Đồng chí Lê Hồng Phong - chiến sĩ cộng sản kiên cường, trọn đời chiến đấu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc
(LLCT) - Đồng chí Lê Hồng Phong là người chiến sĩ cộng sản kiên cường, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng, đã cống hiến cả cuộc đời cho sự nghiệp giải phóng dân tộc. Dưới sự dẫn dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, tinh thần và những cống hiến, hy sinh của đồng chí Lê Hồng Phong cho sự nghiệp cách mạng của Đảng mãi đồng hành cùng dân tộc đi tới tương lai.
(Đồng chí Lê Hồng Phong, ảnh: tư liệu)
1. Đồng chí Lê Hồng Phong tên thật là Lê Huy Doãn, sinh ngày 5-9-1902, trong một gia đình nông dân tại xã Hưng Thông, huyện Hưng Nguyên, tỉnh Nghệ An. Sớm trở thành người thợ, gắn bó với phong trào công nhân ở Vinh - Bến Thủy và từ đây, đồng chí bắt đầu hiến dâng cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng dân tộc.
Cuối năm 1923, ở tuổi 21, với ý chí yêu nước, Lê Hồng Phong cùng một số thanh niên đã đi Thái Lan rồi đến Quảng Châu (Trung Quốc) tìm đường cứu nước, cứu dân. Năm 1924, Lê Hồng Phong là một trong những người tham gia thành lập Tâm tâm xã, một tổ chức cách mạng của thanh niên yêu nước Việt Nam ở Trung Quốc, có ảnh hưởng mạnh mẽ đối với thanh niên nước ta lúc bấy giờ.
Năm 1925, khi Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt nam Cách mạng Thanh niên ở Quảng Châu, Lê Hồng Phong trở thành một trong những thanh niên Việt Nam đầu tiên gia nhập tổ chức cách mạng này khi đồng chí đang theo học Trường quân sự Hoàng Phố và bắt đầu sự nghiệp của một nhà cách mạng chuyên nghiệp dưới sự dẫn dắt của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc.
Cuối năm 1925, sau khi tốt nghiệp Trường quân sự Hoàng Phố, Lê Hồng Phong học tiếp tại Trường không quân ở Quảng Châu (1-1926 đến 9-1926) và sau đó được cử đi học ở Trường Không quân (BBC) ở Lêningrát, Liên Xô (10-1926 đến tháng 12-1927); sau khi tốt nghiệp, đồng chí lại được cử đi học ở Trường Cao đẳng không quân ở Bôrítxgơlépxcơ. Tháng 12-1928, đồng chí được chuyển tới học khóa 3 năm của Trường Đại học phương Đông (KYTB); kết thúc khóa học, đồng chí được chuyển tiếp làm nghiên cứu sinh.
Trước khi trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản Đông Dương, từ năm 1926, Lê Hồng Phong đã gia nhập Đảng Cộng sản Trung Quốc và năm 1928, trở thành đảng viên của Đảng Cộng sản (b) Nga (1928). Là đảng viên của ba Đảng Cộng sản, đồng chí còn là người Việt Nam đầu tiên và duy nhất, là một trong hai đại diệncủa các dân tộc thuộc địa được Đại hội VII Quốc tế cộng sản (năm 1935) bầu là Uỷ viên chính thức của Ban Chấp hành Quốc tế cộng sản sau khi trở thành Tổng Bí thư của Đảng Cộng sản Đông Dương.
Sự trưởng thành của Lê Hồng Phong trước hết là dưới ảnh hưởng mạnh mẽ của thời đại mới sau Cách mạng Tháng Mười Nga và sự giúp đỡ tích cực của Quốc tế cộng sản đối với cách mạng phương Đông; là ý chí yêu nước kiên cường, trí tuệ sáng suốt và thái độ dứt khoát trong giải phóng dân tộc của thế hệ thanh niên Việt Nam lúc đó, mà đồng chí là một đại diện. Nhưng ảnh hưởng có tính quyết định nhất là của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, với uy tín và sự giáo dục của Người, đã tác động mạnh mẽ và tạo ra bước ngoặt trong cuộc đời người thanh niên yêu nước Lê Hồng Phong để trở thành chiến sĩ cộng sản kiên trung, nhà lãnh đạo xuất sắc của Đảng trong tiến trình vận động giải phóng dân tộc ở nước ta.
2. Sau cao trào Xô viết Nghệ Tĩnh (1930-1931), thực dân Pháp tiến hành khủng bố trắng hòng tiêu diệt phong trào cách mạng nước ta, trước hết là nhằm vào Đảng Cộng sản Đông Dương. Chỉ trong hai năm 1930-1931, hầu như toàn bộ hệ thống tổ chức của Đảng bị địch phá vỡ, nhiều đồng chí lãnh đạo cao cấp của Đảng bị địch bắt và giết hại(1).
Trong những năm này, cách mạng Trung Quốc cũng gặp nhiều khó khăn. Tháng 9-1931, đế quốc Nhật xâm lược vùng Đông Bắc Trung Quốc, Tưởng Giới Thạch không chủ trương chống Nhật mà lại tấn công vào Đảng Cộng sản Trung Quốc. Trước áp lực đó, từ tháng 10-1934, Đảng Cộng sản Trung Quốc phải tiến hành cuộc vạn lý trường chinh nhằm bảo toàn lực lượng trước sự truy đuổi của quân đội Quốc dân Đảng. Vì vậy, mối liên hệ của Đảng ta với Quốc tế cộng sản và các Đảng Cộng sản khác gặp khó khăn, địa bàn đứng chân và sự hỗ trợ cho Đảng ta ở Trung Quốc bị phá vỡ. Thực dân Pháp lại liên kết với đế quốc Anh và giới quân phiệt Quốc dân Đảng lùng bắt những người cộng sản Việt Nam(2).
Trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù và những tổn thất về tổ chức, cán bộ cũng như của phong trào cách mạng ở trong và ngoài nước, đã nảy sinh vấn đề tư tưởng trong Đảng và quần chúng cách mạng. Do vậy, để khôi phục Đảng không chỉ là vấn đề tổ chức, tư tưởng, mà còn cả những vấn đề liên quan tới chiến lược, sách lược, phương pháp cách mạng trước sự biến chuyển nhanh chóng của tình hình, nhiệm vụ cách mạng ở trong nước và trên thế giới.
Trước tình hình cực kỳ khó khăn đó, mặc dù chưa hoàn thành chương trình nghiên cứu sinh, Lê Hồng Phong đã lãnh trách nhiệm trước Quốc tế cộng sản trở về lãnh đạo khôi phục Đảng và phong trào cách mạng ở Việt Nam.
Từ Mátxcơva qua Pháp để về Hương Cảng, Lê Hồng Phong phải vòng qua Thái Lan rồi đi Nam Ninh, Quảng Tây, Trung Quốc (4-1932) để chắp nối liên lạc với Đảng ta. Thời gian này, trong những điều kiện hết sức khó khăn, đồng chí đã thành công trong tổ chức khôi phục hệ thống liên lạc với các cơ sở đảng ở trong nước, ở Lào, Xiêm và với Quốc tế cộng sản.
Cũng từ năm 1932, cùng với nhiệm vụ khôi phục tổ chức của Đảng và phong trào cách mạng trong nước, để thống nhất tư tưởng và phương pháp cách mạng trong tình hình mới, Lê Hồng Phong và một số đồng chí lãnh đạo đã tiến hành kiểm điểm công tác của Đảng và chủ trương tuyên truyền Chương trình hành động của Đảng Cộng sản Đông Dương - văn kiện có tính chất như một cương lĩnh tối thiểu của Đảng. Đây là một đóng góp to lớn của đồng chí Lê Hồng Phong đối với hoạt động của Đảng trong hoàn cảnh lúc này.
Tháng 6-1934, Lê Hồng Phong cùng các đồng chí Hà Huy Tập, Phùng Chí Kiên tổ chức Hội nghị cán bộ của Đảng ở Ma Cao và thành lập Ban lãnh đạo hải ngoại của Đảng, có chức năng như Ban Chấp hành Trung ương lâm thời, do đồng chí đứng đầu. Ban lãnh đạo hải ngoại có nhiệm vụ khôi phục các cơ sở đảng và chuẩn bị các điều kiện để triệu tập Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ nhất của Đảng. Dưới sự chỉ đạo của Lê Hồng Phong, Ban lãnh đạo hải ngoại đã xuất bản Tạp chí Bônsêvích để tuyên truyền đường lối của Đảng nhằm thống nhất tư tưởng, hành động trong Đảng và phong trào cách mạng nước ta.
Từ ngày 27 đến 31-3-1935, Đại hội đại biểu lần thứ nhất của Đảng Cộng sản Đông Dương được tổ chức tại Ma Cao (Trung Quốc) đã đề ra nhiệm vụ trước mắt là củng cố Đảng, tăng cường tập hợp quần chúng, chống chiến tranh đế quốc. Đại hội đã bầu ra BCHTƯ chính thức gồm 13 ủy viên. Mặc dù, Lê Hồng Phong đi dự Đại Hội VII Quốc tế cộng sản trước khi họp Đại hội nhưng đồng chí vẫn được Đại hội bầu là Tổng Bí thư của Đảng.
Tại Đại hội VII của Quốc tế cộng sản (7-1935), Lê Hồng Phong đã được bầu là Uỷ viên chính thức của BCH Quốc tế cộng sản và Đảng ta cũng được công nhận là phân bộ trực thuộc Quốc tế cộng sản.
Tháng 7-1936, dưới sự chủ trì của Lê Hồng Phong, Hội nghị BCH Trung ương Đảng họp tại Thượng Hải đã đề ra những vấn đề chiến lược, sách lược đúng đắn của cách mạng Đông Dương và chỉ ra nhiệm vụ trước mắt của Đảng là chống chủ nghĩa phát xít, chống chiến tranh đế quốc, chống phản động thuộc địa và tay sai, đòi tự do, dân chủ, cơm áo và hòa bình. Tại Hội nghị này, đồng chí đã truyền đạt chủ trương của Quốc tế cộng sản và cùng BCHTƯ Đảng đề ra nhiệm vụ thành lập Mặt trận phản đế rộng rãi nhằm dự bị điều kiện cho cuộc vận động dân tộc giải phóng sau này và thống nhất trong Đảng các phương thức hoạt động mới phù hợp với điều kiện lịch sử và nhiệm vụ mới.
Lãnh đạo khôi phục tổ chức Đảng và thống nhất về chiến lược, sách lược, chuẩn bị những tiền đề về tổ chức và chính trị tư tưởng, đưa phong trào cách mạng giải phóng dân tộc ở nước ta vượt qua giai đoạn cực kỳ khó khăn (1931-1935) để chuyển sang giai đoạn phát triển mới (1936-1939) đã cho thấy ý chí kiên cường, năng lực lãnh đạo của đồng chí Lê Hồng Phong.
Tháng 11-1937, trở về Sài gònsau 15 năm học tập và hoạt động ở nước ngoài, Lê Hồng Phong cùng với BCHTƯ Đảng chỉ đạo thực hiện đường lối, chính sách của Đảng ta trong tình hình mới, góp phần thành lập Mặt trận dân chủ chống phát xít, tiến hành cuộc đấu tranh chống lại bọn tờrốtkít và các khuynh hướng cô độc hẹp hòi trong Đảng, góp phần tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của phong trào cách mạng nước ta trong thời kỳ Mặt trận dân chủ.
3. Với ý chí kiên trung của người cộng sản, Lê Hồng Phong và những chiến sĩ cộng sản đã lãnh đạo Đảng ta vượt qua giai đoạn rất khó khăn của cuộc vận động giải phóng dân tộc và trở thành một trong những nhà lãnh đạo có ảnh hưởng thúc đẩy lịch sử phát triển của Đảng và dân tộc tiến lên.
Năm 1939, trước tình hình thực tiễn của Đảng và cách mạng, Lê Hồng Phong đã viết: “sau mỗi cuộc tranh đấu, vô luận thắng hay bại, chúng ta cần nghiên cứu kỹ càng các nguyên nhân, để làm bài học; chớ không vì một sự thắng lợi mà múa tay, múa chân, rung đùi lắc gối, cũng không vì thất bại mà khổ tâm, nản chí, đâm ra dụ dự lung lay, hoài nghi con đường chính trị của Đảng. Điều nguy hiểm hơn hết là sau mỗi cuộc thất bại, không chịu nhận những chỗ sai lầm căn bổn đã dẫn tới thất bại, mà lại tìm cớ khác để vu khống Đảng, bôi bác Đảng.
Đó là một cử chỉ không bônsêvích chút nào. Đó là sự hành động phá hoại ảnh hưởng của Đảng”.
Theo nguyên tắc sinh hoạt Đảng, Lê Hồng Phong xác định: "Đảng ta rất hoan nghênh sự tự do chỉ trích của hết thảy đảng viên, song chỉ trích phải thành thực và có nguyên tắc, đừng để cho bọn địch nhân lợi dụng chửi rủa vu cáo cho Đảng và cũng đừng theo đuổi hoài nghi trong Đảng, giúp cho sự chia rẽ bè phái, phá hoại ý chí và tổ chức thống nhứt của Đảng”. Theo đồng chí, “sự tự chỉ trích phải thành thực đích xác để củng cố Đảng và tăng thêm tín nhiệm cho Đảng chớ không phải vu cáo cho Đảng và giúp cho địch nhơn chưởi Đảng”(3).
Đồng chí Lê Hồng Phong chỉ ra rằng, nếu trong hoạt động thực tiễn có thất bại, Đảng phải tìm cho được “nguyên nhân chính ở đâu” và “cần phải thành thực đưa ra cho hết thảy đồng chí làm một bài học huấn luyện, chớ không thể dấu bít nguyên nhân chính, rồi đổ lỗi cho Đảng"(4). Theo đồng chí, việc “thành tâm công bố nguyên nhân chính cốt và kể cả những nguyên nhân khác” chính là “để sửa chữa sai lầmcho toàn đảng viên và để tự giáo dục và huấn luyện mình nữa”(5).
Với tinh thần kiên trung của người cộng sản, đồng chí còn nêu rõ: “Làm người cách mạng đã nhận thấy chân chính lẽ phải thì cứ làm, cứ nói mặc dầu địch nhân chửi rủa mình cũng không vì thế mà bỏ cuộc tranh đấu, kiên quyết tranh đấu để cho mọi người đều thấy lẽ phải. Sợ công kích mà không dám kiên quyết vì lẽ phải mà tranh đấu, ấy là đầu cơ dụ dự theo đuôi rất nguy hiểm”(6).
Lãnh đạo thành công cuộc chiến đấu để bảo tồn, phát triển Đảng trước sự khủng bố khốc liệt của kẻ thù và hoàn thành nhiệm vụ thống nhất tư tưởng của Đảng trước những chuyển biến nhanh chóng, phức tạp của thời cuộc và tình hình, nhiệm vụ cách mạng nước ta, đồng chí Lê Hồng Phong đã để lại cho Đảng ta nhiều chỉ dẫn quan trọng.
Đồng chí viết: “Đảng là đại biểu ý chí của tất cả chiến sĩ toàn xứ, không thể muốn được lòng hết thảy các cá nhân, mà ai nói sao đảng cũng cho là phải, cứ cúi đầu nhận là đúng. Sự thành thực nhận lỗi như thế, nó sẽ đưa đảng tới chỗ chết không thể cứu. Đảng phải là chỗ tập trung ý chí tất thảy đảng viên. Đảng phải là chỗ trung tâm chỉ đạo, đội tiên phong của giai cấp vô sản và dân tộc bị áp bức”(7).
Nhưng, để làm được điều đó, đồng chí Lê Hồng Phong xác định Đảng phải tiến hành cuộc đấu tranh chống lại mọi biểu hiện phá hoại sự thống nhất trong Đảng để Đảng trở thành hạt nhân đoàn kết. Đồng chí chỉ rõ: “Trong cuộc tranh đấu chống tả khuynh, hữu khuynh và kẻ thỏa hiệp với nó, tranh đấu chống đầu cơ chủ nghĩa, chống xu hướng lập bè phái, đó là điều kiện để làm cho đảng được củng cố thống nhứt, mạnh mẽ, đủ năng lực chống lại hết thảy địch nhân, đưa cách mạng tới thắng lợi”(8).
Đồng chí Lê Hồng Phong cũng nhắc nhở chúng ta: “Kinh nghiệm lịch sử cho ta biết rằng: Vô luận một nước nào, dân tộc nào, giai cấp nào, đảng phái nào, nếu trong nội bộ chia rẽ, hành động không nhất trí thì không thể tranh đấu một cách thắng lợi với địch nhân”(9).
Ngày 22-6-1939, Lê Hồng Phong bị thực dân Pháp bắt lần thứ nhất ở Sài Gòn và bị kết án 6 tháng tù. Ngày 6-2-1940, đồng chí bị bắt lần thứ hai, bị kết án 5 năm tù và đày đi Côn Đảo và đã anh dũng hy sinh ngày 6-9-1942 tại nhà tù Côn Đảo.
_______________
(1) Tháng 4-1931, Tổng bí thư Trần Phú bị bắt và hy sinh trong ngục tù đế quốc. Ngày 6-6-1931, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc bị đế quốc Anh bắt ở Hồng Kông. Một loạt các Uỷ viên BCHTƯ Đảng bị bắt và bị sát hại: Đồng chí Nguyễn Phong Sắc - Bí thư Xứ uỷ Trung kỳ bị thực dân Pháp bắt và bí mật thủ tiêu năm 1931; đồng chí Nguyễn Đức Cảnh - Bí thư xứ uỷ Bắc kỳ bị địch bắt và xử bắn tháng 7-1932; đồng chí Ngô Gia Tự - Bí thư chấp uỷ lâm thời Nam kỳ hy sinh khi vượt ngục tù Côn Đảo năm 1934...
(2) Sau lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc, các đồng chí Hồ Tùng Mậu, Nguyễn thị Minh Khai, Trương Vân Lĩnh... cũng lần lượt bị địch bắt
(3), (4), (5) Bài học trong kỳ tuyển cử Hội đồng quản hạt, Báo Dân chúng số 67, ngày 23-5-1939
(6), (9) Đảng lập hiến có bị quần chúng đánh đổ không?, Báo Dân chúng số 68, ngày 31-5-1939
(7), (8) Có phải chủ trơng đánh đổ đảng lập hiến mà bọn trốtkít thắng thăm không?, Báo Dân chúng, số 69, ngày 7-6-1939.
PGS, TS Phạm Hồng Chương
Viện Hồ Chí Minh và các lãnh tụ của Đảng,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh
Đại hội Đảng bộ Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh nhiệm kỳ 2020-2025
Giới thiệu Tạp chí in
Tin Ảnh
- Hội thảo khoa học “Vai trò, trách nhiệm của hội viên Liên Chi hội Nhà báo Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh”
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh tổ chức “Lễ mít tinh hưởng ứng Ngày Thế giới không thuốc lá (31-5) và Tuần lễ Quốc gia không thuốc lá năm 2022”
- Toàn cảnh Hội Báo toàn quốc năm 2022 với chủ đề: Báo chí Việt Nam đoàn kết, chuyên nghiệp, hiện đại và nhân văn
Tóm tắt bài Tạp chí in số mới nhất
- Chính sách của Trung Quốc đối với Mỹ từ năm 2012 đến nay
- Kinh nghiệm liên kết giữa doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài với doanh nghiệp nội địa của Thái Lan và Malaixia
- Tư tưởng đề cao tự do cá nhân và thể chế kiểm soát quyền lực nhà nước của Hoa Kỳ
- Bảo đảm quyền tham gia của người dân trong tiến trình xây dựng chính phủ số ở Việt Nam
- Quan hệ chính trị quốc tế và thời cơ phát triển của Việt Nam theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng