Trang chủ    Bài nổi bật    Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số vấn đề đặt ra với Việt Nam
Thứ ba, 22 Tháng 8 2017 09:57
2475 Lượt xem

Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và một số vấn đề đặt ra với Việt Nam

(LLCT) - Cách mạng công nghiệp lần thứ tư là một vấn đề hết sức mới mẻ đang đặt ra hiện nay cho toàn thế giới. Đặc trưng của cuộc cách mạng này là ứng dụng rộng rãi những thành tựu công nghệ cao, đặc biệt là công nghệ thông tin, số hóa,  trí tuệ nhân tạo, kết nối mạng để quản trị nhằm tạo ra những thay đổi đột phá trong phát triển kinh tế - xã hội của nhiều nước. Sự phát triển của cuộc cách mạng này đang đặt ra cả thời cơ và thách thức đòi hỏi phải nghiên cứu nhận diện cho rõ, từ đó sớm có chiến lược phát triển phù hợp để có thể thực hiện thành công con đường “phát triển rút ngắn”, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững ở Việt Nam.

1. Cách mạng công nghiệp lần thứ tư - Bước phát triển của kinh tế tri thức

Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, tại các nước phát triển, nhiều thành tựu của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại như công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ vũ trụ, hạt nhân, công nghệ nano, sinh học, công nghệ di truyền, gen,... được ứng dụng rộng rãi vào quá trình sản xuất cũng như các lĩnh vực của đời sống xã hội, khiến lực lượng sản xuất phát triển mang tính nhảy vọt. Bước phát triển đột phá này làm xuất hiện thuật ngữ “kinh tế tri thức” hoặc “phát triển dựa vào tri thức”.

Năm 2011, tại Hội chợ Công nghệ Hanover, Cộng hòa liên bang Đức, thuật ngữ “cách mạng công nghiệp lần thứ tư - gọi tắt là công nghiệp 4.0” lần đầu tiên được sử dụng. Ngày 20-1-2016, diễn đàn kinh tế thế giới tại Davos, Thụy Sỹ tổ chức một cuộc Hội thảo với chủ đề “Làm chủ cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư”. Từ đó đến nay, nhiều nghiên cứu cho rằng thế giới đang bước sang một cuộc cách mạng mới - “cách mạng công nghiệp lần thứ tư”.

Đặc trưng của cuộc cách mạng này là trí tuệ nhân tạo, số hóa, thông minh hóa các thiết bị, và sự hội tụ, dung hợp nhiều công nghệ, cũng như sự kết nối, tương tác giữa chúng trên các lĩnh vực trên quy mô rộng lớn, cho phép con người có thể kiểm soát mọi thứ từ xa, không giới hạn về không gian, thời gian. Nhờ đó quá trình tương tác diễn ra nhanh chóng, thuận tiện và chính xác hơn, giúp tối ưu hóa quy trình sản xuất, làm giảm chi phí, tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh trong bối cảnh toàn cầu hóa. Điển hình là các loại “sản phẩm thông minh” như máy thông minh nhân tạo (AI), rô bốt, mạng lưới kết nối vạn vật (IoT), các phương tiện không người lái, công nghệ in 3D, công nghệ thực tế ảo, công nghệ sinh học, khoa học vật liệu, năng lượng và máy tính lượng tử...

 Xét về bản chất, cách mạng công nghiệp lần thứ tư là bước phát triển mới ở trình độ cao hơn của kinh tế tri thức. Hiện nay, nó đang thu hút sự quan tâm đặc biệt của cộng đồng quốc tế. Ủy ban châu Âu (EC) đang triển khai khung nghiên cứu và đổi mới - sáng tạo Chương trình Horizon 2020 nhằm thúc đẩy các nghiên cứu phát triển khoa học và công nghệ, đổi mới, sáng tạo với kinh phí lên đến 80 tỷ Euro trong thời gian 7 năm (từ 2014 đến 2020)(1).

Bước phát triển mới của kinh tế tri thức ở giai đoạn công nghiệp 4.0 đang đặt ra nhiều vấn đề - cả thời cơ và thách thức đối với Việt Nam, đòi hỏi chúng ta phải nhận diện rõ để có chiến lược phát triển phù hợp.

2. Việt Nam trước tác động của cách mạng công nghiệp lần thứ tư

- Tác động đến phát triển lực lượng sản xuất

Việt Nam đang nỗ lực “đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa...; phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ”(2), trong đó, lĩnh vực công nghệ thông tin được xác định là ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn và là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển, nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, từng bước hiện thực hóa chiến lược “phát triển rút ngắn”, bảo đảm phát triển nhanh và bền vững.

Tuy nhiên, nền kinh tế Việt Nam đến nay vẫn đi theo mô hình công nghiệp hóa kiểu cũ với tư duy và thể chế quản lý cũ, do vậy tốc độ phát triển kinh tế chậm, không bền vững, năng lực đổi mới sáng tạo hạn chế. Năm 2016, trong bảng xếp hạng GII của WIPO, Đại học Cornell và Trường kinh doanh Insead, chỉ số đổi mới sáng tạo của Việt Nam chỉ đạt 35,4/100 điểm, xếp hạng 59 trong tổng số 128 quốc gia mà GII khảo sát, tụt 7 bậc so với năm 2015(3). Nền kinh tế nước ta phát triển chủ yếu phụ thuộc vào yếu tố vốn, tài nguyên thiên nhiên và lao động trình độ thấp (tăng trưởng do tích lũy vốn chiếm 52,7%). Do đó, chất lượng tăng trưởng thấp, năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện, nhất là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đổi mới công nghệ.

Để đẩy mạnh phát triển kinh tế tri thức và tiếp cận công nghiệp 4.0, đầu tư cho hạ tầng công nghệ thông tin là yêu cầu cấp thiết hiện nay. Dù đã có nhiều nỗ lực cải thiện, song hạ tầng công nghệ thông tin của nước ta còn yếu. Theo diễn đàn Kinh tế thế giới năm 2015, Việt Nam đứng thứ 85/143 quốc gia được xếp hạng về chỉ số sẵn sàng về hạ tầng mạng (Network Readiness Index), gần như không thay đổi so với năm 2013, 2014.

Trong thời gian tới, để phát triển kinh tế tri thức và công nghiệp 4.0, Việt Nam cần đầu tư phát triển mạnh hạ tầng kết nối công nghệ thông tin, hạn chế nhập khẩu công nghệ và thiết bị lạc hậu, triển khai có hiệu quả các dịch vụ viễn thông công ích, xây dựng cơ sở nền tảng kỹ thuật - công nghệ hiện đại. Về quản lý nhà nước, cần có hệ thống chính sách khuyến khích doanh nghiệp lựa chọn, tiếp nhận những công nghệ tiên tiến của thế giới.

Hiện nay, cách mạng công nghiệp lần thứ tư mới ở giai đoạn đầu, do vậy, nó đang mở ra nhiều cơ hội cho Việt Nam. Chúng ta có thể đẩy nhanh quá trình phát triển “rút ngắn” thông qua việc ứng dụng những thành tựu công nghệ hiện đại vào một số lĩnh vực mà Việt Nam có lợi thế để nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm với giá thành hợp lý, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốctế. Thí dụ đầu tư phát triển ngành du lịch biển và dịch vụ trung chuyển hàng hải; ứng dụng công nghệ cao vào sản xuất nông nghiệp, bảo đảm chất lượng, nâng cao giá trị kinh tế sản phẩm; hướng dẫn nông dân sản xuất nông sản sạch, hướng tới phát triển nền nông nghiệp xanh bền vững, tham gia vào chuỗi giá trị toàn cầu,... Điều này vừa khai thác hiệu quả nguồn lực sẵn có, nâng cao năng lực sản xuất trong nước, vừa cải thiện giá trị xuất khẩu.

Việc ứng dụng những thành tựu của công nghiệp 4.0 có khả năng mở ra những cơ hội mới cho sự phát triển nhanh và bền vững của Việt Nam nếu chúng ta quyết tâm đổi mới tư duy và xây dựng được chiến lược phát triển rút ngắn phù hợp. Song, đây vẫn đang là một thách thức lớn đối với Việt Nam, do kinh tế thế giới đang chuyển đổi rất nhanh sang mô hình phát triển mới, hiện đại, trong khi tư duy cũ của cách mạng 2.0 và giai đoạn đầu của cách mạng 3.0 vẫn đang chi phối mạnh ở mọi cấp độ quản lý và hệ thống chính trị Việt Nam.

- Thách thức đối với phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao và vấn đề lao động - việc làm

Với đặc trưng là ứng dụng phổ biến các thành tựu khoa học - công nghệ hiện đại, trí tuệ nhân tạo và kết nối mạng, sự phát triển của công nghiệp 4.0 đặt ra nhu cầu cấp bách phải có nguồn nhân lực chất lượng cao, nhất là trong lĩnh vực công nghệ thông tin và công nghệ cao. Nhiều nghiên cứu cho thấy, công nghiệp 4.0 tác động rất lớn đến cơ cấu nguồn nhân lực. Sẽ có sự chuyển dịch mạnh mẽ trong thị trường lao động theo hướng từ nguồn nhân lực giá rẻ - trình độ thấp sang nguồn nhân lực chất lượng cao, do vậy thị trường lao động truyền thống có nguy cơ bị phá vỡ.

Thách thức lớn nhất đối với lĩnh vực lao động việc làm là hiện nay Việt Nam có cơ cấu lao động lạc hậu, trình độ thấp, thiếu nghiêm trọng nguồn nhân lực chất lượng cao. Theo Tổng cục Thống kê, hiện nay tổng dân số trong độ tuổi lao động của nước ta (từ 15 tuổi trở lên) là 68.819.816 người, trong đó 82,7% chưa được đào tạo chuyên môn kỹ thuật. Nhân lực trình độ cao (tính từ đại học trở lên) chiếm số lượng ít, chất lượng nhìn chung chưa đáp ứng kịp những thay đổi nhanh chóng của công nghệ hiện đại. Cụ thể: trình độ đại học có 4.527.780 người (chiếm 6,58% lực lượng lao động); thạc sĩ: 215.343 người (chiếm 0,31%); tiến sĩ: 37.157 người (chiếm 0,05%)(4). Tính đến năm 2016, tổng số giáo sư, phó giáo sư là 12.322 người; trong đó có 1.745 giáo sư và 10.577 phó giáo sư(5). Như vậy, lực lượng lao động của nước ta hiện nay chủ yếu là lao động giản đơn, trình độ thấp. Với chất lượng nguồn nhân lực như vậy, tiếp cận công nghiệp 4.0 sẽ là một thách thức lớn đối với Việt Nam.

Với công nghiệp 4.0, cơ cấu lao động - việc làm sẽ có những thay đổi khác biệt so với sản xuất truyền thống. Số lượng việc làm do người lao động đảm nhiệm có nguy cơ giảm mạnh do việc ứng dụng ngày càng rộng rãi công nghệ rô bốt vào quá trình sản xuất. Diễn đàn Kinh tế thế giới dự báo giai đoạn 2015 - 2020, sẽ có trên 5,1 triệu lao động trên thế giới bị mất việc làm do những biến động của thị trường lao động. Nghiên cứu mới đây của Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) cho thấy, trong 2 thập kỷ tới, khoảng 56% số người lao động tại 5 quốc gia Đông Nam Á, trong đó có Việt Nam, có nguy cơ mất việc vì rô bốt, đặc biệt là trong ngành dệt may, da giày, lắp ráp điện tử, chế biến thủy hải sản, dịch vụ bán lẻ...

Đổi mới công nghệ và tăng cường ứng dụng công nghệ rô bốt trong quá trình sản xuất là xu hướng tất yếu, song cũng là nguy cơ lớn đối với doanh nghiệp và người lao động, đồng thời là nguyên nhân làm gia tăng phân hóa giàu - nghèo, phân hóa xã hội. Do vậy, chú trọng tăng nhanh tỷ lệ nguồn nhân lực có trình độ cao hướng tới tiêu chuẩn quốc tế là đòi hỏi cấp thiết hiện nay. Chính phủ và các bộ, ngành liên quan cần điều chỉnh các chính sách về đào tạo, nâng cao kỹ năng, phát triển nguồn nhân lực thích ứng với sự biến đổi của công nghệ và phát triển của cách mạng công nghiệp mới; đồng thời tập trung xây dựng hệ thống an sinh xã hội với những trụ đỡ về việc làm, thu nhập, bảo hiểm xã hội, trợ giúp xã hội.

- Đổi mới, sáng tạo và phát triển bền vững vừa là nhu cầu bức thiết, vừa là thách thức phải vượt qua

Trong kinh tế tri thức ở trình độ công nghiệp 4.0,đổi mới, sáng tạotrở thành nguồn năng lượng và là động lực chủ yếu của sự tăng trưởng và phát triển, đồng thời là nhân tố chính quyết định sự tiến bộ xã hội, là yếu tố làm thay đổi nhanh chóng cách thức tổ chức quản lý. Hiện nay, Việt Nam đã hội nhập và tham gia ngày càng nhiều vào hoạt động quốc tế có quy mô toàn cầu, đặc biệt là các hoạt động thương mại xuyên biên giới, xuất nhập khẩu các sản phẩm vô hình như phần mềm, nội dung số hay dịch vụ công nghệ thông tin... Việc tuân thủ các quy định quốc tế và quản lý các hoạt động này trở nên phức tạp, đòi hỏi Nhà nước và các cơ quan quản lý phải có phương thức quản lý hiệu quả để không kìm hãm sự phát triển của nền kinh tế.

Dưới góc độ môi trường, nhiều thành tựu công nghệ mới được ứng dụng cho phép tiết kiệm năng lượng, sử dụng các nguyên vật liệu thân thiện với môi trường và giúp con người đưa ra các cảnh báo sớm về các thảm họa thiên nhiên. Hiện nay, Trung tâm Nghiên cứu chính sách của cộng đồng châu Âu đang tập trung nghiên cứu các chính sách phát triển xanh để thực hiện có hiệu  quả  chiến  lược “châu Âu 2020”. Chiến lược này lấy mục tiêu chính là phát triển kinh tế tri thức xanh và bền vững, thí dụ chiến lược phát triển dựa vào sinh học (bio-based economy). Theo đó, các nguyên liệu, nhiên liệu được chế biến từ sinh khối bằng công nghệ sinh học và công nghệ nano, giúp hạn chế đến mức thấp nhất sử dụng nguyên nhiên liệu không tái tạo.

Hiện nay, nhiều quốc gia, nhất là các nước lớn đang dồn lực để chinh phục khoảng không và “xác định chủ quyền trên không trung” thông qua việc đưa các thiết bị công nghệ cao vào không gian vũ trụ. Điều này giúp cho sự liên kết giữa các nước trên thế giới trở nên gần gũi hơn, song cũng gây ra những bất ổn đe dọa tới cuộc sống bền vững của con người. Các hoạt động trên mặt đất và dưới mặt đất, cũng như trong không trung và vũ trụ luôn bị giám sát, theo dõi một cách chặt chẽ bởi vô số các thiết bị công nghệ kỹ thuật số chính xác đến từng centimet, điều này chứa đựng các nguy cơ tiềm ẩn về an toàn, an ninh thông tin. Thông tin bí mật của các quốc gia, tổ chức doanh nghiệp trở nên dễ dàng bị đánh cắp và can thiệp hơn bao giờ hết. 

Trong công nghiệp 4.0, việc sử dụng trí tuệ nhân tạo và kinh tế mạng để quản trị và sử dụng một cách hiệu quả các thành tựu khoa học - công nghệ cao đã làm hoán chuyển nền kinh tế thế giới sang trình độ mới, với cách thức quản lý mới. Bối cảnh đó đặt các quốc gia trước những thách thức to lớn trong cuộc chạy đua công nghệ với tính cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Nhìn một cách tổng quát, tiến trình phát triển của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư với cả thời cơ và thách thức giúp cho chúng ta chủ động, sẵn sàng hơn khi hội nhập vào sân chơi chung của thế giới.

_________________

Bài đăng trên Tạp chí Lý luận chính trị số 1-2017

(1) https: llec.europa.eu.

(2) ĐCSVN: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016, tr.77.

(3) http: baoquocte.vn.

(4) Bảng thống kê dân số từ 15 tuổi trở lên chia theo trình độ chuyên môn kỹ thuật cao nhất đã đạt được,  Tổng cục thống kê, 2016.

(5) http: hdcdgsnn.gov.vn, Phát biểu khai mạc của GS, TS Phùng Xuân Nhạ, Bộ trưởng Bộ GD&ĐT, tại Lễ Công bố Quyết định và trao Giấy chứng nhận đạt tiêu chuẩn chức danh GS, PGS năm 2016.

 

PGS, TS Bùi Thị Ngọc Lan

Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học,

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

Các bài viết khác

Thông tin tuyên truyền