Trang chủ    Ảnh chính    Phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
Thứ năm, 19 Tháng 10 2023 16:18
1027 Lượt xem

Phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

PGS, TS NGUYỄN SỸ TRUNG
Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

(LLCT) - Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao là xu hướng phát triển tất yếu của nền nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Cùng với sự phát triển của nền nông nghiệp công nghệ cao, ở nước ta đã xuất hiện một đội ngũ người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp song có những đặc điểm của giai cấp công nhân. Bài viết phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công nhân nông nghiệp công nghệ cao, chỉ ra những hạn chế, bất cập hiện nay, từ đó đề xuất giải pháp phát triển đội ngũ này, đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Đẩy mạnh ứng dụng công nghệ cao là xu hướng phát triển tất yếu của nền nông nghiệp Việt Nam trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn - Ảnh: doanhnghiephoinhap.vn

Hiện nay, phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã trở thành xu thế tất yếu, khách quan của nền nông nghiệp thế giới. Trong bối cảnh đó, Việt Nam đã tiến hành tái cơ cấu nền nông nghiệp theo hướng hiện đại, thực hiện chuyển đổi số, tập trung phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao với mục tiêu: năng suất, tiêu chuẩn chất lượng cao, an toàn, giá trị kinh tế vượt trội và bảo vệ môi trường bền vững, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH và hội nhập quốc tế.

Trong thời gian qua, các mô hình, các khu và vùng nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã bước đầu mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rõ rệt. Cùng với sự phát triển của nền nông nghiệp công nghệ cao, ở Việt Nam đã xuất hiện một đội ngũ người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp có tính chất của giai cấp công nhân với những đặc điểm mới nổi bật về trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng, phương thức, kỷ luật và tác phong lao động có tính chất công nghiệp, có khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học - công nghệ tiên tiến trong sản xuất nông nghiệp. Đội ngũ này đang phát triển ngày càng mạnh mẽ và tham gia sâu rộng vào các phương diện của nền nông nghiệp công nghệ cao.

1. Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về công nhân nông nghiệp công nghệ cao

Trong thời gian qua, Việt Nam đang đẩy nhanh quá trình đổi mới mô hình tăng trưởng kinh tế dựa trên năng suất, tiến bộ khoa học và công nghệ, đổi mới sáng tạo, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Trong đó, thực hiện quá trình dịch chuyển cơ cấu kinh tế nông nghiệp, chú trọng phát huy lợi thế của kinh tế nông nghiệp nhiệt đới nhằm sản xuất hàng hóa phục vụ hội nhập kinh tế quốc tế, thúc đẩy nông nghiệp công nghệ cao ngày càng phát triển.

Trên thực tế, hiện nay đã xuất hiện một bộ phận người lao động có những đặc điểm của giai cấp công nhân làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tuy nhiên, trong các văn kiện của Đảng, văn bản pháp luật của Nhà nước chưa đề cập đến khái niệm “công nhân nông nghiệp công nghệ cao”. Còn trong nghiên cứu khoa học, thuật ngữ này cũng mới được đề cập trong các bài báo, tạp chí, chứ chưa có công trình nghiên cứu khoa học chuyên sâu lý giải đầy đủ khái niệm “công nhân nông nghiệp công nghệ cao”.

Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 28-01-2008 “về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” nêu rõ: Giai cấp công nhân Việt Nam là một lực lượng xã hội to lớn, đang phát triển, bao gồm những người lao động chân tay và trí óc, làm công hưởng lương trong các loại hình sản xuất kinh doanh và dịch vụ công nghiệp, hoặc sản xuất kinh doanh và dịch vụ có tính chất công nghiệp(1). Theo quan niệm này, công nhân phải là những người lao động trong các loại hình sản xuất, kinh doanh, dịch vụ có tính chất công nghiệp (do đó, những người lao động trong lĩnh vực nông nghiệp không thuộc giai cấp công nhân).

Nghị quyết Đại hội XIII nêu quan điểm: “Xây dựng giai cấp công nhân hiện đại, lớn mạnh; nâng cao bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công nghiệp, kỷ luật lao động thích ứng với cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư”(2). Như vậy, Đại hội XIII mới đề cập đến giai cấp công nhân nói chung chứ chưa đề cập đến công nhân nông nghiệp.

Gần đây nhất, Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII ban hành Nghị quyết số 19-NQ/TW “về nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” cũng chưa đưa ra khái niệm “công nhân nông nghiệp” hay “công nhân nông nghiệp công nghệ cao”.

Trong nghiên cứu lý luận, việc xác định những đặc điểm của giai cấp công nhân thường căn cứ vào một số tiêu chí cơ bản: (1) Giai cấp công nhân gắn với công cụ lao động công nghiệp, có tính xã hội hóa cao; (2) Là những người làm công, hưởng lương (cơ bản không có tư liệu sản xuất); (3) Có những đặc điểm về chính trị - xã hội nổi bật như: tính tổ chức, kỷ luật, tính quốc tế, tính triệt để cách mạng... Trong các thời kỳ trước đây, công nhân và nông dân là hai giai cấp hoàn toàn khác nhau cả về đặc điểm kinh tế - kỹ thuật và chính trị xã hội.

Nông dân là những người làm nông nghiệp, sống ở nông thôn, sử dụng công cụ lao động thủ công là chính, phương thức lao động mang tính cá nhân hóa, năng suất lao động thấp. Do sự phát triển của sản xuất, hiện nay đang xuất hiện một lực lượng lao động xã hội mới, làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp nhưng tuân theo quy trình, gắn với công cụ lao động công nghiệp, có tính tổ chức, kỷ luật cao.

Đội ngũ này có những điểm khác biệt với giai cấp nông dân ở chỗ: là những người lao động ổn định, không có tư liệu sản xuất chủ yếu (đất đai), làm thuê cho chủ các doanh nghiệp, trong các mô hình nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, trực tiếp vận hành, sử dụng công cụ lao động công nghiệp hiện đại (các loại máy móc, thiết bị phục vụ sản xuất nông nghiệp), phương thức lao động có tính xã hội hóa (chuyên môn hóa sâu, làm việc theo dây chuyền), năng suất lao động cao, kỹ năng lao động thuần thục, tác phong lao động công nghiệp và có tính tổ chức, kỷ luật chặt chẽ, sản phẩm chính là nông sản chất lượng cao...

Như vậy, rõ ràng đã có sự giao thoa giữa công nhân và nông dân, giữa công nghiệp và nông nghiệp, song giữa họ có những nét riêng biệt để phân biệt, nhất là về đặc trưng sử dụng công cụ lao động, tính chất và tác phong lao động. Công nhân nông nghiệp công nghệ cao không phải là một giai cấp độc lập, đứng ngoài giai cấp công nhân mà là một bộ phận của giai cấp công nhân, có những đặc điểm của giai cấp công nhân nhưng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp.

Về thực tiễn phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, đến năm 2020, cả nước đã hình thành khoảng 690 vùng sản xuất ứng dụng công nghệ cao, tập trung ở các tỉnh Đông Nam Bộ, Lâm Đồng, đồng bằng sông Hồng và một số tỉnh Bắc Trung Bộ, trong đó có 458 vùng trồng trọt (chiếm 66,4%); 135 vùng chăn nuôi (chiếm 19,6%); 87 vùng thủy sản (chiếm 12,6%) và 10 vùng lâm nghiệp (chiếm 1,4%)(3). Diện tích nhà kính, nhà lưới, nhà màng trồng rau công nghệ cao là 38.400 ha, chiếm 68,59% tổng diện tích nhà kính, nhà lưới, nhà màng khu vực nông thôn cả nước và gấp 17,94 lần năm 2016; diện tích trồng hoa là 4.990 ha, chiếm 8,91% và gấp 4,71 lần; diện tích ươm giống cây trồng là 5.600 ha, chiếm 10% và gấp 15,15 lần; diện tích nuôi trồng thủy sản là 7.000 ha, chiếm 12,50% và gấp 29,17 lần. Tỉnh Lâm Đồng là địa phương tiêu biểu với 18,590 ha đất trồng rau và 1.000 ha trồng hoa, cây cảnh trong nhà kính, nhà lưới, nhà màng(4).

Một số công ty, tập đoàn lớn đã đầu tư ứng dụng công nghệ cao vào trồng rau, củ, cây ăn quả, chăn nuôi bò sữa, lợn, gia cầm, nuôi trồng thủy sản như: Công ty cổ phần thực phẩm TH true MILK, Công ty cổ phần sữa Việt Nam (Vinamilk), Công ty đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp VinEco, Công ty cổ phần nông nghiệp quốc tế Hoàng Anh Gia Lai, Công ty cổ phần mía đường Lam Sơn, Công ty cổ phần giống cây trồng Việt Nam (Vinaseed), Công ty cổ phần thủy sản Mekong (Mekongfish)...

Các công nghệ cao chủ yếu được sử dụng trong quản lý, sản xuất nông nghiệp hiện nay là: công nghệ cảm biến IoT, công nghệ thông tin quản lý lịch nông vụ và truy xuất nguồn gốc, công nghệ không sử dụng đất, công nghệ nhân nuôi tế bào thực vật quy mô công nghiệp, công nghệ hàng không trong phòng trừ dịch bệnh cây trồng, công nghệ thụ tinh nhân tạo, tinh phân ly giới tính, công nghệ xử lý môi trường (hầm biogas, đệm lót, chế phẩm sinh học), công nghệ biofloc trong nuôi trồng thủy sản,...     

Việc áp dụng công nghệ tiên tiến và mở rộng diện tích sản xuất nông nghiệp đã mang lại sự chuyển biến tích cực trong quá trình chuyển dịch lực lượng lao động từ những người lao động nông nghiệp truyền thống trở thành công nhân nông nghiệp công nghệ cao, nắm vững tri thức khoa học, kỹ thuật, có trình độ tay nghề, kỹ năng, năng suất lao động cao, làm việc theo dây chuyền, tạo ra những sản phẩm nông nghiệp sinh thái, hữu cơ, có chất lượng cao và giá trị kinh tế vượt trội. Đồng thời, quá trình này thúc đẩy sự gia tăng nhanh về số lượng và sự biến đổi về cơ cấu, thành phần đội ngũ công nhân trong các lĩnh vực như: chọn giống, canh tác, chăn nuôi, thu hoạch, bảo quản, chế biến nông sản...

Những căn cứ lý luận và thực tiễn trên cho thấy, dù đang trong quá trình hình thành và phát triển nhưng đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao ở nước ta đang dần trở thành một bộ phận quan trọng của giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ CNH, HĐH và hội nhập quốc tế. Đó là đội ngũ những người lao động sản xuất trong nền nông nghiệp tiên tiến, ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại, tuân thủ nghiêm các quy trình kỹ thuật, quy trình sản xuất, có tác phong lao động công nghiệp, sản xuất ra các sản phẩm nông nghiệp chất lượng cao.

Từ quan điểm chung của Đảng về xây dựng và phát triển giai cấp công nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, đồng thời xuất phát từ yêu cầu thực tiễn của phát triển nông nghiệp công nghệ cao, có thể xác định, phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

2. Những vấn đề đặt ra trong phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao ở Việt Nam hiện nay

Thứ nhất, những vấn đề đặt ra về quan điểm, cơ chế, chính sách đối với công nhân nông nghiệp và doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao

Một là, về sứ mệnh lịch sử của công nhân nông nghiệp. Nghị quyết 20-NQ/TW ngày 28-01-2008 “về tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam đáp ứng thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” khẳng định, giai cấp công nhân có sứ mệnh lịch sử: “là giai cấp lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiên tiến; giai cấp tiên phong trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, lực lượng nòng cốt trong khối liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”(5)... Vậy những người công nhân nông nghiệp đã là hiện thân của công nhân - nông dân thì vai trò nòng cốt trong khối liên minh sẽ như thế nào? Đây là những câu hỏi lớn về mặt lý luận cần phải tiếp tục nghiên cứu, làm rõ.

Hai là, về cơ chế, chính sách đối với công nhân nông nghiệp. Cũng như công nhân trong các ngành, lĩnh vực khác, các quyền, lợi ích, nghĩa vụ của công nhân nông nghiệp cần được quy định trong những chính sách sau: (1) Chính sách về tiền lương, thưởng, điều kiện lao động; (2) Chính sách về bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp; (3) Chính sách về đào tạo nghề và hỗ trợ đào tạo nghề; (4) Chính sách về hỗ trợ nhà ở.

Do hiện nay chưa có sự thống nhất về khái niệm công nhân nông nghiệp, nên ngoài những chính sách chung với người lao động thông thường thì chưa có các quy định cụ thể với đối tượng này. Thí dụ, công nhân có quyền tham gia tổ chức công đoàn tại các cơ sở sản xuất kinh doanh. Song, hiện nay nhiều người lao động là công nhân nông nghiệp nhưng chủ yếu được Hội Nông dân, trung tâm khuyến nông đào tạo nghề và tham gia Hội nông dân các cấp chứ không tham gia Công đoàn.

Ba là, chính sách ưu đãi với doanh nghiệp sử dụng công nhân nông nghiệp. Chuyển dịch cơ cấu lao động là chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước ta nhằm góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Tuy nhiên, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện còn thiếu sự đồng bộ và chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn. Luật Công nghệ cao được ban hành năm 2008, qua 15 năm triển khai đã nảy sinh một số bất cập song chưa được sửa đổi, bổ sung. Hiện còn thiếu các văn bản hướng dẫn dưới Luật có tính pháp lý cao như nghị định, mà chủ yếu là các quyết định của Thủ tướng Chính phủ; không có hướng dẫn và cơ chế chính sách ưu đãi cụ thể đối với các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao do địa phương, doanh nghiệp thành lập từ nguồn ngân sách địa phương, nguồn xã hội hóa...

Ở cấp địa phương, còn thiếu các cơ chế, chính sách phù hợp để khuyến khích doanh nghiệp đầu tư, ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp. Do vậy, xây dựng hệ thống chính sách ưu đãi phù hợp về đất đai, tín dụng, thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị gia tăng... đối với các doanh nghiệp nông nghiệp công nghệ cao là vấn đề cần được ưu tiên giải quyết, nhằm phát triển doanh nghiệp, tạo thêm việc làm cho người lao động, đặc biệt là phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao, góp phần chuyển dịch cơ cấu lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng.

Thứ hai, những bất cập trong xây dựng nền nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông thôn hiện đại với phát triển công nhân nông nghiệp

Ở Việt Nam, nông nghiệp, nông dân, nông thôn là ba thành tố có mối quan hệ mật thiết, không thể tách rời. Trong đó, nông dân là chủ thể, nông nghiệp là nền tảng, nông thôn là địa bàn. Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, thì CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ được Đảng, Nhà nước ta rất quan tâm. Tuy nhiên, xét trong điều kiện hiện nay, việc phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp công nghệ cao hướng tới xây dựng nông thôn hiện đại còn một số vấn đề sau:

Một là, để phát triển công nhân nông nghiệp, đòi hỏi tất yếu phải có nền nông nghiệp hiện đại, ứng dụng công nghệ cao, phải đầu tư nghiên cứu, phát triển khoa học công nghệ, từ khoa học cơ bản, khoa học ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, tập huấn người sử dụng công nghệ... Quá trình này đòi hỏi phải có sự đầu tư nghiêm túc, lâu dài cả về tài chính, nguồn nhân lực. Tuy nhiên, do nhiều yếu tố khác nhau, việc đầu tư khoa học công nghệ, nhất là công nghệ hiện đại cho nông nghiệp, nông thôn ở nước ta còn nhiều hạn chế.

Hiện nay, nông nghiệp nước ta chủ yếu vẫn được thực hiện theo phương thức truyền thống, sản xuất tự phát, nhỏ lẻ, công nghệ lạc hậu. Mặc dù được nhiều địa phương quan tâm, nhưng số lượng doanh nghiệp được công nhận là doanh nghiệp ứng dụng công nghệ cao chưa nhiều, do vậy, số lượng công nhân nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao còn khiêm tốn. Trình độ khoa học công nghệ lạc hậu dẫn đến năng suất lao động xã hội thấp, năng lực cạnh tranh kém, chưa thu hút được người lao động có trình độ cao vào làm việc.

Hai là, để phát triển công nhân nông nghiệp, phải có các doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực nông nghiệp. Đây là điều kiện cần thiết, bởi chỉ trong quan hệ doanh nghiệp - người lao động mới có những người làm công, hưởng lương, tức là có công nhân. Còn nếu nông nghiệp chỉ được thực hiện ở quy mô hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã thì không thể có đội ngũ công nhân nông nghiệp. Tuy nhiên, hiện nay số lượng doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp còn ít, quy mô doanh nghiệp còn khiêm tốn.

Tính đến hết năm 2020, cả nước mới có 290 doanh nghiệp nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao trên tổng số 10.670 doanh nghiệp đầu tư vào sản xuất nông nghiệp, chỉ chiếm tỷ lệ 2,71%. Trong đó, lĩnh vực trồng trọt có 126 doanh nghiệp, chiếm 43,5%; lĩnh vực chăn nuôi có 88 doanh nghiệp, chiếm 30,3%; lĩnh vực thủy sản có 68 doanh nghiệp, chiếm 23,5% và lĩnh vực lâm nghiệp có 8 doanh nghiệp, chiếm tỷ lệ 2,7%(6). Hình thức tổ chức sản xuất chủ yếu vẫn là hộ gia đình, quy mô nhỏ, thiếu liên kết giữa các khâu, ngành... Vấn đề này đã được chỉ ra trong Báo cáo thực trạng về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2011-2020: “Mô hình ứng dụng công nghệ cao trong sản xuất nông nghiệp còn nhỏ lẻ, manh mún, không theo định hướng, quy mô sản xuất chưa đủ lớn để tạo vùng hàng hóa tập trung gây khó khăn trong việc đầu tư và quản lý”(7) .

Có nhiều nguyên nhân khác nhau dẫn đến thực trạng trên, như: (1) Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đòi hỏi vốn đầu tư lớn so với nông nghiệp truyền thống, một dự án nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao có thể cần khoản đầu tư cao gấp hàng trăm lần phương pháp truyền thống. Tỷ suất đầu tư lớn cũng đồng nghĩa với áp lực lớn đối với hiệu quả sản xuất nông nghiệp(8). (2) Nông thôn nước ta đang trong quá trình đô thị hóa, diện tích đất, không gian cho phát triển nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp. Do đó, các doanh nghiệp không sẵn sàng đầu tư. (3) Nông nghiệp là lĩnh vực có lợi nhuận thấp, song rủi ro cao, phụ thuộc vào thời tiết, thiên nhiên, thị trường, trong khi chính sách ưu đãi về tài chính, thuế, đất đai... chưa đủ hấp dẫn để các doanh nghiệp tham gia đầu tư. Thí dụ, căn cứ Điều 129 Luật Đất đai năm 2013, hạn mức giao đất trồng cây hằng năm, đất nuôi trồng thủy sản, đất làm muối cho mỗi hộ gia đình, cá nhân trực tiếp sản xuất ở vùng đồng bằng sông Hồng không quá 02 héc ta mỗi loại. Với diện tích như vậy, rất khó để phát triển doanh nghiệp có quy mô lớn.

Ba là, đội ngũ lao động được đào tạo để trở thành công nhân nông nghiệp còn nhiều hạn chế cả về số lượng và chất lượng. Đánh giá chung về chất lượng lao động nông nghiệp, nông thôn ở Việt Nam gần đây cho thấy, lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật chiếm tỷ lệ thấp, năm 2017 chỉ chiếm 4,21% trong tổng lao động ngành nông nghiệp, năm 2018 là 4,01%, năm 2020 là 11,3%(9). Đa số công nhân nông nghiệp xuất thân từ nông dân, ý thức tổ chức kỷ luật, giác ngộ chính trị, tính chuyên nghiệp còn chưa cao, một bộ phận chỉ làm việc bán thời gian. Do đó, “Đây là rào cản kỹ thuật lớn nhất khi triển khai các ứng dụng tiên tiến. Các nhà sản xuất có thể nhận chuyển nhượng phần cứng dễ dàng nhưng sẽ gặp nhiều vấn đề với việc vận hành các công nghệ đó”(10).

Chính sách đào tạo nghề cho nông dân tham gia vào lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao chưa sát với yêu cầu thực tiễn. Trong khi đó, những người được đào tạo cơ bản, có trình độ từ trung học phổ thông trở lên thường có xu hướng rời nông thôn đến đô thị, khu công nghiệp tìm việc làm. Từ đó dẫn đến thực trạng thiếu lao động có chuyên môn để phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao ở khu vực nông thôn. Tình trạng lao động di cư từ nông thôn ra thành thị và các khu công nghiệp diễn ra ngày càng phổ biến, năm 2020, số người từ 15 tuổi trở lên di cư đến thành thị là 877,8 nghìn người. Trong khi đó, kết cấu hạ tầng nông thôn còn tương đối lạc hậu, chưa đủ hấp dẫn để thu hút trí thức về sống và làm việc ở nông thôn(11).

Thứ ba, những bất cập trong công tác đào tạo, bồi dưỡng công nhân nông nghiệp công nghệ cao

Một là, chủ thể đào tạo phân tán. Công tác đào tạo lao động làm việc trong các công ty, doanh nghiệp nông nghiệp hiện nay có sự tham gia của các chủ thể chính sau: 1) Các cơ sở đào tạo trong hệ thống giáo dục quốc dân, bao gồm các trường đại học, cao đẳng, trung cấp nghề, chương trình đào tạo nghề cho học sinh trong các trường trung học phổ thông. 2) Cơ sở đào tạo của các tổ chức chính trị - xã hội như Trường đào tạo cán bộ Hội Nông dân. 3) Đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn của cơ quan khuyến nông các cấp. 4) Đào tạo trực tiếp tại doanh nghiệp. 5) Người lao động tự đào tạo thông qua tích lũy kinh nghiệm, học tập những người đi trước.

Việc có nhiều chủ thể cùng tham gia đào tạo nghề cho lao động nông nghiệp nhưng thiếu một đầu mối chỉ huy, liên thông, liên kết với nhau dẫn đến mạnh ai nấy làm, đào tạo không đáp ứng được yêu cầu của thị trường lao động.

Hai là, nội dung đào tạo chưa có sự gắn kết giữa công nhân với nông dân, công nghiệp với nông nghiệp. Công nhân nông nghiệp công nghệ cao là những người lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao, được hưởng tiền công, tiền lương, các chính sách của công nhân, như: bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, được tham gia các tổ chức công đoàn... Muốn vậy, nội dung, chương trình đào tạo công nhân nông nghiệp phải đáp ứng được cả yêu cầu về chuyên môn và ý thức kỷ luật lao động.

Hiện nay chưa có chương trình đào tạo riêng cho công nhân nông nghiệp công nghệ cao. Nội dung đào tạo chính của trường cao đẳng nghề nông nghiệp là các kiến thức tổng quát và chuyên sâu về các lĩnh vực: chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản, các loại dịch hại trên cây trồng, thuốc bảo vệ thực vật, sinh lý động thực vật, kỹ thuật nuôi và phòng bệnh gia súc, gia cầm, thủy sản... Ở bậc đại học, nội dung đào tạo gồm kiến thức tổng quát, chuyên ngành về các lĩnh vực tổng hợp như: trồng trọt, chăn nuôi, thủy sản, cơ giới hóa nông nghiệp, bảo quản, chế biến nông sản, quản trị sản xuất kinh doanh... Chương trình đào tạo hiện nay chủ yếu cung cấp kiến thức chuyên ngành nông nghiệp cho người học mà chưa thực sự hướng đến xây dựng đội ngũ công nhân nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Đào tạo công nhân nông nghiệp không chỉ có nghiệp vụ mà còn cần ý thức tổ chức, kỷ luật. Trong các cơ sở đào tạo công nhân hiện nay, cũng chủ yếu là đào tạo người lao động phục vụ cho ngành công nghiệp, rất ít cơ sở đào tạo công nhân nông nghiệp.

Để có đội ngũ công nhân nông nghiệp chuyên nghiệp, đòi hỏi phải có nội dung, chương trình, cơ sở đào tạo chuẩn. Việc đào tạo phải chú ý cả chuyên môn và kỹ năng xã hội. Trong khi đó, hiện nay, việc đào tạo chủ yếu là tự phát, đào tạo tại doanh nghiệp theo phương pháp cầm tay chỉ việc. Với cách làm đó, khó có một đội ngũ công nhân nông nghiệp hiện đại.

Bên cạnh đó, tâm lý của một bộ phận người trẻ hiện nay là không muốn học và làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp. Theo số liệu thống kê, trong giai đoạn 2015-2020, các trường đại học, viện nghiên cứu ngành nông nghiệp tuyển sinh sau đại học 10.883 học viên, trong đó có 420 nghiên cứu sinh, 10.463 học viên cao học, tuy nhiên chỉ có 3.040 học viên (28%) chọn ngành nông nghiệp, trong khi có 7.843 người (72%) theo học các ngành khác. Ở trình độ đại học, tuyển sinh 52.208 sinh viên, trong đó ngành nông nghiệp là 18.800 người (chiếm 36%), các ngành khác là 33.400 người (chiếm 64%). Ở trình độ trung cấp, tuyển sinh 90.582 học viên, trong đó ngành nông nghiệp là 14.475 người (chiếm 16%), các ngành khác  là 76.107 người (chiếm 84%)(12). Như vậy, thiếu lao động trình độ cao, đã qua đào tạo là một rào cản lớn trong xây dựng đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao hiện nay.

3. Một số giải pháp phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn

Thứ nhất, kịp thời xây dựng, ban hành chủ trương, chính sách phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao

Phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao là xu hướng tất yếu khách quan hiện nay, trong bối cảnh cơ cấu kinh tế nông nghiệp đang được điều chỉnh phù hợp với nhu cầu của xã hội hiện đại. CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn đòi hỏi phải có các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp công nghệ cao hợp lý với lực lượng lao động tương xứng, nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất.

Nâng cao nhận thức của đội ngũ lãnh đạo, quản lý các cấp về tính cấp thiết và vai trò quan trọng của việc phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao. Trong quá trình xây dựng, ban hành các chủ trương, chính sách phát triển nông nghiệp, cần chú trọng chính sách nâng cao chất lượng nguồn nhân lực - yếu tố cốt lõi giúp nâng cao hiệu quả ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất nông nghiệp.

Cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa cấp ủy, chính quyền các địa phương và các chủ thể trong lĩnh vực nông nghiệp công nghệ cao để xây dựng các chính sách phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao phù hợp, đáp ứng yêu cầu thực tiễn của doanh nghiệp và các địa phương như chính sách đào tạo, bồi dưỡng, tuyển dụng, tập huấn, chuyển giao tri thức... Cần nắm bắt và giải quyết những vướng mắc, bất cập liên quan đến đời sống vật chất và tinh thần của công nhân, chú ý tạo việc làm, tăng thu nhập, ổn định đời sống, bảo đảm phúc lợi xã hội như bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, hợp đồng lao động, thỏa ước lao động tập thể, nhà ở, trường học, bệnh viện, nơi sinh hoạt văn hóa...

Thứ hai, phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao gắn với xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh

Giải pháp gắn kết giữa xây dựng nền nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh với phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao hiện nay nằm trong chủ trương phát triển chung của cả nước. Trong chuyển đổi cơ cấu kinh tế đất nước, xây dựng nông nghiệp hiện đại, nông thôn văn minh là cơ sở nền tảng góp phần hình thành lực lượng lao động trong lĩnh vực nông nghiệp tiên tiến, hiện đại hơn.

Để xây dựng sự gắn kết này cần nghiên cứu và hình thành quan hệ sản xuất đáp ứng được yêu cầu phát triển nông nghiệp hàng hóa theo cơ chế mới. Thúc đẩy đổi mới sáng tạo trong nông nghiệp hướng tới mục tiêu cơ cấu lại ngành nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn, gắn với xây dựng nông thôn mới xoay quanh ba trụ cột: “Nông nghiệp sinh thái”, “Nông thôn hiện đại”, “Nông dân thông minh”. Ngành nông nghiệp cũng cần chuyển đổi từ “tư duy sản xuất” sang “tư duy kinh tế”, hướng tới những “giá trị xanh” được tạo nên từ “chuyển đổi xanh, tiêu dùng xanh, kinh tế xanh” nhằm phá vỡ điểm nghẽn trong phát triển nông nghiệp, nông thôn hiện nay.

Thứ ba, đẩy mạnh công tác đào tạo, bồi dưỡng nhằm phát triển toàn diện công nhân nông nghiệp công nghệ cao

Công tác đào tạo, bồi dưỡng, phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao phải được tiến hành toàn diện về quy mô, cơ cấu thành phần, nhằm xây dựng đội ngũ người lao động có kiến thức sâu về chuyên môn, nghiệp vụ và phẩm chất, có năng lực tổ chức, quản lý sản xuất kinh doanh.

Ưu tiên phát triển nhanh về số lượng, đi đôi với nâng cao chất lượng. Về số lượng, phải bảo đảm đáp ứng yêu cầu của các dự án nông nghiệp công nghệ cao của mỗi địa phương trong cả nước, từng bước tiến tới đa dạng hóa về cơ cấu công nhân trong các lĩnh vực sản xuất, phát triển một cách hài hòa và hợp lý về cơ cấu độ tuổi, giới tính trong công nhân.

Bên cạnh việc đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, cần giác ngộ ý thức chính trị, đạo đức, lối sống cho công nhân nông nghiệp. Ưu tiên rèn luyện về kỹ năng và tác phong cho công nhân trong môi trường lao động sản xuất mới nhằm tạo ra một thế hệ công nhân nông nghiệp hiện đại, có năng lực đổi mới sáng tạo, đáp ứng yêu cầu của nền nông nghiệp công nghệ cao, sinh thái, bảo vệ môi trường...

Đối với các chủ thể của công tác đào tạo, cần khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân trong và ngoài nước thành lập cơ sở dạy nghề, thực hiện chương trình hợp tác đào tạo tại các khu, vùng nông nghiệp công nghệ cao để đào tạo, huấn luyện công nhân, kỹ thuật viên. Về dài hạn, cần tăng cường đào tạo nguồn công nhân trẻ, nhất là lực lượng thanh niên ở nông thôn tại các địa phương.

Cần tận dụng thế mạnh của các vùng tập trung nhiều trường đại học, học viện, viện nghiên cứu, trường cao đẳng, nhất là những cơ sở giáo dục chuyên về nghiên cứu, đào tạo nông nghiệp. Các doanh nghiệp cần phối hợp với những cơ sở đào tạo này để xây dựng chương trình, kế hoạch đào tạo phù hợp nhằm phát triển đội ngũ công nhân nông nghiệp công nghệ cao theo mục tiêu đã đề ra.

Phát triển công nhân nông nghiệp công nghệ cao là vấn đề còn tương đối mới ở nước ta hiện nay. Vì vậy, cần tiếp tục nghiên cứu, làm sáng tỏ hơn về cả mặt lý luận và thực tiễn về đội ngũ này, từ đó góp phần vào sự thành công của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 545 (tháng 7-2023)

Ngày nhận bài: 25-5-2023; Ngày bình duyệt:7-7-2023; Ngày duyệt đăng: 24-7-2023.

(1), (5) ĐCSVN: Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2008, tr.43, 44.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, t.I, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, tr.166.

(3), (6), (7) Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo thực trạng về phát triển nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao giai đoạn 2011-2020.

(4) Tổng cục thống kê: Điều tra nông thôn, nông nghiệp giữa kỳ năm 2020, Nxb Thống kê, Hà Nội, 2021.

(8) Đầu tư nông nghiệp công nghệ cao không chỉ cần vốn, https://vneconomy.vn.

(9), (12) Phát triển nguồn nhân lực, đào tạo nghề gắn với tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu lao động nông thôn Việt Nam, http://hdll.vn.

(10) Nông nghiệp công nghệ cao của Hà Nội: Giải pháp để thu hút đầu tư, http://vjst.vn.

(11) Tổng cục Thống kê: Báo cáo điều tra lao động việc làm năm 2020.

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền