Trang chủ    Bài nổi bật    Hồ Chí Minh và phong cách lý luận gắn với thực tiễn
Thứ ba, 28 Tháng 7 2015 10:14
4599 Lượt xem

Hồ Chí Minh và phong cách lý luận gắn với thực tiễn

(LLCT)- Sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn là đặc điểm nổi bật của phong cách tư duy Hồ Chí Minh và được thể hiện rõ nét trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Người. Trong đó, đặc trưng và ổn định là tư duy lý luận dựa trên thực tiễn Việt Nam, là hướng đích Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc và con người Việt Nam. Hiện nay, trước sự vận động ngày càng nhanh, mạnh của hiện thực khách quan trong nước và trên thế giới, việc học tập và vận dụng phong cách tư duy lý luận gắn với thực tiễn của Hồ Chí Minh càng có giá trị to lớn.

 

Phong cách là một biểu hiện riêng trong lối sống, làm việc của một cá nhân, thể hiện tính đặc trưng và ổn định được áp dụng thường xuyên nhằm giải quyết các vấn đề nảy sinh trong quá trình hoạt động của con người. Phong cách không chỉ biểu hiện bề ngoài của cá nhân, một lớp người, mà còn biểu hiện lập trường, quan điểm giai cấp, phản ánh thế giới quan, lý trí và tình cảm sâu sắc của con người. Bởi vậy, phong cách là kết quả của một quá trình để tạo nên tính đặc trưng và ổn định của nó. 

Mối quan hệ giữa lý luận với thực tiễn trong tư duy được Hồ Chí Minh diễn đạt như: “Lý luận liên hệ với thực tế”(1), “Lý luận kết hợpvới thực hành”(2), “Lý luận đi đôivới thực tiễn”(3)... Như vậy, khi nói “liên hệ”, “kết hợp”, “đi đôi”...là nói tới sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn là khẳng định của Hồ Chí Minh về sự “Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác -Lênin”(4). Người nhấn mạnh: “Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không có liên hệ với thực tiễn là lý luận suông”(5). Sự gắn bó giữa lý luận và thực tiễn mang tính biện chứng, trong đó thực tiễn phải có lý luận soi đường, hướng dẫn, còn lý luận phải dựa trên cơ sở thực tiễn, phản ánh thực tiễn và phải luôn liên hệ với thực tiễn. Không có lý luận sẽ rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm; thiếu thực tiễn sa vào chủ nghĩa giáo điều và suy cho cùng, chủ nghĩa kinh nghiệm hay chủ nghĩa giáo điều đều là kết quả của tư duy chủ quan, duy ý chí cả trong hoạt động lý luận và thực tiễn.

Sự gắn bó giữa lý luận với thực tiễn là đặc điểm nổi bật của phong cách tư duy Hồ Chí Minh và được thể hiện rõ nét trong toàn bộ quá trình hoạt động cách mạng của Người. Trong đó, đặc trưng và ổn định là tư duy lý luận dựa trên thực tiễn Việt Nam, là hướng đích Độc lập - Tự do - Hạnh phúc cho dân tộc và con người Việt Nam.

Để tìm lý luận cho hướng đích đó, Hồ Chí Minh bắt đầu từ thực tiễn Việt Nam và sự vận động của thế giới hiện thực. Muốn hiểu các nước khác đã làm thế nào để trở về giúp đồng bào, Người không lựa chọn  nghiên cứu phiên bản của nó ở phương Đông mà đi tới nơi sinh ra các cuộc cách mạng tư sản điển hình ở phương Tây. Để hiểu cách mạng giải phóng dân tộc, Người tới nước Mỹ; để hiểu rõ cách mạng công nghiệp, Người đến nước Anh; để thấu hiểu cuộc cách mạng nhân quyền và dân quyền, Người sống và làm việc ở Pháp. Đi theo chủ nghĩa Mác - Lênin khi còn ở nước Pháp, nhưng Người đã tới nước Nga để quan sát công cuộc xây dựng chế độ xã hội mới ở đây. Người đến Trung Hoa để hiểu rõ cách mạng dân chủ ở Trung Quốc và những chính sách nào của Tôn Trung Sơn phù hợp với Việt Nam. Tiếp nhận trực tiếp những lý luận mới với thực tiễn mới nên tư duy lý luận của Hồ Chí Minh cũng luôn mới.

Nhưng những kinh nghiệm lịch sử và tổng kết thực tiễn cách mạng thế giới cũng chưa đủ để Hồ Chí Minh xây dựng lý luận cách mạng Việt Nam. Bằng thế giới quan và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Người phân tích được thực chất của xã hội Việt Nam với những mâu thuẫn riêng và phát hiện ra những quy luật vận động của đất nước trong thời đại mới để hoạch định đường lối cách mạng. Do vậy, đường lối đó hợp lòng dân, đúng quy luật và thuận theo xu thế phát triển, phù hợp với sự tiến hóa của nhân loại. Điều đó thể hiện ở việc Hồ Chí Minh xác định cách mạng Việt Nam là cách mạng giải phóng dân tộc, nhưng trong thời đại mới, cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi triệt để phải theo con đường cách mạng vô sản. Với lôgíc đó, cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải do Đảng Cộng sản lãnh đạo, và sự ra đời của Đảng Cộng sản ở Việt Nam không chỉ là sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân mà với cả phong trào yêu nước; Đảng Cộng sản Việt Nam không chỉ là đội tiên phong của giai cấp công nhân mà đại diện cho quyền lợi của tất cả nhân dân lao động và của cả dân tộc. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng do Hồ Chí Minh soạn thảo vạch rõ con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH thích hợp với điền kiện Việt Nam, phù hợp với yêu cầu của nhân dân Việt Nam, đồng thời thuận với sự tiến hóa chung. Và do đó, theo Người, cuộc cách mạng giải phóng dân tộc ở Việt Nam phải được thực hiện bởi sự liên minh của tất cả những người Việt Nam yêu nước, không phân biệt giai cấp, tín ngưỡng trên cơ sở liên minh công nông. Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam và thế giới, những giá trị đúng đắn trong Chính cương vắn tắt và Sách lược vắn tắt của Đảng Cộng sản Việt Nam do Hồ Chí Minh soạn thảo được khẳng định và dẫn đường đưa tới thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám vĩ đại.

Sự gắn bó, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn trong phong cách tư duy Hồ Chí Minh còn thể hiện rõ nét trong lý luận xây dựng chế độ mới ở nước ta sau Cách mạng Tháng Tám, đó là lý luận xây dựng chế độ dân chủ mới để tiến lên CNXH. Về chính trị, là chủ trương xây dựng một Nhà nước pháp quyền dân chủ, đoàn kết dân tộc nhằm phát huy sức mạnh toàn dân để xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Về kinh tế, là thực hiện một nền kinh tế nhiều thành phần, nhiều loại hình sở hữu, lấy kinh tế nhà nước và tập thể để định hướng đến CNXH. Về văn hóa, là xây dựng nền văn hóa dân tộc - khoa học - đại chúng và thực hiện chính sách xã hội công bằng dựa trên sự đóng góp lao động của mỗi cá nhân.

Từ thực tiễn đất nước, với nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu và phải chiến đấu chống đế quốc mạnh về quân sự, Hồ Chí Minh chủ trương thực hiện đường lối toàn dân kháng chiến, toàn diện kháng chiến và trường kỳ kháng chiến. Để chống lại sự liên kết đế quốc, Người chủ trương ngoại giao đa phương, làm bạn với tất cả các nước dân chủ, không gây thù oán với một ai, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh quốc tế và sức mạnh thời đại để tăng cường thế và lực cho dân tộc chống lại những đế quốc lớn mạnh.

Coi chân lý là những gì có lợi cho Tổ quốc và nhân dân, Hồ Chí Minh là một nhà lãnh đạo của nhân dân, gắn bó, gần gũi với nhân dân, vì lợi ích của nhân dân. Chỉ tính trong khoảng 10 năm từ 1955 - 1965, mỗi năm, Người đã tiến hành hơn 70 lần đi cơ sở, gặp gỡ nhân dân... Bởi vậy, mọi chủ trương, chính sách mà Người ban hành đều đáp ứng nguyện vọng của đông đảo các tầng lớp nhân dân. Chính điều đó đã tạo được niềm tin của nhân dân đối với Đảng và chế độ. Bởi vậy, các phong trào do Hồ Chí Minh phát động đều được toàn dân tích cực tham gia với sự tự giác cao độ.

Lý luận gắn bó với thực tiễn được thể hiện trong tấm gương thực hành của Hồ Chí Minh. Lãnh đạo xây dựng chế độ dân chủ mới, Người là tấm gương điển hình trong thực hành dân chủ. Dẫn dắt dân tộc xây dựng một xã hội đạo đức, vì con người của XHCN, Người là tấm gương thực hành cần, kiệm, liêm chính, chí công vô tư. Chính tấm gương phong cách ấy đã làm cho tư tưởng của Người được thực hiện một cách sống động, hiệu quả trong nhân dân và Hồ Chí Minh trở thành một nhân vật vĩ đại sống mãi trong lòng nhân dân Việt Nam và nhân loại tiến bộ.

Để lý luận gắn với thực tiễn, Hồ Chí Minh cho rằng, trước hết phải nâng cao trình độ lý luận, khắc phục bệnh kém lý luận, bệnh khinh lý luận. Vì theo Người, những bệnh đó nhất định sẽ viện dẫn tới kinh nghiệm, tuyệt đối hoá kinh nghiệm và sẽ dẫn tới chủ nghĩa kinh nghiệm. Người chỉ rõ, không ít cán bộ, đảng viên “chỉ bo bo giữ lấy kinh nghiệm lẻ tẻ. Họ không hiểu rằng lý luận rất quan trọng cho sự thực hành cách mạng. Vì vậy, họ cứ cắm đầu nhắm mắt mà làm, không hiểu rõ toàn cuộc của cách mạng”(6).  Người cho rằng “kinh nghiệm của họ tuy tốt, nhưng cũng chẳng qua là từng bộ phận mà thôi, chỉ thiên về một mặt mà thôi. Có kinh nghiệm mà không có lý luận cũng như một mắt sáng một mắt mờ”(7). Bởi vậy, Hồ Chí Minh khẳng định, lý luận có vai trò “như cái kim chỉ nam, nó chỉ phương hướng cho chúng ta trong công việc thực tế. Không có lý luận thì lúng túng như nhắm mắt mà đi”(8), “Làm mà không có lý luận thì không khác gì đi mò trong đêm tối vừa chậm chạp vừa hay vấp váp”(9) và trước sự vận động của tình hình khách quan, những người như vậy sẽ lúng túng không giải quyết được những vấn đề mới của thực tiễn.

Mặt khác, theo Hồ Chí Minh, có lý luận thì phải liên hệ chặt chẽ với thực tiễn để tránh bệnh lý luận suông, giáo điều. Người cho rằng “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên”(10) và chỉ rõ: “Lý luận cốt để áp dụng vào công việc thực tế. Lý luận mà không áp dụng vào công việc thực tế là lý luận suông. Dù xem được hàng ngàn, hàng vạn quyển lý luận, nếu không biết đem ra thực hành, thì khác nào một cái hòm đựng sách”(11). Như vậy, theo Hồ Chí Minh, lý luận chỉ có ý nghĩa khi nó được vận dụng vào thực tiễn, phục vụ thực tiễn trong vai trò dẫn đắt, chỉ đạo thực tiễn đi tới kết quả. Đồng thời, khi vận dụng lý luận thì phải phù hợp điều kiện thực tiễn. Đó là sự tác động tương hỗ giữa lý luận và thực tiễn trong sự phát triển.

Bởi vậy, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở phải gắn lý luận và thực tiễn trong tư duy và hoạt động thực tiễn, phải khắc phục chủ nghĩa kinh nghiệm và chủ nghĩa giáo điều trên cơ sở ra sức học tập, nâng cao trình độ lý luận, học phải đi đôi với hành, lý luận phải liên hệ với thực tế. Theo Người, học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là “phải học tinh thần,... lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lênin để áp dụng lập trường, quan điểm và phương pháp ấy mà giải quyết cho tốt những vấn đề thực tế trong công tác cách mạng của chúng ta”(12) và “học tập chủ nghĩa Mác - Lênin là học tập cái tinh thần xử trí mọi việc, đối với mọi người và đối với bản thân mình, là học tập những chân lý phổ biến của chủ nghĩa Mác -Lênin để áp dụng một cách sáng tạo vào hoàn cảnh thực tế của nước ta. Học để mà làm”(13) nhưng không nên coi chủ nghĩa Mác - Lênin là giáo điều, là những công thức có sẵn.

Hồ Chí Minh căn dặn: Học tập kinh nghiệm và vận dụng kinh nghiệm của nước khác phải căn cứ vào hoàn cảnh lịch sử của dân tộc, nếu “không chú trọng đến đặc điểm của dân tộc mình... là sai lầm nghiêm trọng, là phạm chủ nghĩa giáo điều”. Nhưng, “nếu quá nhấn mạnh đặc điểm dân tộc để phủ nhận giá trị phổ biến của những kinh nghiệm lớn, cơ bản của các nước anh em, thì sẽ mắc sai lầm nghiêm trọng của chủ nghĩa xét lại”(14).

Hồ Chí Minh cũng nhắc nhở phải dùng lý luận để tổng kết kinh nghiệm thực tiễn nhằm nâng cao hiệu quả công tác. Người chỉ rõ: “...công việc gì bất kỳ thành công hoặc thất bại, chúng ta cần nghiên cứu cội rễ, phân tách thật rõ ràng rồi kết luận. Kết luận đó sẽ là cái chìa khóa phát triển công việc và để giúp cho cán bộ tiến tới”(15). Người cũng nhấn mạnh, cần phải nghiên cứu kinh nghiệm cũ để giúp cho thực hành mới, lại đem thực hành mới để phát triển kinh nghiệm cũ, làm cho nó đầy đủ dồi dào thêm. Đây chính là quá trình tổng kết kinh nghiệm từ thực tiễn, quá trình giúp cho lý luận được “bổ sung bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động”(16) và làm như vậy là để “cho nhận thức của chúng ta đối với các vấn đề đó được nâng cao hơn và công tác có kết quả hơn”(17).

Thực tiễn cách mạng nước ta đã có không ít thí dụ về sự thiếu gắn bó giữa lý luận và thực tiễn trong xây dựng và thực hiện đường lối cách mạng. Đó là sự giáo điều trong vận dụng lý luận đấu tranh giai cấp ở đầu những năm 30 thế kỷ XX; là giáo điều trong vận dụng kinh nghiệm của nước ngoài trong cải cách ruộng đất giữa những năm 50 thế kỷ XX; là việc muốn đẩy nhanh quá trình xây dựng CNXH tập trung vào việc nhanh chóng tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất, thực hiện hai hình thức sở hữu toàn dân và tập thể, không tính tới trình độ của lực lượng sản xuất và duy trì quá lâu tình hình phân phối có tính chất cào bằng của thời chiến vào thời bình. Thực chất của tình trạng trên là sự tách rời lý luận với thực tiễn trong tư duy, dẫn tới những sai lầm nghiêm trọng trong hoạch định và thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách, gây ra những khó khăn trong đấu tranh cách mạng và xây dựng xã hội mới ở nước ta.

Trong quá trình đổi mới xây dựng CNXH, Đảng đã khắc phục tình trạng trên trong hoạch định và chỉ đạo thực hiện đường lối, chủ trương nên nước ta đã vượt qua những khó khăn do chủ quan duy ý chí gây ra. Hiện nay, trước sự vận động ngày càng nhanh, mạnh của hiện thực khách quan ở trong nước và trên thế giới, việc học tập và vận dụng phong cách tư duy lý luận gắn với thực tiễn của Hồ Chí Minh càng có giá trị hết sức to lớn. Chỉ có thể tìm lời giải đúng đắn và tránh những sai lầm cho những vấn đề thực tiễn đặt ra một cách đúng đắn, kịp thời khi học tập, rèn luyện phong cách tư duy lý luận gắn với thực tiễn của Hồ Chí Minh và luôn nhớ lời Người: “phải biết rằng thực tiễn khách quan thay đổi hàng giờ hàng phút, một chủ trương của ta hôm nay đúng, hôm sau đã không hợp thời, nếu ta không tỉnh táo kiểm điểm những tư tưởng, hành vi của ta để bỏ đi những cái quá thời, sai hỏng, nhất định  ta sẽ không theo kịp tình thế, ta sẽ bị bỏ rơi, bị các bạn tỉnh táo nhanh nhẹn hơn vượt lên trước”(18).

__________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 8-2014

(1), (2), (3), (4), (5), (12), (13), (14), (16), (17) Hồ Chí Minh: Toàn tập, t.11, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011, tr.98, 400, 611, 95, 95, 611, 97-98, 96, 96.

(6) Sđd, t.7, tr.120.

(7), (8), (10), (11), (15) Sđd, t.5, tr.274, 273-274, 275, 274, 283.

(9) Sđd, t.6, tr.357.

(18) Sđd, t.4, tr.28.

 

PGS, TS  Phạm Hồng Chương

Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền