế của mình trên trường quốc tế, có thể là vị thế lãnh đạo. 

Thế giới càng văn minh, càng hội nhập sâu rộng, khi nhân loại cùng đồng thuận theo đuổi những giá trị chung, thì quyền lực mềm càng trở nên quan trọng trong quan hệ giữa các quốc gia. Thành phần tham gia vào chủ thể quyền lực mềm cũng rất đa dạng, từ chính phủ đến các tổ chức phi chính phủ, các đảng chính trị, các tổ chức xã hội đến người dân riêng lẻ. Các kênh truyền dẫn quyền lực mềm cũng rất phong phú, từ quan hệ chính thức, hệ thống truyền thông đến các hoạt động giao lưu kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, du lịch… Hiện nay, nhiều quốc gia như Trung Quốc, Hàn Quốc, Ấn Độ, Nga... đã chú ý xây dựng “chiến lược quyền lực mềm”. Nước Mỹ, nơi xuất hiện lý thuyết “quyền lực mềm” là một điển hình.

Trong bối cảnh hội nhập hiện nay, qua kinh nghiệm các nước, Việt Nam cần xây dựng chiến lược “sức mạnh mềm”, hay còn gọi là “quyền lực mềm” phù hợp với đặc điểm lịch sử và trình độ phát triển. Cốt lõi của sức mạnh mềm là sức mạnh của văn hóa Việt Nam, trong đó có văn hóa chính trị. Ngay cả văn hóa nói chung, trong “sức mạnh mềm” cũng ít nhiều mang tính chính trị. Bởi vì nó phải thông qua chính sách, thông qua các quan hệ ngoại giao.

Để xây dựng chiến lược “sức mạnh mềm” trước hết cần khẳng định vị thế của Việt Nam là một người bạn, một đối tác tin cậy của tất cả các nước, một thành viên tích cực, có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế.

Thứ hai, cần nghiên cứu, hoàn thiện những giá trị văn hóa, những chuẩn mực, những quy tắc ứng xử, những nhân vật văn hóa, các biểu tượng văn hóa của Việt Nam. Phải hoàn thiện các nội dung văn hóa đó sao cho chúng mang tính tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Từ đó sẽ tạo ra sự hấp dẫn và nhận được sự công nhận, tin tưởng, chia sẻ của cộng đồng quốc tế.

Thứ ba, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong chiến lược “sức mạnh mềm”, từ Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội, nhân dân, người Việt Nam ở nước ngoài. Muốn vậy, cần đổi mới tư duy về vai trò của các tổ chức xã hội trong đối nội là “vốn xã hội”, trong đối ngoại là một kênh thực hiện “sức mạnh mềm” của Việt Nam.

Thứ tư, xây dựng các “thương hiệu” (hình ảnh) theo nghĩa rộng của Việt Nam, trong các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, lối sống, ứng xử, ẩm thực… Đi kèm với những “thương hiệu” Việt Nam là một hệ thống hành động của Nhà nước, doanh nghiệp, xã hội và người dân trong đối nội và đối ngoại.

Sáu là, đưa văn hóa chính trị vào hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật

Cần có ý thức đưa các giá trị, chuẩn mực văn hóa chính trị Việt Nam vào hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật, trong xây dựng và hoàn thiện bộ máy đảng, nhà nước nói riêng, hệ thống chính trị nói chung.

Văn hóa chính trị có chức năng điều chỉnh nhận thức, hành vi con người và tổ chức. Tuy nhiên, chỉ nhờ vào những nhận thức vốn có về văn hóa chính trị của những người có nhiệm vụ hoạch định chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật là chưa đủ. Cần có cơ chế chính thức thông qua kiểm tra, giám sát, để đánh giá tính văn hóa chính trị, chất lượng văn hóa chính trị trong các đường lối, chủ trương, chính sách và pháp luật đó, đồng thời đặt thêm yêu cầu cho các chủ thể thực hiện chức năng giám sát, phản biện xã hội về chất lượng văn hóa chính trị trong những nội dung giám sát, phản biện.v.v...

Bảy là, đưa các tiêu chí xây dựng con người, đánh giá hành vi của cá nhân và tổ chức vào quá trình giáo dục - đào tạo, học tập và lao động sản xuất

Xây dựng văn hóa và con người Việt Nam phát triển toàn diện, hướng đến chân - thiện - mỹ, thấm nhuần tinh thần dân tộc, nhân văn, dân chủ và khoa học. Làm cho mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn hóa dân tộc. Khẳng định, tôn vinh cái đúng, cái tốt đẹp, tích cực, cao thượng; nhân rộng các giá trị cao đẹp, nhân văn.

Để xây dựng được con người Việt Nam như thế, cần đưa các tiêu chí văn hóa và văn hóa chính trị vào quá trình giáo dục - đào tạo, học tập và lao động sản xuất. Dựa trên những giá trị cốt lõi, các chuẩn mực và quy tắc ứng xử, có thể tìm cách lượng hóa chúng trong quá trình hình thành nhân cách con người Việt Nam từ lúc nhỏ đến khi trưởng thành và trở thành một công dân có trách nhiệm, có năng lực làm chủ theo các chuẩn mực của văn hóa chính trị Việt Nam. Phải cụ thể hóa những tiêu chí (mang tính định hướng giá trị), như biết căm thù nghèo nàn lạc hậu, phải làm giàu cho cá nhân, gia đình và xã hội vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh”. Phải xây dựng hệ tiêu chí pháp quyền, dân chủ, trọng người tài, tinh thần đổi mới và sáng tạo để “đo” lòng yêu nước. Như vậy, càng pháp quyền, càng dân chủ, càng trọng người tài, càng đổi mới, càng sáng tạo, càng yêu nước…

Công cụ chủ yếu để thực hiện điều này, trước hết là trong giáo dục nhà trường, sau đó là trong xây dựng đạo đức công dân, đạo đức công vụ. Cần có, không những các bài học, các cuộc thi, mà còn cần cả những đánh giá về nhân cách, đạo đức con người Việt Nam theo các tiêu chí văn hóa chính trị.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 542 (tháng 4-2023)

Ngày nhận bài: 10-3-2023; Ngày bình duyệt: 6-4-2023; Ngày duyệt đăng: 20-4-2023.

 

(1) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr.124-125.

(2) Đào Minh Hồng - Lê Hồng Hiệp (chủ biên): Sổ tay Thuật ngữ Quan hệ quốc tế, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn - Thành phố Hồ Chí Minh, 2013.

GS, TSKH PHAN XUÂN SƠN

Viện Chính trị học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền